CHƯƠNG II LỢI VÀ NGHĨA
Từ xưa tới nay, hễ nhắc tới Mặc tử thì ai cũng nghĩ ngay đến thuyết kiêm ái: mọi người đều yêu nhau như chính bản thân mình, không phân biệt người và ta: kiêm ái là gốc, còn “tôn thiên” (tôn kính trời), “minh quỉ” (tin có quỉ thần), “tiết dụng” (bớt tiêu xài), “phi nhạc” (chê nhạc là vô ích, có hại), “phi công” (mạt sát sự đánh chiếm nước người)… chỉ là những chi nhánh thôi.
Cứu loạn cho thiên hạ là mục đích của tất cả triết gia Trung Hoa thời Tiên Tần. Chế độ phong kiến Trung Hoa rất đặc biệt, không nơi nào có. Vua nhà Chu làm thiên tử, phong tước cho các công thần, thân thích. Có bốn bậc: công, hầu, bá, tử với nam cùng một bậc. Tuỳ tước cao thấp mà cấp đất để dựng nước (thời đó gọi là bang, từ đời Hán, kiêng tên Lưu Bang mới gọi là quốc): đất của công, hầu vuông vức trăm dặm; đất của các bá bảy chục dặm, các tử và nam năm chục dặm (theo nguyên tắc đất của thiên tử ngàn dặm). Binh lực cũng được qui định: công, hầu có ngàn cổ chiến xa (mỗi chiến xa có bốn ngựa, một người đánh xe, một quân cầm thương, một quân bắn cung), dưới nữa thì có trăm chiến xa (thiên tử có vạn chiến xa).
Hết thảy các nước đó đều là chư hầu. Họ có bổn phận trung thành với thiên tử, đúng kì hạn phải triều cống thiên tử. Ngược lại các thiên tử có bổn phận che chở, giúp đỡ, giải quyết những xung đột giữa các chư hầu vì họ không được gây chiến với nhau. Cứ năm năm một lần thiên tử đi thăm họ, xem xét chính tích của họ, tình hình trong xứ: đời sống của dân chúng, lễ nhạc, giáo hoá, phong tục.
Nhờ chế độ đó mà Trung Hoa đã thống nhất đời Chu, cho nên trong Kinh Thi (thiên Bắc Sơn, tập Tiểu Nhã) có câu: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi vương thần”[1]. Khắp gầm trời không đâu không phải đất của nhà vua, khắp mặt đất bến nước, không người nào không phải là bề tôi của vua. (Coi bài Đông Chu 10 – Chiến Quốc sách – Lá Bối 1973).
Cho nên quan niệm “quốc gia” của chúng ta ngày nay, thời Chiến Quốc người Trung Hoa không có. Khổng tử, Mặc tử sinh trưởng ở Lỗ, Mạnh tử ở Trâu, sát Lỗ, mà đều không coi Lỗ, Trâu là “quốc gia” của mình, nếu không được vua dùng mình, thì không ngại gì qua Tề, Tống, Vệ… để tìm một ông vua khác, và khi đã làm quan một nước nào thì cũng nhắm mục đích phục vụ cho cả thiên hạ. Chữ thiên hạ của Trung Hoa trỏ họ và tất cả những dân tộc mà họ tiếp xúc thời đó, có nghĩa tương tự như thế giới ngày nay. Vậy Mặc tử không phải là triết gia đầu tiên muốn thống nhất Trung Hoa. Các triết gia khác cũng muốn vậy, và để thực hiện ý tưởng chung đó, mỗi nhà có một chủ trương riêng.
Chủ trương của Mặc tử có nhiều điểm khác đời (chúng tôi sẽ lần lượt xét trong phần này); theo chúng tôi, điểm đặc biệt nhất – là ông can đảm nói hoài đến lợi, trong khi các triết gia khác, đặc biệt là Nho gia, rất ít nói tới, có khi khinh bỉ không thèm nói tới nữa.
Lật bộ Luận ngữ, chúng tôi chỉ thấy chữ lợi xuất hiện hai lần[2]:
Thiên Tử Lộ, bài 17, Khổng tử khuyên Tử Hạ trong việc trị nước: “Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành”[3]. (Đừng muốn cho mau xong, đừng ham lợi nhỏ. Muốn[4] cho mau xong thì công việc không được chu đáo; ham cái lợi nhỏ thì việc lớn không thành).
Và thiên Lí nhân, bài 16: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”[5]. (Bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về việc lợi).
Còn bộ Mạnh tử thì ngay ở trang đầu, chúng ta đã thấy Mạnh tử trách Lương Huệ vương là chỉ nghĩ đến lợi, không nghĩ đến nhân nghĩa: “Vương hà tất viết lợi? Diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ”[6]. – Lương Huệ vương thượng, bài 1.
Trong những thiên tiếp theo, ông còn mạt sát lợi nhiều hơn nữa để đề cao nhân, nghĩa. Còn hơn Khổng tử, ông tách lợi với nghĩa ra, hai chữ đó chống nhau, hễ có lợi thì không có nghĩa, lợi làm hại cho nghĩa.
Mặc tử trái lại, nói đến lợi không biết mấy chục lần:
Thiên Phi mệnh hạ, ông bảo hễ nói năng, bàn luận thì theo ba tiêu chuẩn quan trọng nhất là xem điều mình nói có lợi cho vạn dân không.
Thiên Tiết dụng thượng: “Thánh nhân trị nước, khi ra lệnh làm một việc gì, khiến dân dùng của cải, thì xem xét việc đó có ích không rồi mới làm, vì vậy mà không phí của cải, không mệt sức dân lại lợi được nhiều”.
Thiên Phi nhạc thượng: “Người nhân làm việc gì tất là mong lấy cái lợi, trừ cái hại trong thiên hạ, mà lấy điều dưới đây làm phép tắc cho thiên hạ: cái gì lợi cho người thì làm, không lợi thì ngưng” (Nhân giả chi sự, tất vụ cầu hưng thiên hạ chi lợi, trừ thiên hạ chi hại, tương dĩ vi pháp hồ thiên hạ, lợi nhân hồ tức vi, bất lợi nhân hồ tức chỉ[7]).
Thiên Kiêm ái trung, lời cũng y hệt vậy: “Người nhân sở dĩ làm việc là để gây cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ” (Nhân nhân chi sở dĩ vi sự giả, tất hưng thiên hạ chi lợi, trừ khử thiên hạ chi hại[8]).
Trong hai câu cuối mới dẫn, ông đồng hoá lợi với nhân: người nhân làm người làm lợi cho thiên hạ. Vì vậy hễ nói đến kiêm ái (nhân) thì ông thường kèm theo “giao tương lợi” (gồm yêu nhau, làm lợi lẫn cho nhau).
Trong thiên Thiên chí[9], ông đồng hoá lợi với nghĩa nữa: “Nghĩa là cái gì chính đáng. Sao biết nghĩa là chính đáng? Thiên hạ có lợi thì trị, vô nghĩa thì loạn. Ta lấy đó mà biết rằng nghĩa là cái gì chính đáng” (Nghĩa giả chính giả. Hà dĩ tri nghĩa chi vi chính giả? Thiên hạ hữu lợi tắc trị, vô nghĩa tắc loạn. Ngã dĩ thủ tri nghĩa chi vi chính dã[10]).
Độc giả nhận thấy ông không phân biệt nghĩa và lợi cho nên mới nói: hữu lợi tắc trị, vô nghĩa tắc loạn. Mạnh tử tất nói khác: hữu lợi tắc trị, vô nghĩa tắc loạn.
Mặc tử cũng trọng nhân, nghĩa như Khổng, Mạnh. “Kiêm ái” của ông tức là “nhân” sửa đổi, mở rộng ra; còn nghĩa thì cũng như Mạnh tử, ông quí nó hơn mạng người.
Mạnh tử bảo: “Sống thì ta cũng muốn, mà nghĩa thì ta cũng mộ. Nếu không được cả hai một lượt thì ta đành bỏ mạng sống mà giữ lấy nghĩa” (Cáo tử thượng – 10).
Mặc tử bảo: “Mọi sự không gì quí bằng nghĩa. Nay thử bảo một người: “Tôi cho ông mũ và giày mà chặt tay chân ông, ông chịu không?” Người đó tất không chịu. Tại sao? Tại mũ giày không quí bằng tay chân. Lại bảo: “Tôi cho ông cả thiên hạ mà giết ông, ông chịu không? Người đó tất không chịu. Tại sao? Tại thiên hạ không quí bằng thân thể mình. (Nhưng người ta) tranh nhau một lời mà giết nhau, thế là quí nghĩa hơn thân thể (sinh mạng). Cho nên tôi bảo: “Mọi sự không gì quí hơn nghĩa”.
Lí luận của Mặc tử không đúng. Tranh nhau một lời mà giết nhau, chưa chắc đã vì quí nghĩa, mà nhiều khi chỉ vì hiếu thắng. Nhưng chúng ta nên nhớ là ông cho nghĩa quí hơn mọi sự ở đời (Vạn sự mạc quí ư nghĩa).
Mặc tử đã đồng hoá lợi với nghĩa, coi lợi với nghĩa là một, mà lại cho nghĩa quí hơn mọi sự ở đời thì tất cũng coi lợi quí hơn mọi sự ở đời.
Cái lợi đó tất không phải là tư lợi. Không một triết gia nào của Trung Hoa mà không mạt sát tư lợi – chúng tôi không kể các pháp gia. Thiên Kiêm ái thượng, khi xét nguồn gốc của loạn, Mặc bảo:
“Các quan đại phu chỉ yêu nhà mình mà không yêu nhà khác, cho nên mới làm loạn nhà khác để lợi cho nhà mình; các vua chư hầu chỉ yêu nước mình mà không yêu nước khác, cho nên mới đánh chiếm nước khác để lợi cho nước mình. Các việc loạn trong thiên hạ đều như vậy mà thôi”. (Đại phu các ái kì gia, bất ái dị gia, cố loạn dị gia, dĩ lợi kì gia; chư hầu các ái kì quốc, bất ái dị quốc, cố công dị quốc, dĩ lợi kì quốc. Thiên hạ chi loạn vật, cụ thử nhi dĩ hĩ[11]).
Đời sau, Mạnh tử cũng diễn ý đó, chỉ có lời là khác:
“Nhà vua, tức Lương Huệ vương – hỏi: Có các gì làm lợi cho nước ta? Các quan đại phu cũng hỏi: Có cách gì làm lợi cho nhà ta? Kẻ sĩ và thường dân cũng hỏi: Có cách gì làm lợi cho thân ta? Trên dưới đều tranh nhau vì lợi mà nước sẽ nguy”. (Vương viết: Hà dĩ lợi ngô quốc? Đại phu viết: Hà dĩ lợi ngô gia? Sĩ thứ nhân viết: Hà dĩ lợi ngô thân? Thượng hạ giao chính lợi nhi quốc nguy hĩ[12]).
Ngay việc một ông vua làm lợi cho nước, cho dân mà Mạnh tử cũng chê, y như Mặc tử. Cả hai đều muốn làm lợi cho khắp thiên hạ, chứ không phải cho riêng một nước nào, một dân tộc nào.
Thiên Công tôn Sửu hạ, bài 12, Mạnh tử bảo một môn sinh là Cáo Tử: “Nếu nhà vua – Tề Tuyên vương – biết dùng thầy thì thầy sẽ làm cho nước Tề an cư lạc nghiệp mà toàn dân trong thiên hạ cũng được vui cảnh thái bình nữa”.
Và ông rầu rầu nói với một đệ tử khác là Sung Ngu: “Trời chưa muốn thiên hạ được bình trị; nếu muốn thì ở thời này, ngoài ta ra còn ai giúp được?” (Thiên vị dục bình trị thiên hạ dã; như dục bình trị thiên hạ, đương kim chi thế, xả ngã kì thuỳ dã[13] – Công tôn Sửu hạ, 13).
Mặc tử, thiên Phi công trung, chép rằng một người bênh vực chính sách đánh chiếm nước người, bảo bốn nước Sở, Ngô, Tề, Tấn nhờ chính sách đó mà mở rộng đất đai lên tới ngàn dặm, tăng số dân từ vài chục vạn lên mấy triệu người, Mặc tử đáp:
“Tuy bốn năm nước được lợi đấy, tôi vẫn cho rằng như vậy không phải là theo đạo. Cũng tỉ như nghề dùng thuốc trị bệnh; nay có một y sĩ (…) trị bịnh cho thiên hạ, một vạn người dùng thuốc mà chỉ có bốn năm người được lợi (khỏi bịnh) thì tôi vẫn cho như vậy không phải là biết làm nghề thuốc”.
Cái lợi cho thiên hạ đó, Mặc tử cho cũng là lợi cho Trời và quỉ thần. Ông bảo: Thuận ý Trời thì phải yêu lẫn nhau, làm lợi lẫn nhau (Thiên chí thượng), lại bảo: Quỉ thần muốn rằng người nào chức cao bổng hậu thì phải kính người hiền, có nhiều của thì phải chia cho người nghèo (Lỗ vấn – 16).
Ý đó cũng là ý của Khổng giáo. Khổng, Mạnh luôn luôn khuyên các vua chúa theo ý dân, dân muốn gì thì vua chúa phải làm thoả mãn cái đó, vì dân muốn là trời muốn. Lời đó cơ hồ là truyền thống của Trung Hoa.
Thiên Tiểu Nhã - Kinh Thi có bài:
Lạc chi quân tử, dân chi phụ mẫu,
Dân chi sở hiếu, hiếu chi,
Dân chi sở ố, ố chi,
Thử chi vị dân chi phụ mẫu.
“Vui vẻ hoà thuận thay người quân tử ấy, thực đáng làm cha mẹ dân.
Dân thích cái gì, ông thích cái đó.
Dân ghét cái gì, ông ghét cái đó[14].
Như vậy nên bảo đáng làm cha mẹ dân”.
Sở dĩ theo ý dân vì ý dân với ý trời là một: “Trời thương dân, dân muốn làm gì trời cũng theo” (Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chi).
Cho nên muốn biết lòng trời thì cứ xét lòng dân: “Trời trông thấy tự ở dân ta trông thấy, trời nghe thấy tự ở dân ta nghe thấy” (Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân thính – Thư – Thái thệ[15]).
Tóm lại, Khổng và Mặc không khác nhau về chủ trương phải mưu cầu hạnh phúc cho thiên hạ, về quan niệm lợi cho dân tức là hợp ý trời, lợi cho trời (vì trời yêu dân, giúp dân). Họ chỉ khác nhau ở danh từ: Khổng giáo gọi là nghĩa thì Mặc giáo gọi là lợi.
So sánh hai đoạn dưới đây, một của Mặc, một của Mạnh, ta thấy cùng là thuyết phục các vua chư hầu đừng đánh chiếm lẫn nhau, mà mỗi nhà có một giọng khác: một bên chỉ giảng về cái hại của chiến tranh, một bên chỉ giảng về nhân nghĩa.
Mặc tử bảo:
“Trị nước mà (đánh chiếm nước ngoài, nên phải) chiếm đạt vật dụng của dân làm mất cái lợi của dân quá nhiều, thế thì làm sao? Đáp: Vì ham cái danh thắng người và hám được lợi, cho nên làm (…) Xét cái danh thắng người thì nó không dùng được vào việc gì; xét cái lợi thì nó không bù được cái mất mát quá nhiều. Nay tấn công một lớp thành trong (chu vi) ba dặm, một lớp thành ngoài (chu vi) bảy dặm, không dùng khí giới cứng và sắc, không giết nhiều người thì làm sao mà thắng được? Giết người, nhiều thì hằng vạn, ít cũng hằng ngàn, rồi mới chiếm được lớp thành trong ba dặm, lớp thành ngoài bảy dặm; nay một nước có vạn cỗ xe thì số thành có trên ngàn, không vào cho xuể được, số đồng ruộng có trên vạn, không thể chiếm hết được; như vậy là đất đai (của người) có dư, mà binh sĩ (của mình) không đủ; bắt binh sĩ của mình chết hết, gây tai hoạ nghiêm khốc cho người trên kẻ dưới để tranh thành tức là khinh bỏ cái không đủ (binh sĩ của mình) mà trọng cái dư (đất đai của người), theo chính sách đó đâu phải là biết lo việc nước”. (Phi công trung).
Non một thế kỉ sau, Tống Hình đi yết kiến vua Sở và vua Tần để khuyên họ bãi binh, đừng đánh nhau, và cho Mạnh tử hay mình sẽ giảng cho họ rằng chiến tranh bất lợi cho cả hai nước, dùng như phép thuyết phục của Mặc tử. Mạnh tử gạt đi:
“Nếu tiên sinh đem cái lợi nói với vua Tần và vua Sở mà hai vua ấy thích lợi, bãi binh thì… binh lính cũng thích lợi; rồi kẻ làm tôi vì tham lợi mà thờ vua, kẻ làm con vì tham lợi mà thờ cha, kẻ làm em vì tham lợi mà thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc đều bỏ hết điều nhân, nghĩa, mà giao thiệp với nhau chỉ vì ham lợi mà thôi. Nước nhà như thế mà chẳng diệt vong, là điều chưa từng có.
Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều nghĩa nói với vua Tần và vua Sở, mà hai vua ấy ham nhân nghĩa, bãi binh thì… binh lính cũng thích nhân nghĩa; rồi kẻ làm tôi vì mộ nhân nghĩa mà thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa mà thờ cha, kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa mà thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi mà giao thiệp với nhau chỉ vì ham nhân nghĩa mà thôi. Nước nhà như thế mà chẳng hưng vượng là điều chưa từng có. Hà tất phải nói chuyện lợi?”. (Cáo tử hạ - bài 14).
Mặc dầu “lợi” hiểu theo Mặc tử - tức là lợi khắp thiên hạ, hợp ý với Trời và quỉ thần – lợi hiểu theo nghĩa đó thì không khác gì nghĩa. Nhưng tách lợi với nghĩa như Khổng giáo vẫn là phải. Chỉ lo bồi dưỡng lòng nghĩa thì thấy một việc hợp đạo, đáng làm, phải làm là mình làm liền, không tính toán gì cả: dù nó có hại trước mắt cũng cứ làm, ít nhất nó cũng có lợi cho tư cách, tâm hồn của mình và về lâu dài chắc chắn sẽ có lợi cho nhân quần, xã hội. Còn luôn luôn nghĩ tới lợi thì dù cái lợi đó cao thượng, nhưng vẫn còn là tính toán hơn thiệt.
Về điểm đó, Khổng lí tưởng mà Mặc thực tiễn.
Mặc thực tiễn hơn Khổng vì ông ở trong giai cấp tiện nhân, giai cấp này đại đa số thời đó không được học, không hiểu được những cái cao xa như “nghĩa” mà dễ hiểu những cái thiết thực như “lợi”. Lời Khổng tử thật đúng: “Quân tử (tức giới quí tộc, có học, có đạo đức) dụ ư nghĩa; tiểu nhân (tức giới bình dân, không được học) dụ ư lợi”. Không phải luôn luôn như vậy, nhưng đại đa số là vậy.
Mặc tử chu du thiên hạ, truyền bá thuyết của mình, muốn cho bình dân theo, tất phải nói tới lợi nhiều hơn nói tới nghĩa.
Chúng tôi còn ngờ Mặc tử, một trăm rưỡi năm trước Tuân tử, đã nghĩ rằng tính người vốn ác nữa. Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc – hạ[16], chúng tôi đã viết:
“Trong thiên Sở nhiễm, Mặc tử thấy tơ nhuộm mà than rằng: nhuộm xanh thì hoá xanh, nhuộm vàng thì hoá vàng, cái chất của lụa mà thay đổi thì màu lụa cũng thay đổi; năm lần nhuộm vào thì đã có năm màu rồi; cho nên sự tiêm nhiễm không thể không thận trọng được.
“Ông không nói đến tính, chỉ xét kết quả của sự tiêm nhiễm, nhưng hình như cho rằng tính vốn không thiện không ác, có thể hoá thiện mà cũng có thể hoá ác”.
Lời suy đoán của chúng tôi hồi đó có phần sai.
Chúng tôi căn cứ vào lời dưới đây trong thiên Thượng đồng thượng: “Cổ giả dân thuỷ sinh, vị hữu hình chính chi thì… thiên hạ bách tính giai dĩ thuỷ hoả độc dược tương khuy hại”[17]: “Thời xưa khi loài người mới sinh, chưa có chính trị hình pháp… thì dân chúng trong thiên hạ đều dùng nước, lửa, thuốc độc để hại lẫn nhau” mà ngờ rằng Mặc tử đã ngầm cho rằng tính người vốn ác, không khác thuyết của Tuân tử trăm rưỡi năm sau là bao.
Thêm một chứng cớ nữa: thiên Kiêm ái thượng, Mặc tử bảo:
“Thử xét loạn do đâu mà phát. Phát ở chỗ không yêu nhau (…) con chỉ yêu mình mà không yêu cha, cho nên mới làm thiệt hại cho cha để lợi cho mình; em chỉ yêu mình mà không yêu anh, cho nên mới làm thiệt hại cho anh để lợi cho mình; bề tôi chỉ yêu mình mà không yêu vua nên mới làm thiệt hại cho vua để lợi cho mình, như vậy gọi là loạn (…) Cha chỉ tự yêu mình mà không yêu con, cho nên mới làm hại cho con để lợi cho mình; anh chỉ tự yêu mình mà không yêu em nên mới làm hại cho em để lợi cho mình; vua chỉ tự yêu mình mà không yêu bề tôi, cho nên mới làm hại bề tôi để làm lợi cho mình”.
(Đương sát loạn hà khởi. Khởi bất tương ái. Tử tự ái, bất ái phụ, cố khuy phụ nhi tự lợi; đệ tự ái, bất ái huynh, cố khuy huynh nhi tự lợi; thần tự ái, bất ái quân, cố khuy quân nhi tự lợi, thử sở vị loạn dã (…) Phụ tự ái dã, bất ái tử, cố khuy tử nhi tự lợi; huynh tự ái dã, bất ái đệ, cố khuy đệ nhi tự lợi; quân tự ái dã, bất ái thần, cố khuy thần nhi tự lợi[18]).
Xin độc giả so sánh đoạn đó với câu dưới đây của Tuân tử trong thiên Tính ác:
“Tính con người sinh ra là đã hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có…” (Nhân chi tính, sinh nhi hữu hiếu lợi yên, thuận thị, cố tranh đoạt sinh nhi từ nhượng vô yên). Rõ ràng là một ý.
Mặc tử bảo: “Dân có ba điều lo: đói không có gì ăn, lạnh không có gì mặc, mệt không được nghỉ, ba cái đó là những điều lo lớn của dân” (Dân hữu tam hoạn, cơ giả bất đắc thực, hàn giả bất đắc y, lao giả bất đắc tức, tam giả dân cự hoạn dã[19]. – Phi nhạc thượng).
Còn Tuân tử viết: “Cái tính con người là đói thì muốn ăn, mệt thì muốn nghỉ” (Nhân chi tính, cơ nhi dục bão, lao nhi dục hưu, thử nhân chi tính tình dã[20]).
Vậy thì Tuân tử có thể mượn ý của Mặc tử mà lập nên thuyết tính ác; và sở dĩ Mặc tử nói nhiều đến lợi, đồng hoá lợi với nhân nghĩa có thể vì ông cho rằng bản tính con người hiếu lợi, nói đến lợi người ta dễ nghe hơn, mà muốn sửa tính ham tư lợi đó thì nên giảng cho họ rằng cái lợi cá nhân ở trong cái lợi của toàn thể xã hội, ở trong đạo kiêm ái (coi thuyết kiêm ái trong chương sau).
Chính vì Mặc đặc biệt chú trọng tới cái lợi của mọi người nên Phùng Hữu Lan trong sách đã dẫn, trang 115, cho rằng chủ nghĩa của Mặc tử là chủ nghĩa công lợi /功利/. Người Trung Hoa dùng danh từ công lợi chủ nghĩa để dịch tiếng utilitarianism của Anh (Từ Hải - bộ tử - tr.417).
Thuyết Utilitarianism mà Bentham (triết gia Anh 1748-1832) (Trung Hoa phiên âm là Biên Sấm[21]) là đại diện chính, chủ trương rằng luân lí là vấn đề “tạo nhiều hạnh phúc nhất cho nhiều người nhất”. Vui thích là hạnh phúc, vậy là tốt, đau khổ, ngược lại, là xấu. Hành vi nào tạo được vui thích được Bentham coi là thiện; nếu tạo đau khổ thì ông coi là ác. Vì vậy người ta bảo luân lí theo ông chỉ là một thứ “số học vui thích” (arithmétique des plaisires), nói cách khác, chỉ là một thứ tính toán xem hành vi nào nhiều vui thích thì lựa. Cho nên chúng tôi muốn dịch Utilitarianism là duy lạc chủ nghĩa.
Sau, Stuart Mill, cũng người Anh, (1806-1873) sửa lại thuyết của Bentham trong cuốn Utilitarianism (1861), cho rằng hạnh phúc của mọi người với hạnh phúc của cá nhân là một, và ông phân biệt cái vui thích cao thượng với cái vui thích đê tiện.
Như trên chúng tôi đã nói, tất cả các triết gia Trung Hoa (trừ Dương Chu), đều tìm cái lợi chung cho thiên hạ, chứ không riêng gì Mặc tử; mà không một triết gia nào cho việc tạo vui thích cho con người là tiêu chuẩn đạo đức, không một nhà nào chủ trương thoả mãn vui thích càng nhiều càng tốt, trái lại họ còn muốn tiết dục, có khi diệt dục nữa. Riêng Mặc tử, như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, chỉ mong thoả mãn những nhu cầu tự nhiên thiết yếu của con người là ăn, mặc, và nghỉ ngơi, và mạt sát những xa xỉ phẩm, cả âm nhạc nghệ thuật nữa. Như vậy thì thuyết mưu lợi lẫn cho nhau của ông khác xa thuyết utilitarianism của Bentham, Mill, vì ông đồng hoá lợi với nghĩa, chứ không đồng hoá vui thích với đạo đức và thuyết của ông khác thuyết của Bentham và Mill, mặc dầu cũng như họ, ông coi hạnh phúc của mọi người với hạnh phúc của cá nhân là một.
Tới đời sau, phái Biệt Mặc định nghĩa lại chữ Lợi, mới làm cho chủ trương giao tương lợi của Mặc tử giống thuyết “công lợi” của Bentham và Mill (coi phần II, chương II).
Chú thích:
[1] Nguyên văn chữ Hán chép trong Phần Chữ Hán ở cuối sách: 邦溥天之下,莫非王土;率土之濱,莫非王臣. Câu này thừa chữ 邦 (bang) ở đầu câu (các bản trên mạng cũng không có chữ “bang”). (Goldfish).
[2] Ngoài 2 chữ “lợi” 利 trong 2 bài ở dưới (tức bài XVIII.17 và IV.16), trong cuốn Luận ngữ (Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu), còn 7 chữ “lợi” trong 6 bài sau: IV.2, IV.12, IX.1, XIV.12, XVII.18, XX.2 (bài XX.2 có hai chữ “lợi”). Tóm lại, trong cuốn Luận ngữ có 9 chữ “lợi”. (Goldfish).
[3]無欲速,無見小利。欲速則不達;見小利則大事不成。
[4] Mấy chữ: “cho mau xong, đừng ham lợi nhỏ. Muốn” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[5] 君子喻於義,小人喻於利。
[6]王何必曰利?亦有仁義而已矣。
[7]仁者之事,必務求興天下之利,除天下之害,將以為法乎天下,利乎人即為;不利乎人即止。
[8]仁人之所以為事者,必興天下之利,除去人下之害。
[9] Tức Thiên chí thượng. (Goldfish).
[10] 義者正也,何以知義之為正也?天下有利則治,無義則亂,我以此知義之為正也。Chữ 利 (lợi) trong câu này, trong bản nguồn, tức trong Phần Chữ Hán ở cuối sách, chép là: 義 (nghĩa). Câu đó, các trang chữ Hán trên mạng cũng chép là 義 (nghĩa), hay nói đúng hơn là tôi chưa tìm thấy trang nào trên mạng chép là 利 (lợi). (Goldfish).
[11]大夫各愛其家,不愛異家,故亂異家以利其家;諸侯各愛其國,不愛異國,故攻異,國以利其圈。天下之亂物,具此而已矣。
[12]王曰:何以利吾國?大夫曰:何以利吾家?士庶人曰:何以利吾身?上下交征利而國危矣. Đoạn này trong thiên Lương Huệ vương thượng. (Goldfish).
[13] 天未欲平治天下也;如欲平治天下,當今之世,舍我其誰也?
[14] Câu “Dân ghét cái gì, ông ghét cái đó” này là do tôi ghi thêm. Chữ “quân tử” trong bài này chỉ bậc trị dân. (Goldfish).
[15] Câu “Thiên căng vu dân…” ở trên cũng trong Kinh Thư, thiên Thái thệ. (Goldfish).
[16] Bản của Nxb Thanh Niên năm 2004, cuốn 2, trang 77-78. (Goldfish).
[17]古者民始生,未有刑政之時… 天下之百姓,皆以水火毒藥相虧害。
[18]當察亂何自起?起不相愛。子不愛父,故虧父而自利;弟自愛,不愛兄,故虧兄而自利;臣自愛,不愛君,故虧君而自利,此所謂亂也(...)父自愛也,不愛子,故虧子而自利;兄自愛也,不愛弟,故虧弟而自利;君自愛也,不愛臣,故虧臣而自利。
[19]民有三患,飢者不得食,寒者不得衣,勞者不得息,三者,民之巨患也。
[20] Câu này trong thiên Tính ác. Theo các bản trên mạng thì giữa “cơ nhi dục bảo” và “lao nhi dục hưu” còn có bốn chữ này: 寒而欲暖 (hàn nhi dục noãn: lạnh thì muốn ấm). (Goldfish).
[21] Tức 邊沁. (Goldfish).