← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV MẠT SÁT CHIẾN TRANH XÂM LĂNG

Yêu nhau là cái lợi lớn của thiên hạ, tranh nhau là cái hại lớn của thiên hạ. Đã đề cao đạo kiêm ái thì Mặc tử cũng mạt sát sự dùng võ lực để xâm lược nước khác, do đó mà có ba thiên Phi công, và nhiều đoạn trong các thiên Thiên chí, Canh Trụ, Lỗ vấn…

Ở Trung Hoa chỉ có bọn Pháp gia là chủ trương thượng võ đến triệt để: Thương Ưởng và Hàn Phi đều cho rằng nước Sở dễ được trọng… là nhờ sức mạnh (Quốc chi sở dĩ trọng… lực dã – Thương Ưởng); sức mình mạnh thì người ta triều phục mình, sức mình yếu thì mình triều phục người, cho nên bậc minh quân cần chăm sóc về sức mạnh (Lực đa tắc nhân triều, lực quả tắc triều ư nhân; cố minh quân vụ lực – Hàn Phi).

Còn Khổng, Lão, Mặc đều ghét chiến tranh. Lão cho việc binh là việc chẳng lành, không phải là việc của người quân tử… Đắc thắng mà cho là hay tức là thích giết người… Cuộc chiến thắng phải xử bằng lễ tang ma (Binh giả, bất thường chi khí, phi quân tử chi khí… Thắng… nhi mĩ chi giả, thị lạc sát nhân… Chiến thắng, dĩ tang lễ xử chi[1]).

Khổng tử đáp Vệ Linh công khi Linh công hỏi về chiến trận: “Việc cúng tế ở tôn miếu thì tôi được nghe, còn việc bày binh bố trận thì tôi chưa từng học (Trở đậu chi sự, tắc thường văn chi hĩ; quân lữ chi sự, vị chi học dã – Vệ Linh công - 1).

Mạnh tử bảo: “Đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng, đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành, như thế gọi là đem đất ăn thịt người, xử tử còn chưa hết tội. Cho nên kẻ thiện chiến thì chịu tội nặng nhất” (Tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã; tranh thành dĩ chiến, sát nhân doanh thành; thử sở vị suất thổ địa nhi thực nhân nhục, tôi bất dong ư tử. Cố thiện chiến giả, phục thượng hình… - Li Lâu thượng, bài 14).

Mặc tử hơn mấy nhà trên ở chỗ, ông trình bày một cách rành mạch, đầy đủ hơn những lí lẽ để thuyết phục các chư hầu, đừng đánh chiếm nước người, rồi hô hào các nước hợp lực nhau cứu các nước bị xâm lăng, nhất là còn đích thân cứu nước Tống nữa.

Ông nhận thấy các nước lớn xâm chiếm các nước nhỏ vì hai lí do: ham lợi và ham danh.

Ông giảng cho họ thấy rằng không có lợi gì cả, hoặc có thì lợi bất cập hại.

Thiên Phi công trung, ông bảo:

“Dấy binh vào mùa đông thì sợ lạnh, vào mùa hè thì sợ nóng, cho nên phải tránh hai mùa đó; mà dấy binh vào mùa xuân thì bắt dân phải bỏ việc cày cấy trồng trọt, vào mùa thu thì dân phải bỏ việc gặt hái, cho nên phải tránh hai mùa đó. Dân phải bỏ một mùa thì trăm họ chết đói chết rét không biết bao nhiêu mà kể. Nay thử tính xem, hễ xuất quân thì tên tre, cờ lọng, màn trướng, áo giáp, mộc lớn, mộc nhỏ, dao mác tổn hại, hư nát, mất mát không thu hồi được, không biết bao nhiêu mà kể, lại thêm bò ngựa khi xuất quân thì mập, về thì gầy, hoặc chết không về được, không biết bao nhiêu mà kể; lại thêm đường xá xa xôi, lương thực tiếp tế không được, thiếu thốn, trăm họ chết không biết bao nhiêu mà kể; do ăn uống không được yên ổn, ăn uống thất thường, lúc no quá, lúc đói quá, không điều độ, nên trăm họ bị bệnh mà chết không biết bao nhiêu mà kể.

“…Nay tấn công một lớp thành trong (chu vi) ba dặm, một lớp thành ngoài (chu vi) bảy dặm, không dùng khí giới cứng và sắc, không giết nhiều người thì làm sao mà thắng được? Giết người, nhiều thì hằng vạn, ít cũng hằng ngàn rồi mới chiếm được lớp thành trong ba dặm, lớp thành ngoài bảy dặm. Nay một nước có một vạn cỗ xe thì số thành có trên ngàn, không vào cho xuể được, số đồng ruộng có trên vạn, không thể chiếm hết được; như vậy là đất đai (của người) có dư, mà binh sĩ (của mình) không đủ. Bắt binh sĩ của mình phải chết hết, gây tai hoạ cho người trên kẻ dưới để tranh thành, tức là khinh bỏ cái không đủ (binh sĩ của mình) mà trọng cái dư (đất đai của người), theo chính sách đó đâu phải là biết lo việc nước”.

Có người bác: Đánh chiếm nước người có lợi chứ. Chứng cớ là các nước Sở, Ngô ở phương Nam, Tề, Tấn ở phương Bắc, hồi mới được phong làm chư hầu trong thiên hạ, đất đai chỉ được vài trăm dặm vuông, số dân chỉ được và chục vạn; sau nhờ đánh chiếm nước khác mà đất đai được vài ngàn dặm, số dân tăng lên tới mấy triệu.

Mặc tử đáp:

“Tuy bốn năm nước được lợi đấy, tôi vẫn cho rằng như vậy không phải là theo đạo. Cũng tỉ như nghề dùng thuốc trị bệnh; nay có một y sĩ dùng cả thuốc và bùa phép trị bịnh cho thiên hạ; một vạn người dùng thuốc mà chỉ có bốn năm người được lợi (khỏi bịnh) thì tôi vẫn cho như vậy không phải là biết làm nghề thuốc”.

Rồi Mặc tử kể rất nhiều nước nhỏ bị tiêu diệt vì chính sách xâm lược đó. Nhất là có lợi thì chỉ lợi cho bọn vua chúa chứ tai hại cho dân của cả nước thắng lẫn nước bại.

Vả lại, có lợi cho nước thắng thì cũng chỉ nhất thời, rốt cuộc cái hoạ cũng “trở ngược về họ”. Trong Phi công trung, ông dẫn hai thí dụ: Ngô vương Phù Sai diệt nước Việt, sau bị Việt Câu Tiễn quật lại; Trí Bá nước Tấn chiếm đất đai của hai họ Trung Hàng[2] và Phạm, sau bị liên quân của ba họ Hàn, Triệu, Nguỵ diệt.

Ông kể lại hai vụ đó cho Hạng Tử Ngưu (một viên tướng của nước Tề) nghe để ngăn Hạng đánh Lỗ:

“Tề đánh Lỗ là lầm lớn. Xưa Ngô [Phù Sai] đem quân qua Đông đánh nước Việt, xua quân của Việt vương [Câu Tiễn] lên núi Cối Kê, phía Tây đánh Sở, giữ Chiêu vương ở đất Tuỳ; phía Bắc đánh Tề, bắt thái tử Quốc của Tề đem về Ngô; sau chư hầu báo thù, dân chúng Ngô ghét sự lao khổ vì chiến tranh, không dùng được (không ham đánh), vì vậy mà thân bị giết, nước mất, dòng dõi tuyệt tự.

“Xưa Trí Bá đánh họ Phạm và họ Trung Hàng, gồm đất của ba nhà nước Tấn (tức Trí, Phạm, Trung Hàng), làm một; sau chư hầu báo thù, dân chúng ghét sự lao khổ vì chiến tranh, không dùng được, vì vậy mà thân bị giết, nước mất, dòng dõi tuyệt tự. Cho nên nước lớn đánh nước nhỏ là hại lẫn nhau, cái hoạ tất trở ngược về nước mình”… (Đại quốc chi công tiểu quốc dã, thị giao tương tặc dã, hoạ[3] tất phản ư quốc – Lỗ vấn 2).

Vậy xâm chiếm nước người là bất lợi cho nước mình, bất lợi cho dân; ngoài ra còn bất lợi cho trời và quỉ thần nữa, vì dân là của trời (thiên dân), ta giết người tức giết dân của trời, trời tất ghét, phạt ta… (Phi công hạ); mà dân chúng chết nhiều, quỉ thần mất nhiều kẻ tế lễ cho mình (Phi công trung).

Tống Hình[4], một Mặc gia đời sau, muốn đem thuyết “bất lợi” đó thuyết phục vua Sở và vua Tần đừng xua quân đánh nhau nữa, gặp Mạnh tử kể việc mình định làm. Mạnh tử bảo không nên đem lợi và hại ra bàn và khuyên chỉ đem nhân nghĩa ra mà thuyết phục (Cáo tử hạ - 4).

Chính Mặc tử cũng đã nghĩ tới lí do “vì nhân nghĩa” đó, và ông dùng nó để thuyết những kẻ ham cái danh thắng người.

Phi công trung, ông bảo: “Xét cái danh thắng người thì nó không dùng vào việc gì” (Kế kì sở tự thắng, vô sở khả dụng dã).

Phi công thượng, ông còn nặng lời mạt sát là ngu, là bất nhân bất nghĩa nữa. Thiên đó rất ngắn, nội dung khác hẳn hai thiên trung, hạ, chỉ nói về nhân nghĩa, được mọi người cho là hay và quan trọng bậc nhất trong bộ Mặc tử, vì ý tưởng xác đáng mà lời lại hùng hồn, lôi cuốn. Chúng tôi xin chép lại dưới đây nguyên văn cùng bản dịch:

(Kim hữu nhất nhân nhập nhân viên phố, thiết kì đào lí, chúng văn tắc phi chi, thượng vi chính giả, đắc tắc phạt chi. Thử hà dã? Dĩ khuy nhân tự lợi dã. Chí nhương nhân khuyển thỉ kê đồn giả kì bất nghĩa hựu thậm nhập nhân viên phố, thiết đào lí. Thị hà cố dã? Dĩ kì khuy nhân dũ đa. Cẩu khuy nhân dũ đa, kì bất nhân tư thậm, tội ích hậu. Chí nhập nhân lan cứu, thủ nhân mã ngưu giả, kì bất nhân nghĩa hựu thậm nhương nhân khuyến thỉ kê đồn. Thử hà cố dã? Dĩ kì khuy nhân dũ đa. Cẩu khuy nhân dũ đa, kì bất nhân tư thậm, tội ích hậu. Chí sát bất cô nhân dã, đà kì y cừu, thủ qua kiếm giả, kì bất nghĩa hựu thậm nhập nhân lan cứu thủ nhân mã ngưu. Thử hà cố dã? Dĩ kì khuy nhân dũ đa. Cẩu khuy nhân dũ đa, kì bất nhân tư thậm hĩ, tội ích hậu. Đương thử thiên hạ chi quân tử, giai tri nhi phi chi vị chi bất nghĩa, kim chí đại vi bất nghĩa, công quốc, tắc phất tri phi tòng nhi dự chi, vị chi nghĩa, thử khả[5] vị tri nghĩa dữ bất nghĩa chi biệt hồ?

Sát nhất nhân, vị chi bất nghĩa, tất hữu nhất tử tội hĩ. Nhược dĩ thử thuyết vãng, sát thập nhân, thập trọng bất nghĩa, tất hữu thập tử tội hĩ, sát bách nhân bách trọng bất nghĩa, tất hữu bách tử tội hĩ. Đương thử thiên hạ chi quân tử giai tri nhi phi chi vị chi bất nghĩa; kim chí đại vi bất nghĩa công quốc tắc phất tri nhi phi, tòng nhi dự chi, vi chi nghĩa, thành[6] bất tri kì bất nghĩa dã, cố thư kì ngôn dĩ di hậu thế; nhược tri kì bất nghĩa dã, phù hề thuyết thư kì bất nghĩa dĩ di hậu thế tai?

Kim hữu nhân ư thử, thiểu kiến hắc viết hắc, đa kiến hắc viết bạch, tắc tất dĩ thử nhận vi bất tri bạch hắc chi biện hĩ, thiểu thường khổ viết khổ, đa thường khổ viết cam, tắc tất dĩ thử nhân vi bất tri cam khổ chi biện hĩ? Kim tiểu vi phi tắc tri nhi phi chi, đại vi phi công quốc, tắc bất tri nhi phi, tòng nhi dự chi, vị chi nghĩa. Thử khả vị tri nghĩa dữ bất nghĩa chi biện hồ? Thị dĩ tri thiên hạ quân tử dã, biện nghĩa dữ bất nghĩa chi loạn dã)[7].

PHI CÔNG (thượng)

(Mạt sát sự đánh chiếm nước người)

Nay có một kẻ vào vườn người ta hái trộm đào, mận, ai nghe thấy cũng chê, nhà cầm quyền biết được thì trừng phạt. Tại sao vậy? Tại kẻ ấy lấy của người làm lợi cho mình. Đến khi cướp gà, chó, heo của người ta thì việc bất nghĩa còn nặng hơn vào vườn hái trộm đào, mận. Tại sao vậy? Tại làm thiệt hại cho người ta nhiều hơn, tội nặng hơn. Đến khi vào chuồng bò, chuồng ngựa bắt bò, ngựa của người ta thì việc bất nhân, bất nghĩa lại nặng hơn là cướp gà, chó, heo của người ta. Tại sao vậy? Tại làm hại cho người ta nhiều hơn. Làm hại cho người ta nhiều hơn thì sự bất nhân nhiều hơn, tội nặng hơn. Đến như giết người vô tôi để lột áo vải áo da, lấy ngọn mác, thanh kiếm của người ta thì việc bất nghĩa còn nặng hơn vào chuồng bò, chuồng ngựa, bắt bò, ngựa của người ta. Tại sao vậy? Tại làm hại cho người ta nhiều hơn. Làm hại nhiều hơn thì sự bất nhân nhiều hơn, tội nặng hơn. Những việc đó các bậc quân tử trong thiên hạ đều biết là quấy mà chê, bảo là bất nghĩa; nay cái việc đại bất nghĩa là đánh chiếm nước người lại không biết chê là quấy, còn khen nữa, bảo là nghĩa. Như vậy có thể bảo là phân biệt được nghĩa với bất nghĩa không?

Giết một người thì bảo là bất nghĩa, chỉ chịu một tội chết. Cứ theo đó mà suy, giết mười người thì bất nghĩa gắp mười, tức phải chịu mười tội chết, giết trăm người thì bất nghĩa gắp trăm, tất phải chịu trăm tội chết. Những việc đó các bậc quân tử trong thiên hạ đều biết là quấy mà chê, bảo là bất nghĩa. Nay cái việc đại bất nghĩa là đánh chiếm nước người thì không biết là quấy, lại còn khen, bảo là nghĩa. Họ quả thực không biết là bất nghĩa, nên mới chép công lưu lại đời sau; chứ nếu biết là bất nghĩa thì sao lại chép mà lưu lại đời sau?

Nay có người nọ thấy đen ít bảo là đen, thấy đen nhiều lại bảo là trắng, như vậy tất phải cho người đó là không biết phân biệt đen và trắng; thấy đắng ít thì bảo là đắng, mà thấy đắng nhiều thì bảo là ngọt, như vậy tất phải cho người đó là không biết phân biệt đắng và ngọt. Nay làm đều quấy nhỏ thì biết mà chê; làm điều quấy lớn là đánh chiếm nước người thì không biết mà chê, lại còn khen, bảo là nghĩa. Như vậy, có thể bảo là phân biệt được nghĩa và bất nghĩa không? Vì vậy mà tôi biết rằng các bậc quân tử trong thiên hạ loạn hết rồi trong việc phân biệt nghĩa và bất nghĩa”.

Sau này Mạnh tử bảo: “Thiện chiến giả, phục thượng hình”[8] cũng chỉ là diễn ý đó của Mặc. Mặc còn hai lần bắt các vua chúa đương thời nhận mình là có thói ăn trộm nên mới đánh chiếm nước nhỏ: một lần ông nói với Lỗ Dương Văn Quân[9] – thiên Canh Trụ 19, và một lần nói với vua Sở - thiên Công Thâu.

Lần trên, ông bảo Lỗ Dương Văn Quân:

“Một người có nhiều cừu, bò, loài ăn lúa và ăn cỏ, người bếp sắn tay áo mổ, cắt, nấu nướng cho, ăn không hết, vậy mà thấy người khác có bánh sống (?)[10] thì trố mắt lên, lấy trộm, bảo: “Cho tôi ăn với, xem bánh có đủ ngọt, đủ béo không?” Người đó có tật ăn trộm phải không?”

Lỗ Dương Văn Quân đáp: “Phải”.

Mặc tử lại bảo: “Ruộng bốn cõi của nước Sở có nhiều chỗ hoang vu, không khai phá hết, đất bỏ không có mấy ngàn chỗ, không ai vô, vậy mà thấy những ấp không có người ở của nước Tống, Trịnh thì trố mắt, lấy trộm. Nước Sở có khác gì người trên không?”

Lỗ Dương Văn Quân đáp: “Cũng có tật ăn trộm, không khác gì cả” (Canh Trụ 19).

Đem quân xâm chiếm nước khác để mở rộng đất đai của mình, chiếm của cải của người, bắt dân chúng của người về làm nô lệ cho mình, là điều đại bất nghĩa, nhưng vua Vũ diệt rợ Hữu Miêu, vua Thang diệt Kiệt, vua Võ nhà Chu diệt Trụ, cũng là chiếm đất đai của người, sao lại được gọi là thánh vương? Có người đem câu đó chất vấn Mặc tử, ông đáp: “Mấy ông đó, không gọi là đánh chiếm [nước khác] được, phải gọi là diệt [bạo quân]: Bỉ phi sở vị công, sở vị tru dã – Phi công hạ.

So sánh lời đó với lời Mạnh tử đáp Tề Tuyên vương sau này: “Tôi nghe nói Vũ vương chỉ giết một người thường là Trụ thôi, chứ tôi chưa nghe nói giết vua” – Lương Huệ vương hạ -8), chúng ta thấy sao mà giống nhau thế.

Cả Mặc tử lẫn Mạnh tử đều bênh vực mấy ông “thánh” đó, đề cao việc họ can thiệp vào nội bộ nước khác.

Nhưng trong thiên Lỗ vấn, bài 4, Mặc tử lại có một thái độ khác hẳn. Lỗ Dương Văn Quân sắp đánh Trịnh, Mặc ngăn cản, lấy lẽ rằng Trịnh cũng là con của trời, đánh Trịnh không sợ bị trời phạt ư? Văn Quân đáp:

- Sao tiên sinh ngăn ta đánh Trịnh? Ta đánh Trịnh là thuận theo ý trời mà. Người nước Trịnh ba đời giết cha. Trời phạt, khiến cho ba năm mất mùa, ta giúp trời trừng trị nước đó mà.

Mặc tử đáp:

- Người nước Trịnh ba đời giết cha, trời phạt, khiến cho ba năm mất mùa, như vậy đủ rồi. Nay nhà vua lại đem quân đánh Trịnh, bảo: “Ta đánh Trịnh là thuận theo ý trời”, thì cũng không khác gì một người cha quất một người con hung hăng, bất tài mà cha nhà bên cạnh còn vác cây đánh nó nữa, bảo: “Ta đánh nó là thuận theo ý cha nó”, như vậy chẳng là trái lẽ ư?”

Mạnh tử sau này cũng vấp phải một mâu thuẫn như vậy.

Thiên Công Sửu hạ 8, chép truyện Thẩm Đồng, một cận thần của vua Tề, lấy ý riêng hỏi Mạnh tử có nên đánh nước Yên không. Mạnh tử đáp: “nên”, vì vua Yên là Tử Khoái, ham được tiếng là “thánh” như vua Nghiêu, vua Thuấn, nhường ngôi cho Tử Chi, một tể tướng bất tài, làm cho nước Yên thêm loạn. Như vậy là “không phải phép”: Tử Khoái không có quyền đem nước Yên giao cho Tử Chi mà Tử Chi không có điều kiện để nhận. Tử Khoái, Tử Chi tuy không phải là bạo quân như Kiệt, Trụ nhưng đã có lỗi với dân, nên việc diệt Tử Khoái và Tử Chi để cứu nước Yên là việc nên làm.

Sau đó Tề đánh Yên. Có người hỏi Mạnh tử có phải ông xúi Tề đánh Yên không. Ông trả lời rất khéo: Tôi chưa hề xúi như vậy. Chẳng qua Thẩm Đồng hỏi tôi: “Nên đánh nước Yên không”, tôi đáp “nên”. Thế là Tề đem quân đánh Yên. Nếu ông ta hỏi thêm: “Ai có quyền đánh nước ấy” thì tôi sẽ đáp chỉ có bậc “thiên lại” (tức bậc có đức lớn, vâng mệnh trời mà trị an cho dân) mới có quyền ấy[11].

Lấy ví dụ ngày nay có kẻ giết người. Có người hỏi tôi: “Nên giết kẻ ấy chăng?”, thì tất tôi sẽ đáp: “nên”. Nếu người đó lại hỏi: “Ai có quyền giết kẻ ấy?” thì tôi sẽ đáp: “Chỉ có quan sĩ sư mới có quyền ấy”. Ngày nay [Tề cũng như Yên đều là chư hầu, vua Tề không phải là bậc “thiên lại” mà lại đánh nước Yên thì] cũng như Yên đánh Yên, tôi lẽ nào xúi giục một việc như vậy”.

Mạnh tử thật có tài ăn nói, nhưng ông cũng như Mặc tử đã lỡ coi Thang, Võ là thánh vương, khen họ diệt Kiệt và Trụ, chiếm nước của nhà Hạ, nhà Ân, rồi lại hô hào các vua chúa đừng đánh chiếm nước người thì làm sao khỏi mâu thuẫn với chính mình được? Đó là điểm chủ trương của cả Nho lẫn Mặc đều chưa được dứt khoát. Đã “phi công” thì phải triệt để theo nguyên tắc “không được can thiệp vào nội bộ của nước khác bằng bất kì lí do nào”. Vì nếu đã cho phép một kẻ nào – dù có đạo đức tới đâu – được quyền “thế thiên hành đạo” thì sẽ có vô số kẻ khác cũng tự cho có quyền đó mà thế giới làm sao khỏi loạn?

Phi công nhưng phải tự vệ, nhất là trong thời loạn cá lớn nuốt cá bé. Cho nên Tử Cống hỏi về cách cai trị, Khổng tử đáp: “Lương thực phải đủ, binh lực phải đủ, dân tin mình” - Túc thực, túc binh, dân tín chi hĩ[12] – Nhan Uyên 7.

Mặc cũng nói y như vậy: “Nước lớn mà không đánh nước nhỏ là vì nước nhỏ chất chứa quân nhu, lương thực nhiều, thành quách được sửa sang, trên dưới điều hoà với nhau”: Phàm đại quốc chi sở dĩ bất công tiểu quốc giả, tích uỷ đa, thành quách tu, thượng hạ điều hoà[13]. (Tiết táng). “Thượng hạ điều hoà” của Mặc tử là “dân tín chi hĩ” của Khổng.

Ông lại nói: “Lương thực là bảo vật của nước, binh là cái móng nhọn của nước, thành trì là để tự vệ” – Thực giả quốc chi bảo dã, binh giả quốc chi trảo dã, thành giả sở dĩ tự thủ dã[14] – Thất hoạn.

Nhưng Khổng tử không hề học việc bày binh bố trận, Mặc tử trái lại chế tạo được vũ khí để tự vệ (thiên Công Thâu) và rất giỏi về việc chống giữ thành trì. Mỗi một thiên trong tổ V, từ thiên Bị thành môn trở xuống chuyên bàn về thuật phòng thủ, tuy có nhiều chỗ do người Tần, Hán nguỵ tạo, nhưng đại thể vẫn là những điều mà Mặc gia đời sau ghi lời dạy của Mặc tử.

Hơn nữa Mặc tử còn muốn mở rộng phạm vi “vũ trang hoà bình”, hô hào các chư hầu trong thiên hạ (đoàn kết với nhau), “hễ có một nước lớn nào bất nghĩa thì cùng lo lắng, một nước lớn nào đánh nước nhỏ thì cùng nhau lại cứu. Nước nhỏ mà thành quách không toàn vẹn thì phái người lại sử sang cho, vải và lúa hết thì giúp cho, tiền và lụa không đủ thì cung cấp cho… Lấy lòng ngay thẳng mà đôn đốc, giữ đúng danh nghĩa, cốt khoan hậu với dân chúng, làm cho quân sĩ tin mình. Dùng chính sách đó mà cứu viện quân đội chư hầu thì sẽ vô địch thiên hạ”.

(Đại quốc chi bất nghĩa dã tắc đồng ưu chi, đại quốc chi công tiểu quốc dã tắc đồng cứu chi. Tiểu quốc thành quách chi bất toàn dã tất sử tu chi, bố túc chi tuyệt tắc uỷ chi, tệ bạch bất túc tắc cung chi… Đốc dĩ chính, nghĩa kì danh, tất vụ khoan ngô chúng, tín ngô sư. Dĩ thử viện[15] chư hầu chi sư tắc thiên hạ vô địch hĩ[16]. – Phi công hạ).

Kế hoạch đó là kế hợp tung, liên hợp lục quốc chống Tần sau này. Thời Mặc tử, không nước nào nghe, nên Mặc và môn đồ của ông đích thân thi hành, ông ráng thuyết phục Tề đừng đánh Lỗ; Lỗ Dương Văn Quân đừng đánh Trịnh; Sở đừng đánh Tống và cho Cầm Hoạt Li cùng ba trăm môn sinh của ông giữ thành cho Tống, như trong phần I đã nói, nên được tiếng khen của đời là “thiên hạ chi bảo” (Trang tử).

Chú thích:

[1] Đạo đức kinh – bài 31 (Goldfish).

[2] Trung Hàng: chữ Hán là 中行. Bản nguồn chép lầm thành “Trung Hoàng”. Ở sau cũng vậy. (Goldfish)

[3] Chữ quá /過/ ở đây, đọc là hoạ /禍/ [Hai chữ Hán tôi ghi thêm trong dấu / / là theo trang http://www.chinamozi.net/news_view.asp?id=641. (Goldfish).

[4] Tống Hình (trong chương II ở trên, bản nguồn chép lầm thành Tống Hinh): Trong sách Mạnh tử, thiên Cáo tử hạ ghi là Tống Khanh 宋牼. Theo http://baike.baidu.com/view/2397859.htm thì Tống Khanh còn được gọi là Tống Hình 宋鈃, Tống Vinh 宋榮, Tống Vinh tử 宋榮子. Trong cuốn Trang tử - Nam Hoa kinh, thiên Tiêu dao du, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch “Tống Vinh tử” là “ông Vinh tử nước Tống”, và chú giải như sau: “Một hiền triết nước Tống thời đó. Chương Thiên Hạ ở cuối cuốn này gọi là Tống Kiên, trong bộ Mạnh tử gọi là Tống Khanh, trong bộ Tuân tử gọi là Tống tử”. (Goldfish).

[5]/何/ (hà) chữ xưa có thể dùng như chữ /可/ (khả). [Hai chữ Hán và phiên âm do tôi ghi thêm theo trang http://www.guoxuebook.com/zhibu/0301/00mzjg/004.htm. Chữ “khả”, bản nguồn chép là: “khá”. (Goldfish)].

[6]/情/ (tình) chữ xưa có thể dùng như chữ /誠/ (thành). [Hai chữ Hán và phiên âm do tôi ghi thêm theo trang http://www.guoxuebook.com/zhibu/0301/00mzjg/004.htm. Chữ đang xét, trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc chép 情 (tình) nhưng hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê không bảo dùng như chữ 誠 (thành). (Goldfish)].

[7] Phần phiên âm, bản nguồn chép sai vài chỗ, tôi đã sửa lại theo bộ Đại cương triết học Trung Quốc và vài bản chữ Hán trên mạng. (Goldfish).

[8] Câu này trong thiên Li Lâu thượng. (Goldfish).

[9] Lỗ Dương Văn Quân, tức Công tử Khoan, cháu Sở Bình vương, là quan tư mã của nước Sở, được Sở Huệ vương phong tặng đất Lỗ Dương, nên tự xưng là Lỗ Dương Văn tử. (Goldfish).

[10] Bánh sống: nguyên văn là “sinh bính” 生餅. Theo trang http://www.hudong.com/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90%E6%80%92%E8%80%95%E6%9F%B1%E5%AD%90 thì hai chữ đó có nghĩa là làm bánh: “tác bính” 作餅. (Goldfish).

[11] Chúng ta có thể hỏi ông: thời đó ông vua nào là “thiên lại” để đáng đánh người Yên? Mà không có thì sao còn đáp là nên đánh?

[12]足食,足兵,民信之矣。

[13]是故凡大國之所以不攻小國者,积委多,城郭修,上下调和. [Phiên âm ở trên tác giả lược bỏ hai chữ “thị cố” (是故) ở đầu câu. (Goldfish)].

[14]食者國之寶也,兵者,國之爪也,城者所以自守也。

[15] Viện: Bản nguồn chép nguyên văn chữ Hán (xem cả câu trong chú thích ở dưới) là: 授 (thụ). Các bản trên mạng cũng chép như vậy. Theo trang http://www.guoxuebook.com/zhibu/0301/00mzjg/004.htm thì “chữ 授 (thụ) là từ vô nghĩa, ngờ là chữ 援 (viện) chép lầm”. (Goldfish).

[16]大國之不義也則同憂之,大國之攻小國也則同救之,小國城郭之不全也必使修之,布粟之絕則委之, 幣帛不足則共之… 督以正, 義其名,必務寬吾眾,信吾師。以此授諸侯之師則天下無敵矣