← Quay lại trang sách

PHẦN NHÌ - HỌC THUYẾT MẶC TỬ CHƯƠNG I UYÊN NGUYÊN

Trong thiên Hiển học, Hàn Phi bảo: “Khổng tử và Mặc tử đều xưng tụng Nghiêu, Thuấn mà chủ trương khác nhau, và đều tự cho là chân truyền của Nghiêu, Thuấn. Nghiêu, Thuấn không thể sống lại thì ai là người quyết định được học thuyết nào mới thực là của Nghiêu, Thuấn”.

Tư Mã Đàm, cha Tư Mã Thiên, theo bài Tự tự[1] trong bộ Sử kí, không bảo rằng Mặc tử tự cho là chân truyền của Nghiêu, Thuấn nhưng cũng đồng ý là Mặc tử trọng Nghiêu, Thuấn, khen hai ông ấy là sống giản dị, cực khổ nữa: nhà lợp bằng cỏ tranh không xén, cột rui bằng gỗ không đẽo, ăn cơm gạo xấu với canh rau lê, rau hoắc, mùa đông mặc áo da hươu, da nai, mùa hè bận áo vải thô, chết thì dùng quan tài bằng gỗ đồng (một thứ gỗ xấu) dày ba tấc.

Đọc bộ Mặc tử chúng ta không thấy chỗ nào Mặc tử tự cho mình là “chân truyền” của Nghiêu, Thuấn. Ông còn nhắc tới Nghiêu, Thuấn sáu bảy lần, một lần trong thiên Tiết táng hạ, bảo hai ông ấy khi chết đều chôn cất giản dị, liệm bằng ba bộ áo, quan tài bằng gỗ dó[2], cột bằng dây sắn, hạ huyệt rồi đắp đất chứ không đắp nấm.

Theo truyền thuyết, vua Nghiêu trị vì 100 năm, từ 2357 đến 2257, rồi nhường ngôi cho vua Thuấn chứ không truyền lại cho con. Vua Thuấn trị vì từ 2255 đến 2207, rồi nhường ngôi cho vua Vũ (nhà Hạ) chứ không truyền ngôi cho con. Hai ông ấy rất thương dân, rất bình dân, được dân coi như cha. Và dân tộc Trung Hoa từ thời Tiên Tần đến thời Thanh, đều coi thời thịnh trị của Nghiêu, Thuấn là hoàng kim thời đại của họ. Truyền thuyết đó đáng tin đến mức nào, chưa ai quyết đoán được; có thể hai ông ấy chỉ là tù trưởng của một bộ lạc lớn thời mà Trung Hoa mới biết canh tác, theo chế độ thị tộc, chưa thành một quốc gia, mà việc “truyền hiền” chứ không “truyền tử” chỉ là tục chung của các bộ lạc chứ không phải là “đức lớn” của Nghiêu, Thuấn: khi họ chết thì lựa người nào có tài, có công lớn hơn cả, đưa lên thay họ, họ không có quyền truyền ngôi cho ai hết[3]. Mà thời đó, dân tộc Trung Hoa còn dã man, mới qua cái giai đoạn ăn lông ở lỗ, cho nên Nghiêu, Thuấn tất phải sống cực khổ như vậy, đâu có gì đáng khen.

Và nếu chỉ vì Mặc tử khen Nghiêu, Thuấn mà bảo học thuyết của ông bắt nguồn từ đạo Nghiêu, Thuấn thì cũng có thể bảo các triết gia khác đời Tiên Tần, từ Khổng, Mạnh, tới Lão, Trang, Liệt tử, và cả Hàn Phi nữa cũng bắt nguồn từ Nghiêu, Thuấn vì chính Hàn Phi cũng có lần khen hai ông vua đó. Cuối đời Xuân Thu và đời Chiến Quốc, nông nghiệp và công nghiệp phát triển mạnh, nên xã hội biến chuyển dữ dội về kinh tế cũng như về phong tục, văn hóa nên các triết gia tiết xã hội ổn định, đời sống nhàn nhã, ít phải lo lắng của thời bộ lạc, cũng như ngày nay nhiều người Âu chán đời sống ồn ào, bận rộn, bất ổn của thời đại kĩ nghệ mà nhớ tiếc thời còn văn minh nông nghiệp. Vì vậy mà Mặc tử thỉnh thoảng nhắc tới Nghiêu, Thuấn, thế thôi, chứ không thể bảo ông là đệ tử xa của Nghiêu, Thuấn, những người sống trước ông trên dưới hai ngàn năm được. Thuyết của Hàn Phi và Tư Mã Đàm phải bỏ.

Thuyết thứ nhì do tác giả thiên Thiên hạ trong bộ Trang tử đưa ra, rồi Hoài Nam tử trong Yếu lược huấn chấp nhận; và nhiều học giả ngày nay (như Liu Wu Chi[4] trong La philosophie de Confucius – Payot – 1963) cũng tán đồng. Tác giả thiên đó[5] viết:

“Mặc tử bênh vực đạo của mình, bảo: “Thời xưa vua Vũ trị lụt, khai thông sông rạch, khiến cho nước chảy ra bốn cõi rợ và khắp chín châu Trung Quốc. Thời đó có ba trăm con sông lớn, ba ngàn chi lưu, còn rạch nhỏ thì vô số. Vua Vũ đích thân cầm sọt, cầm cuốc để khai thông cho nước các sông nhỏ theo dòng chảy ra sông lớn, cực khổ đến nỗi đùi teo lại, ống chân không còn một sợi lông, xông pha gió mưa để dựng nước. Ông là bậc đại thánh mà lao khổ phục dịch cho thiên hạ như vậy đấy”. Mặc tử nói như vậy, cho nên Mặc gia đời sau nhiều người mặc áo bằng da và vải thô, đi giày dép bằng gỗ hoặc cỏ, làm việc suốt ngày đêm không nghỉ, cho sống khắc khổ là lí tưởng tối cao, bảo: “Không vậy thì không phải là theo đạo vua Vũ, không đáng là môn đồ Mặc tử”.

Thế là chúng ta lùi xuống được mười năm, gần đời Mặc tử được một chút vì cũng theo truyền thuyết, vua Vũ được vua Thuấn truyền ngôi và làm thiên tử từ 2205 tới 2197. Ông Vũ đó sống vào thời hồng thuỷ, không biết có đồng thời với ông già Noé không, nhưng có công với dân tộc Trung Hoa hơn Noé với người phương Tây nhiều vì Noé chỉ đóng một chiếc thuyền để cứu một số người và một số loài vật còn Vũ đã có công trị thuỷ tám năm, ba lần đi qua nhà mà không vào (Mạnh tử - Đằng Văn Công thượng – bài 4). Mặc tử cũng có mười lần nhắc tới ông; ngay trong thiên Tiết táng hạ, sau khi khen Nghiêu. Thuấn, cũng khen ông là khi mất, chỉ liệm bằng ba bộ áo, quan tài bằng gỗ vông dày ba tấc, cột bằng dây sắn, y như Nghiêu, Thuấn.

Lại thêm, Mặc tử đã noi gương vua Vũ, cực khổ phục dịch thiên hạ, có phần nhiều hơn, suốt đời chứ không phải tám năm, tới “mòn trán lỏng gót” chứ không chỉ teo ống chân mà thôi. Nhưng bấy nhiêu cũng chưa đủ cho ta kết luận rằng học thuyết của Mặc tử bắt nguồn từ vua Vũ. Thuyết thứ hai này cũng y hệt thuyết thứ nhất, không thể chấp nhận được.

Thuyết thứ ba trong Lữ thị Xuân Thu, kéo lui được khoảng ngàn rưỡi năm, xuống đời Hoàn vương nhà Chu, nhưng như ở đầu chương II phần I chúng tôi đã nói, thuyết đó không thể tin được, vì có điểm mâu thuẫn về niên đại.

Tới đời Thanh, xuất hiện thêm một thuyết nữa của Uông Trung. Đại khái, theo Phương Thụ Sở (sách đã dẫn – tr.73) thì Mặc tử khi nhắc đến đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, nhưng không theo một đời nào cả. Nghiêu, Thuấn, Vũ có phép chôn cất của họ, Mặc có phép chôn cất của mình (đắp nấm chứ không đắp bằng huyệt rồi thôi, nhưng nấm nhỏ, hễ nhận được mộ là đủ) vừa giản tiện vừa tỏ được lòng hiếu, có lợi cho cả người chết lẫn người sống, nhất là phải tránh xa hoa quá mức của đời Chu (coi chương sau). Nghĩa là Mặc tử tìm hiểu, suy nghĩ, có chủ trương riêng, chứ không theo ai hết. Thuyết này có lí hơn cả.

Như trên chúng tôi đã nói, Mặc tử sinh ở nước Lỗ, có lẽ sau khi Khổng tử mất, chắc chắn biết được đạo Khổng (ông thường dẫn Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu); nhưng thời đại của ông loạn hơn, bọn cần quyền tàn nhẫn, xa xỉ hơn, bình dân cực khổ hơn, chiến tranh tàn khốc hơn thời Khổng tử, mà ông khác Khổng tử về giai cấp – ông là tiện nhân, Khổng tử là quí tộc sa sút – về tính tình: nhiệt tâm hơn, bồng bột hơn, cương quyết hơn, cho nên một mặt chịu ảnh hưởng của Khổng, một mặt chê đạo Nho, muốn cải cách nó, sáng tạo ra một đạo mới; giống Nho ở chỗ tôn quân, trọng hiền, đề cao đạo đức và sự tu thân; mà chống Nho ở chỗ ghét những lễ nghi phiền phức, xa xỉ, ghét ca nhạc, không tin có số mạng; ông mở đường cho Lão tử (Lão tử sinh sau ông khoảng nửa thế kỉ), chủ trương bình đẳng giữa các giai cấp và trở về lối sống bình dị của thời cổ (Lão tiến xa hơn ông, muốn trở về đời sống nguyên thuỷ); mở đường cả cho các pháp gia thời sau nữa, vì ông trọng tinh thần thực dụng, trọng quyền lực, trọng sự lao động, và bắt người dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên.

Sau cùng, điểm này lạ lùng nhất: ông thành lập gần như được một tôn giáo, một đạo quân chuyên đi cứu các nước yếu bị các nước lớn uy hiếp. Trước ông có một học thuyết nào tương tự như vậy đâu, mà rốn công đi tìm uyên nguyên của nó từ thời Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Trong phần này chúng tôi sẽ phân tích những tư tưởng chính trị cùng kinh tế của ông.

Chú thích:

[1] Tự tự: bản nguồn chép là Tự tư. (Goldfish).

[2] Gỗ dó: nguyên văn là “cốc” (榖), trong phần dịch ở sau, cụ Nguyễn Hiến Lê chú giải là: “thứ cây vỏ dùng làm giấy, gỗ xấu”, còn Chữ Cốc 榖, Thiều Chửu thì giảng chữ Cốc 榖 là: “Cây cốc, vỏ cây dùng làm giấy”. (Goldfish).

[3] Trong bộ Sử Trung Quốc, viết sau bộ Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê còn đưa ra thuyết: Thuấn chiếm đất đai của Nghiêu, rồi thay Nghiêu làm “thiên tử”. Cụ bảo: “Nghiêu và Thuấn chỉ là tù trưởng của một thị tộc. Có thể Nghiêu được nhiều bộ lạc liên hiệp bầu làm thủ lĩnh (mỗi bộ lạc gồm nhiều thị tộc). Nghiêu, Thuấn lên ngôi cách nhau cả trăm năm như truyền thuyết chép lại thì khó có sự Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn được: lúc đó Nghiêu bao nhiêu tuổi, Thuấn bao nhiêu tuổi? Có lẽ Thuấn là thủ lĩnh nhiều bộ lạc khác, sau chiếm được đất đai của Nghiêu, rồi thay Nghiêu mà làm “thiên tử”. (Goldfish).

[4] Liu Wu Chi (bản nguồn chép sai thành Lu Wu Chi): tức “Liễu Vô Kị” 柳无忌 (theo http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:C28cK1PJwrkJ:www.tianya.cn/publicforum/Content/books/1/10039.shtml+Liu+Wu+Chi+La+philosophie+de+Confucius+%E2%80%93+Payot+%E2%80%93+1963&cd=1&hl=vi&ct=clnk&gl=vn&client=firefox-a&source=www.google.com.vn). (Goldfish).

[5] Tức trong bài 4 thiên Thiên hạ trong bộ Trang tử - Nam Hoa kinh của Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).