← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V TRỜI VÀ QUỈ THẦN-A. TRỜI

Trong ba chương trên chúng tôi đã trình bày học thuyết chủ yếu của Mặc tử, tức thuyết Kiêm ái, trong chương này và hai chương sau chúng tôi sẽ xét vấn đề mà một số học giả gọi là tôn giáo – đúng hơn là sự “dùng tôn giáo để chế tài” – của Mặc tử.

Hễ từ vua đến dân thường, ai cũng kiêm ái thì xã hội sẽ có lợi lớn mà không còn cái hại cho tranh giành, cướp giật nhau. Ý đó đúng, nhưng là ý của ông, ông chỉ có thể thuyết phục một số đệ tử theo ông chứ không thể bắt mọi người, nhất là bọn vua chúa theo được. Mà bọn vua chúa thì lịch sử đã cho thấy mười người không được một người yêu dân. Ngay dưới thời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ mà Mặc cho là bậc thánh vương gồm yêu mọi người, làm lợi cho mọi người – triều đình cũng chỉ tương đối có kỉ luật, có nhiều ông quan tốt, xã hội cũng chỉ tương đối bình trị thôi, chứ có bao nhiêu người biết noi gương nhà vua mà kiêm ái. Cái lẽ người trên thích thì người dưới theo chỉ đúng một phần nhỏ, tuỳ trường hợp thôi. Ai chả biết cách giáo hoá tốt nhất là làm gương, nhưng cách đó cũng ít kết quả nhất. Vua Thuấn là một bậc thánh đấy mà cha là Cổ Tẩu, em là Tượng tàn bạo ra sao, Mặc tử lẽ nào không biết.

Vậy thì thuyết suông không đủ, làm gương không đủ, vẫn phải thưởng phạt, ai “kiêm” thì được thưởng, ai “biệt” thì bị trừng trị, bị “chế tài”. Nhưng ai cao quí nhất, sáng suốt nhất để làm “pháp nghi”, tức phép tắc mẫu mực, và có quyền tối thượng để thưởng, phạt? Tất không phải là một người thường cũng không thể là một bậc “quân” vì trong xã hội, hạng quân có đức nhân bao giờ cũng ít; rốt cuộc cũng chỉ có trời thôi. Do đó mà có thiên Thiên chí (ý trời). Mặc đem thuyết Kiêm ái của mình gán cho trời: ông bảo trời kiêm ái, yêu trăm họ trong thiên hạ, muốn cho trăm họ yêu lẫn nhau, ai theo ý trời thì trời thưởng, làm trái ý trời thì trời phạt. Trời vốn “vô ngôn” (không nói), muốn cho trời nói sao mà chẳng được? Vì vậy mà Phương Thụ Sở (sách đã dẫn) bảo: người ta thường nói “thế thiên hành đạo”, Mặc thì ngược lại: “Thiên thế Mặc hành đạo” (Trời thay Mặc tử mà hành đạo, tức trừng trị kẻ vô đạo).

Trời ở xa quá, tít trên chín từng mây, ít ai sợ, trời lại có một mình, nên Mặc tìm kẻ phụ tá cho trời, tức bọn quỉ thần mà dân chúng nhiều người sợ hơn sợ trời, do đó sau thiên Thiên chí có thiên Minh quỉ. Dưới đây chúng tôi hãy xét xem quan niệm về trời của Mặc đã.

Có thể nói toàn thể dân Trung Hoa thời đó đều tin có trời (trừ một vài kẻ như Kiệt, Trụ). Vì vậy mà không có vấn đề “minh thiên”, nghĩa là đưa chứng cớ ra để bảo rằng có trời. Ngay bọn danh gia, nguỵ biện cuối đời Chiến Quốc, cãi nhau những vấn đề rất phù phiếm như “tách rời cứng và trắng”, “trứng có lông”, “gà ba chân”… mà cũng không hề bàn “có trời hay không có trời”.

Chủ trương các phái có khác nhau chỉ là quan niệm về trời mà thôi.

Chủ trương của Lão tử tiến bộ nhất. Ông cho trời là cái luật tự nhiên, không có ý chí, không có tri thức. Vì vậy mà bảo: “Trời đất bất nhân, coi vạn vật là chó rơm” (Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu). Luật tự nhiên đó, ông gọi là Đạo.

Hầu hết các triết gia Trung Hoa đều chủ trương rằng “thiên nhân hợp nhất”, cũng gọi là “thiên nhân tương dữ”, nghĩa là người bẩm thụ được cái “tính” của trời thì đạo của trời tức là đạo của người.

Quan niệm đó đã phổ thông ở Trung Hoa từ đời thượng cổ. Trong Kinh Thi có câu: “Trời sinh ra dân, có hình pháp, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt” (Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức[1]).

Chữ “dân” trong câu đó đồng nghĩa với chữ “nhân” là người, như ta thường thấy trong ngũ kinh.

Trời là một ông nguyên hậu, nên gọi là Đế hay Thượng Đế. Thượng Đế cai quản cả bách thần, vạn vật trong vũ trụ, hay thương dân. Kinh Thi nói: “Hoàng hĩ Thượng Đế lâm hạ hữu hách giám quan tứ phương, cầu dân chi mạc[2]”: Đức của Thượng Đế rất cao, soi xuống dưới đất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp.

Hơn nữa người Trung Hoa còn tin rằng trời và người có thể tương cảm, tương ứng được, nên có điều gì hồ nghi, họ thường bói bằng mai rùa hoặc cỏ thi để xin cho biết việc cát hung. Các vua chúa thời xưa đều dùng quan Thái bốc để coi việc bói toán là vì vậy.

Khổng tử chắc là tin có trời và có thể chấp nhận chủ trương trên, nhưng ông ít nói đến trời, cơ hồ chỉ coi trời là cái lí vô hình, rất linh, rất mạnh, khi đã biến động ra sao thì không ai cưỡng lại được. Cái đó ông gọi là thiên mệnh mà chúng ta sẽ xét trong một chương sau. Trong thiên Dương Hoá, bài 19, ông bảo Tử Cống: “Trời có nói gì đâu? Bốn mùa xoay vần mà trăm vật sinh hoá. Trời có nói gì đâu?” (Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bách vật[3] sinh yên. Thiên hà ngôn tai?[4]).

Vậy quan niệm của ông tiến bộ hơn quan niệm cổ của Trung Hoa và xích lại gầm quan niệm của Lão tử.

Mặc tử sinh sau Khổng tử, muốn trở lui về quan niệm thời thượng cổ, vì nó hợp với tín ngưỡng đại đa số quần chúng hơn. Ông cho trời là chủ tể duy nhất của toàn thể nhân loại, là một đấng tối cao, rất nghiêm và rất công bằng như gia trưởng một nhà, quốc quân một nước, hễ mắc tội với trời thì không trốn đi đâu được, vì ở đâu trời cũng trông thấy hết. (Như vậy là trời có nhân cách, chứ không phải là một cái lí mầu nhiệm nữa); cho nên người nào cũng phải tuyệt đối phục tòng trời. Ý đó được diễn ở đầu thiên Thiên chí thượng:

“Các bậc sĩ quân tử ngày nay biết điều nhỏ mà không biết điều lớn. Làm sao biết được vậy? Xem họ ở trong nhà thì biết được. Ở trong nhà, hễ mang tội với gia trưởng thì trốn qua nhà hàng xóm được. Vậy mà cha mẹ, anh em biết được tất răn đe, bảo: “Không thể không tự răn mình! Không thể không cẩn thận! Ở trong nhà mà sao lại có thể làm một việc mang tội với gia trưởng được?”

Không phải chỉ ở trong nhà mới vậy; dù ở trong nước cũng vậy nữa. Ở trong nước mà mang tội với vua thì có thể trốn qua nước láng giềng. Vậy mà cha mẹ anh em biết được tất đe răn, bảo: “Không thể không tự răn mình! Không thể không cẩn thận! Ở trong nước mà sao lại có thể làm một việc mang tội với vua được?”

Có nơi để trốn mà còn răn đe nhau kĩ như vậy, huống hồ không có nơi nào để trốn thì chẳng càng nên răn đe nhau kĩ hơn ư? Và ngạn ngữ có câu: “…[5] Thế là mang tội, biết trốn đi đâu? Đáp: “Không trốn đi đâu được cả! Dù ở trong rừng trong hang, chỗ tối tăm không người, trời cũng thấy được”. Vậy mà bậc sĩ quân tử trong thiên hạ đối với trời lại không để ý tới. Không biết răn đe nhau [đừng làm gì mang tội với trời]. Vì vậy tôi biết rằng họ biết điều nhỏ mà không biết điều lớn”.

(Thử hữu sở tị đào chi giả dã, tương cảnh giới do nhược thử kì hậu; huống vô sở tị đào chi giả, tương cảnh giới khởi bất dũ hậu, nhiên hậu khả tai? Thả ngữ viết: “…yên nhi đắc tội, tường ô tị đào chi? Viết: vô sở tị đào chi! Phù thiên bất vi lâm cốc u môn vô nhân, minh tất kiến chi. Nhiên nhi thiên hạ chi sĩ quân tử chi ư thiên dã, hốt nhiên bất tri dĩ tương cảnh giới, thử ngã sở dị tri thiên hạ sĩ quân tử tri tiểu nhi bất tri đại dã[6]).

Trời là chủ tể muôn loài thì tất cao quí hơn vua rồi, Mặc tử còn cẩn thận chứng minh thêm, bảo “ba đời thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ[7] thời xưa muốn đem việc trời sửa lại cho thiên tử, mà thuyết minh cho trăm họ trong thiên hạ rõ, mới dùng cỏ nuôi bò cừu, dùng lúa nuôi chó heo, làm xôi rượu tinh khiết để cúng Thượng Đế, quỉ thần mà cầu trời ban phúc cho. Tôi chưa từng nghe trời cầu thiên tử ban phúc bao giờ… Thiên tử là bậc cực quí, cực phú trong thiên hạ, cho nên muốn được phú quí, không thể không thuận ý trời được.

(Tích tam đại thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ dục dĩ thiên chi vi chính ư thiên tử, minh thuyết thiên hạ chi bách tính, cố mạc bất xô ngưu dương, hoạn khuyển trệ, khiết vi tư thịnh tửu lễ, dĩ tế tự thượng đế quỉ thần[8], nhi cầu kì phúc ư thiên. Ngã vị thường văn thiên chi cầu[9] kì phúc ư thiên tử giả dã… Thiên tử giả, thiên hạ chi cùng quí dã, thiên hạ chi cùng phú dã, cố ư phú thả quí dã, đương thiên ý nhi bất khả bất thuận. – Thiên chí thượng).

Nghĩa là theo ông, trời quí hơn vua vì ông chỉ thấy trời ban phúc cho, chứ chưa hề thấy trời xin vua ban phúc cho bao giờ!

Trời còn quí hơn vua vì trời thưởng cho các vua thuận ý trời như Vũ, Thang, Văn, Võ, và phạt các vua nghịch ý trời như Kiệt, Trụ, U, Lệ.

Trời sáng suốt hơn vua. Ngoài lẽ đã kể trên: dù ở trong rừng trong hang, chỗ tối tăm nào trời cũng thấy được, còn vì lẽ trời muốn điều nghĩa, và yêu trăm họ. Nhưng sao biết trời muốn điều nghĩa và ghét điều bất nghĩa? Mặc tử đáp:

“Thiên hạ có nghĩa (theo điều nghĩa) thì sống, không có nghĩa thì chết, có nghĩa thì giàu, vô nghĩa thì nghèo; có nghĩa thì trị, vô nghĩa thì loạn. Mà trời muốn sinh ghét tử, muốn giàu ghét nghèo; muốn[10] trị ghét loạn; vì vậy mà tôi biết rằng trời muốn điều nghĩa mà ghét điều bất nghĩa” – Thiên hạ hữu nghĩa tắc sinh, vô nghĩa tắc tử, hữu nghĩa tắc phú, vô nghĩa tắc bần, hữu nghĩa tắc trị, vô nghĩa tắc loạn. Nhiên tắc thiên dục kì sinh nhi ố kì tử, dục kì phú nhi ố kì bần, dục kì trị nhi ố kì loạn, thử ngã sở dĩ tri thiên dục nghĩa nhi ố bất nghĩa dã – (Thiên chí thượng[11]).

Và làm sao biết được trời yêu trăm họ?

Ông đáp: “Vì trời đã gồm mà làm lợi cho cả.

- Sao biết được trời đã gồm mà làm lợi cho cả? – Vì trời gồm trăm họ mà có hết thảy (coi là con của mình).

- Sao biết được trời gồm trăm họ mà có hết thảy? - Vì trời gồm trăm họ mà nuôi hết thảy.

- Sao biết được trời gồm trăm họ mà nuôi hết thảy? Đáp: Trong bốn bể, những dân ăn gạo, không ai là không dùng cỏ nuôi bò, cừu, dùng lúa nuôi chó, heo, làm xôi, rượu tinh khiết để cúng Thượng Đế, quỉ thần. Trời có dân thường sao lại không yêu? Vả lại tôi bảo: Giết một kẻ vô tội thì bị một điều chẳng lành. Ai giết kẻ vô tội? Người giết. Mà giáng cho một điều chẳng lành là ai? Là trời. Nếu cho rằng trời không yêu trăm họ trong thiên hạ thì người nọ giết người kia, can cớ gì tới trời mà trời giáng điều chẳng lành? Do đó mà tôi biết rằng trời yêu trăm họ trong thiên hạ”.

(Hà dĩ tri thiên chi ái thiên hạ chi bách tính? Dĩ kì kiêm nhi lợi chi – Hà dĩ tri kì kiêm nhi lợi chi?[12] Dĩ kì kiêm chi hữu chi – Hà dĩ kì kiêm nhi hữu chi? – Dĩ kì kiêm nhi tự yên – Hà dĩ kì kiêm nhi tự yên? Viết: Tứ hải chi nội, lạp thực chi dân mạc bất sô ngưu dương, hoạn khuyển trệ, khiết vi tư thỉnh tửu lễ dĩ tế tự ư Thượng Đế, quỉ thần. Thiên hữu ấp nhân, hà dụng phất ái dã? Thả ngô ngôn sát nhất bất cô giả, tất hữu nhất bất tường. Sát bất cô giả, thuỳ dã? Tắc nhân dã. Dữ chi bất tường giả, thuỳ dã? Tắc thiên dã. Nhược dĩ thiên vi bất ái thiên hạ chi bách tính, tắc hà cố dĩ nhân tương sát nhi thiên dữ chi bất tường? Thử ngã sở tri thiên chi ái thiên hạ chi bách tính dã[13] - Thiên chí thượng).

Tóm lại, có hai lẽ khiến cho chúng ta biết được rằng trời yêu trăm họ:

1. Trăm họ do trời sinh và trời nuôi.

2. Kẻ nào giết người thì bị trời phạt.

Lẽ thứ nhất được ông diễn lại đầy đủ hơn trong Thiên chí trung: “Có lí do làm cho ta biết rằng trời thương yêu dân nhiều. Này nhé: xoay chuyển mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao để soi dắt dân; sinh ra bốn mùa để làm kỉ cương cho dân; làm ra sấm sét, tuyết sương, mưa móc cho ngũ cố, tơ gai lớn lên để dân có cái mà dùng… sinh ra các vị vương, công, hầu, bá để thưởng người hiền, phạt kẻ bạo tàn; ban cho loài kim, mộc, chim muông, giúp vào việc trồng ngũ cốc, gai tơ để cho dân có miếng ăn, thức mặc”.

(Ngô sở dĩ tri thiên chi ái dân chi hậu giả hĩ, hữu hĩ, viết: Dĩ ma vị nhật nguyệt tinh thần dĩ chiêu đạo chi; chế tứ thời xuân thu đông hạ dĩ kỉ cương chi; lôi giáng tuyết sương vũ lộ dĩ trưởng toại cốc ma li; sử dân đắc nhi tài lợi chi… Vi vương công hầu bá, sử chi thưởng hiền nhi phạt bạo; phú[14] kim mộc điểu thú, tòng sự hồ ngũ cốc ma ti dĩ vi dân thực chi tài[15]).

Đầu thiên Thượng hiền trung, Mặc tử đưa ra qui tắc này: “Người sang (cao quí) và sáng suốt cai trị kẻ ngu và hèn thì nước trị; người ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì nước loạn” – Tự quí thả trí giả, vi chính hồ ngu thả tiện giả tắc trị; tự ngu thả tiện giả, vi chính hồ quí thả trí giả tắc loạn[16]. Trời đã cao quí hơn cả, lại sáng suốt hơn cả, tất phải cai trị tất cả loài người; mà ý trời – tức yêu dân, làm lợi cho dân – phải là phép tắc, mẫu mực trong việc trị dân của nhà cầm quyền, cũng như cái thước tròn (qui), thước vuông (củ) là phép tắc mẫu mực của người thợ.

Đây là điểm Mặc khác Nho. Mặc bảo phải theo ý trời, Nho bảo phải theo ý dân. Chúng ta còn nhớ những câu trong Kinh Thi:

Dân chi sở hiếu, hiếu chi,

Dân chi sở ố, ố chi.

(Tiểu nhã)

và:

Đắc chúng tắc đắc quốc,

Thất chúng tắc thất quốc.

(Đại nhã)

Tuy Nho cũng chủ trương rằng ý dân và ý trời là một:

“Trời thương dân, dân muốn gì trời cũng theo” (Thiên cang vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chi[17]).

Cho nên muốn biết lòng trời thì cứ xem lòng dân.

“Trời trông thấy tự ở dân ta thấy, trời nghe thấy tự ở dân nghe thấy” (Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân thính[18] – Thư, Thái thệ).

Chung qui theo ý trời hay theo ý dân thì cũng là mưu cầu hạnh phúc cho dân cả, nhưng chủ trương như Nho là trọng ý dân, dân quyền, mà lần lần có thể hướng về dân chủ; còn chủ trương như Mặc là trọng thần quyền, có xu hướng độc tài, do đó mà Mặc đưa thêm thuyết “Thượng đồng” nữa, như trong chương sau chúng ta sẽ thấy.

Ý trời là phép tắc, mẫu mực rồi, ai theo thì được trời thưởng, không theo thì bị trời phạt. Mặc tử dẫn chứng trong lịch sử:

Thiên Thiên chí thượng, ông bảo:

Vũ, Thang, Văn, Võ được trời thưởng “vì, trên thì tôn trời, giữa thì thờ quỉ thần, dưới thì yêu người. Cho nên ý trời bảo: Những kẻ ta yêu, hắn gồm yêu cả; những kẻ ta làm lợi cho, hắn gồm làm lợi cho cả; yêu người như vậy là rộng khắp, làm lợi cho người như vậy là nhiều, cho nên ta cho hắn sang tới mức làm thiên tử, giàu tới mức có cả thiên hạ, sự nghiệp truyền cho con cháu vạn đời, đời đời khen là thiện, phổ biến khắp thiên hạ, tới nay vẫn còn, gọi là thánh vương”.

Còn Kiệt, Trụ, U, Lệ “vì trên thì mắng trời, giữa thì nói xấu quỉ thần, dưới thì hại người, cho nên trời bảo: Những kẻ ta yêu thì hắn tách ra mà ghét, những kẻ ta làm lợi cho thì hắn đều làm hại, ghét người như vậy là rộng khắp, làm hại cho người như vậy là nhiều; cho nên ta không cho được sống hết tuổi thọ, không hết đời hắn, đến nay còn bị huỷ báng, gọi là bạo vương”.

(Vũ, Thang, Văn, Võ… thượng tôn thiên, trung sự quỉ thần, hạ ái nhân. Cố thiên ý viết: thử chi ngã sở ái, kiêm nhi ái chi; ngã sở lợi, kiêm nhi lợi chi; ái nhân giả thử vi bác yên; lợi nhân giả thử vi hậu yên. Cố sử quí vi thiên tử, phú hữu thiên hạ, nghiệp diên vạn thế tử tôn, truyền xưng kì thiện, phổ thi thiên hạ, chí kim xưng chi, vị chi thánh vương… Kiệt, Trụ, U, Lệ… thượng cấu thiên, trung vu quỉ, hạ tặc nhân. Cố thiên ý viết: Thử chi ngã sở ái, biệt nhi ố chi; ngã sở lợi, giao nhi tặc chi; ố nhân giả thử vi chi bác dã; tặc nhân giả thử vi chi hậu dã. Cố sử bất đắc chung kì thọ, bất một kì thế, chí kim huỷ chi, vị chi bạo vương[19]).

Đoạn đó ông nhắc các vua chúa phải kiêm ái; đoạn dưới đây cũng trong Thiên chí thượng, ông cảnh cáo họ một lần nữa đừng đánh chiếm, tranh giành lẫn nhau:

“Dùng chính sách [nhân] nghĩa là thuận ý trời, dùng chính sách [võ] lực là trái ý trời. Dùng chính sách nhân thì… ở vào địa vị nước lớn không đánh chiếm nước nhỏ; nhà lớn không cướp nhà nhỏ, mạnh không hiếp yếu, người sang không ngạo mạn kẻ nghèo, số đông không cưỡng bức số ít, kẻ khôn lanh không lường gạt kẻ ngu, như vậy ở trên tất lợi cho trời, ở giữa lợi cho quỉ thần, ở dưới lợi cho người. Có ba cái lợi mà không có gì bất lợi, cho nên khắp thiên hạ đều khen, gọi là thánh vương.

“Dùng chính sách [võ] lực thì… ở vào địa vị nước lớn đánh chiến nước nhỏ, nhà lớn hiếp nhà nhỏ, mạnh hiếp yếu, người sang ngạo mạn kẻ nghèo, số đông cưỡng bức số ít, kẻ xảo trá lừa gạt kẻ ngu, như vậy ở trên không lợi cho trời, ở giữa không lợi cho quỉ thần, ở dưới không lợi cho người. Có ba cái bất lợi mà không có gì lợi cả cho nên khắp thiên hạ đều chê, gọi là bạo vương”.

(Thuận thiên ý giả, nghĩa chính dã; phản thiên ý giả, lực chính giả… Nghĩa chính giả… Xử đại quốc bất công tiểu quốc, xử đại gia bất thoán tiểu gia, cường giả bất kiếp nhược, quí giả bất ngạo tiện, đa giả bất bạo quả[20], trá giả bất khi ngu. Thử tất thượng lợi ư thiên, trung lợi ư quỉ, hạ lợi ư nhân. Tam lợi, vô sở bất lợi, cố cử thiên hạ mĩ danh gia chi, vị chi thánh vương. Lực chính giả… Xử đại quốc công tiểu quốc, xử đại gia thoán tiểu gia, cường giả kiếp nhược, quí giả ngạo tiện, đa giả bạo quả, trá giả khi ngu. Thử tất thượng bất lợi ư thiên, trung bất lợi ư quỉ, hạ bất lợi ư nhân. Tam bất lợi, vô sở lợi, cố cử thiên hạ ác danh, vị chi bạo vương[21]).

Thiên Thiên chí đọc rất chán: ý nông cạn mà lời lại rườm. Mặc tử gán cho trời những tư tưởng của mình để cho thuyết Kiêm ái và Phi công được nhiều người tin. Đúng như Phương Thụ Sở nói: ông bắt trời thay ông mà hành đạo. Nhưng chính trị gia vẫn thường dùng thủ đoạn, mà thủ đoạn của ông có thể được giới tiện nhân thời ông tin, thích và dù sao nó cũng là một thủ đoạn nhân từ, chỉ có lợi cho dân, chứ vô hại.

B. QUỈ THẦN

Cuối thiên Minh quỉ hạ, Mặc tử định nghĩa quỉ thần như sau: “Từ xưa tới nay gọi quỉ thần thì không ngoài những hạng này: quỉ thần ở trời, quỉ thần sông núi và người chết mà thành quỉ” (Cổ chi kim chi vi quỉ, phi tha dã: hữu thiên quỉ, diệc hữu sơn thuỷ quỉ thần giả, diệc hữu nhân tử vi quỉ giả[22]).

Dân tộc Trung Hoa cũng như mọi dân tộc thời đó đều tin có quỉ thần và rất sợ quỉ thần. Khổng tử có lẽ cho quỉ thần là cái khí thiên trong trời đất. Ông cũng tế thần, để tỏ lòng cung kính. Ông bảo: “Tế thần thì phải cung kính như thần ở trước mặt” (Tế thần như thần tại – Bát dật 12). Nhưng ông không bao giờ tế để cầu phúc. Bài 34 thiên Thuật nhi chép rằng một lần ông đau nặng, môn sinh là Tử Lộ xin làm lễ cầu đảo. Ông hỏi: “Có lẽ ấy chăng?[23] Tử Lộ đáp: “Có. Sách Luỵ (chép các bài văn tế đời Văn vương nhà Chu) có câu này: “Chúng tôi cầu đảo với các thần trên trời và dưới đất”. Tử Lộ không hiểu ý ông. Lẽ nào ông không biết các bài văn tế đời Chu, và cái lệ cầu đảo rất thịnh hành, ông chỉ muốn bảo: Có lẽ nào cầu đảo mà hết bệnh. Cuối cùng ông phải nói thêm: “Khâu này cầu đảo đã lâu rồi”.

Thiên Bát dật, bài 13, ông cũng bảo: “Mắc tội với trời thì cầu đảo vào đâu được” – (Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã).

Tóm lại, thái độ của ông đối với quỉ thần là “kính nhi viễn chi” (Ung dã – 20), nghĩa là kính trọng quỉ thần nhưng nên xa xa, tức đừng thường cầu thỉnh van vái, mình cứ theo cái đạo phải mà làm, quỉ thần sẽ biết cho. Mình cứ lo làm hết bổn phận với người khác đã, như vậy chưa chắc đã xong, nghĩ chi tới việc thờ quỉ thần: Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ[24].

Việc quỉ thần, cũng như việc chết rồi sẽ ra sao, cõi u minh ra sao, là những việc huyền bí, không thiết thực bằng việc đời, chưa cần bàn tới.

Mặc tử mạt sát thái độ “kính nhi viễn chi”, “bất sự quỉ” đó, là làm cho mất nước (bài 15, thiên Công Mạnh đã dẫn) vì từ quan tới dân chúng không sợ quỉ phạt nên mới làm bậy, mà nước mới loạn. Để chứng minh rằng quỉ thần có thực, rất thông minh, cũng nói như người, thưởng những kẻ thiện, phạt những kẻ ác, ông dùng ba tiêu chuẩn mà ông gọi là “tam pháp” hay “tam biểu”, góp công đầu tiên về việc định thế nào là “chân tri”, tức chân lí, làm cho tri thức luận trong triết học Trung Hoa tiến được một bước, và mở đường cho phái danh gia sau này. Hai thiên Phi mệnh thượng và hạ đều giảng về ba tiêu chuẩn đó.

Trong phần IV, chúng tôi sẽ dịch trọn Phi mạng[25] hạ, ở đây chúng tôi giới thiệu Phi mạng thượng để độc giả so sánh:

“Thầy Mặc tử nói: Hễ nói năng bàn luận thì không thể không định tiêu chuẩn trước rồi sau mới bàn. Không định tiêu chuẩn trước rồi sau mới nói bàn thì cũng như để đồ trắc ảnh (dò bóng) trên cái mâm xoay [của người thợ gốm] mà tìm phương hướng sáng chiều [đông, tây][26]; thế nào là phải trái, lợi hại, không thể biết rõ được. Cho nên nói phải có ba tiêu chuẩn.

Thế nào là ba tiêu chuẩn? Thầy Mặc tử nói: có cái biểu chuẩn căn cứ vào việc xem xét bản thuỷ, có cái biểu chuẩn căn cứ vào việc quan sát sự cố, có cái biểu chuẩn căn cứ vào kết quả ứng dụng.

Xét bản thuỷ ở đâu? – Trên thì xét công việc của các đấng thánh vương đời xưa.

Quan sát sự cố ở đâu? – Dưới thì quan sát thực tình tai mắt của trăm họ.

Xem xét kết quả ứng dụng ở đâu? - Ở việc áp dụng vào hình chính, xem có phù hợp với quyền lợi của trăm họ nhân dân, nhà nước không?

Thế gọi là “nói có ba tiêu chuẩn”.

“Tử Mặc tử viết: Ngôn tất lập nghi. Ngôn nhi vô nghi, thí do vận quân chi thượng nhi lập triêu tịch giả dã, thị phi lợi hại chi biện, bất khả đắc nhi minh tri dã. Cố ngôn tất hữu tam biểu. Hà vị tam biểu? Tử Mặc tử viết: Hữu bản chi giả, hữu nguyên chi giả, hữu dụng chi giả.

Vu hà bản chi? Thượng bản chi vu cổ giả thánh vương chi sự.

Vu hà nguyên chi? Hạ nguyên sát bách tính nhĩ mục chi thực.

Vu hà dụng chi? Phát[27] dĩ vi hình chính, quan kì trúng[28] quốc gia bách tính nhân dân chi lợi.

Thử ngôn hữu tam biểu dã”[29].

Phi mạng thượng gọi là tam biểu thì Phi mạng hạ gọi là tam pháp. Tam biểu gồm bản, nguyên, dụng. Tam pháp gồm khảo, nguyên, dụng. Vậy bản trong thiên thượng tức là khảo trong thiên hạ.

Biểu thứ nhất là phải xét xem có hợp với kinh nghiệm của các thánh vương đời xưa với các chân lí các vị đó đã khám phá được không. Nếu hợp với hành động của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ chẳng hạn thì theo, nếu hợp với hành động của Trụ, Kiệt, U, Lệ chẳng hạn thì bỏ. Biểu đó chỉ đúng một phần thôi, vì không chú ý đến yếu tố thời gian: có việc thời xưa hay mà thời nay dở, vì không hợp với điều kiện sinh hoạt hiện nay nữa. Theo đúng biểu đó thì là thủ cựu, pháp cổ mất rồi, cho nên Mặc gia đời sau (phái Biệt Mặc) không chấp nhận mà phản đối.

Biểu thứ nhì là phải quan sát thực tình tai mắt của trăm họ, tức là phải xem có hợp với kinh nghiệm sống của đa số dân chúng không. Như vậy quá tin ở cảm quan của đa số, mà cảm quan thì có khi sai, chẳng hạn người nhút nhát đi đêm thấy một khúc dây leo tưởng là rắn, hoặc người đi trong sa mạc trông thấy ảo ảnh, rồi hễ một người đồn thì cả chục người tin.

Biểu thứ ba là căn cứ vào kết quả ứng dụng, nếu thi hành mà có ích lợi cho đa số thì là đúng, không sai. Nhưng có ích về mặt này thì có thể có hại về mặt khác, có ích lợi ngắn hạn và ích lợi lâu dài.

Rốt cuộc biểu nào cũng chỉ đúng một phần thôi – chưa đủ để cho ta quyết định là chân lí được.

Thiên Minh quỉ hạ, ông bảo: “Từ khi có loài người tới nay, nếu vẫn từng trông thấy hình dáng quỉ thần, nghe thấy tiếng nói của quỉ thần thì sao lại bảo là không có được?”.

Rồi ông dẫn năm cố sự chép trong sách để làm chứng cứ:

“Vua Tuyên vương nhà Chu giết một bề tôi vô tội là Đỗ Bá. Đỗ Bá bảo: “Ta vô tội mà nhà vua giết ta; nếu chết rồi không còn biết gì nữa thì thôi; nhược bằng chết rồi còn biết thì không ngoài ba năm ta sẽ khiến cho nhà vua biết”. Ba năm sau, nhà vua họp chư hầu đi săn ở Phố Điền, có mấy trăm cổ xe, mấy ngàn người theo, đầy đồng. Giữa trưa, Đỗ Bá cưỡi ngựa trắng, đánh xe không, bận áo và đội mũ đỏ, cầm cung đỏ, cắp tên đỏ, đuổi theo Tuyên vương, bắn vào xe Tuyên vương, Tuyên vương bị tên trúng tim, gãy xương sống, ngã trong xe, gục lên cái túi cung mà chết. Lúc đó người nước Chu đi theo nhà vua, không ai là không thấy, những người ở xa không ai là không nghe, việc đó còn chép trong sử Chu. Ông vua nào cũng đem ra dạy bề tôi, người cha nào cũng đem ra răn con: “Phải răn mình, cẩn thận đấy! Hễ giết kẻ vô tội thì sẽ bị điều chẳng lành, bị quỉ thần phạt mau như vậy đấy!” Xét việc chép trong sách đó (tức sử nhà Chu) thì quỉ thần quả là có, còn ngờ gì nữa”.

Đây Mặc tử muốn áp dụng biểu thứ nhì: nguyên; nhưng đáng lẽ phải chép lại một việc xảy ra ở thời ông, được nhiều người mắt thấy tai nghe, thì ông chỉ dẫn một truyện trong sách cổ mà ông vội tin là đúng. Bốn truyện sau cũng vậy, rút trong sử nước Tần, nước Yên, nước Tống, nước Tề.

Có người bẻ ông rằng “thượng sĩ quân tử” – tức bậc thượng lưu, trí thức – sao lại tin chắc vào cái mà quần chúng mắt thấy tai nghe? Ông dùng biểu thứ nhất: bản (hay khảo) để đáp, và ông dẫn những hành vi của ba đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ. Các thánh vương đó đều tin có quỉ thần, đều thờ quỉ thần.

Chẳng hạn vua Võ vương nhà Chu: “Xưa đánh nước Ân, giết vua Trụ rồi phân phối việc tế tự [của nhà Ân] cho các chư hầu, bảo: “Nước nào thân với Ân – tức cùng họ với nhà Ân – thì coi về tôn miếu cho nhà Ân; nước nào sơ – tức khác họ với nhà Ân – thì coi về việc tế các thần núi sông, bốn phương. Võ vương tất phải cho rằng có quỉ thần thì mới đánh nhà Ân, giết vua Trụ, phân phối việc tế tự cho chư hầu. Nếu không có quỉ thần thì phân phối việc tế tự làm gì?” (Minh quỉ hạ).

Vì tin có quỉ thần nên các thánh vương ba đời Ngu, Hạ, Chu trị thiên hạ, lo việc cúng quỉ thần rồi mới tới việc người. (Cố cổ thánh vương trị thiên hạ dã, cố tất tiên quỉ thần nhi hậu nhân giả, thử dã[30] – (Minh quỉ hạ). Chứng cớ là ngày đầu dựng nước, lập đô, họ tất chọn một cái đàn chính làm tôn miếu, chọn những cây to và xanh tốt làm bụi cây ở nền xã, chọn những bậc phụ huynh từ hiếu, chính trực, hiền lương làm chức thái chúc (coi việc cầu phúc), chức tôn bá (coi việc lễ); lựa những lục súc (ngựa, bò, cừu, gà, lợn, chó) nào béo, lông tuyền một màu, làm vật cúng tế, (…) lựa ngũ cốc nào thơm vàng để làm rượu, xôi…”.

Họ chăm lo việc quỉ thần rất mực, sợ con cháu đời sau không biết việc nên chép vào thanh tre, tấm lụa truyền lại cho chúng, lại sợ mọt ăn, mục nát hết, nên chạm vào cái mâm, cái bát, khắc vào đá vào đồng để giữ lại được lâu. Cứ đọc các sách Hạ thư, Chu thư thì thấy, các sách đó đều cho quỉ thần quả là có, còn ngờ gì nữa. (Minh quỉ hạ).

Về biểu thứ ba: dụng, Mặc tử cho rằng nếu trăm họ tin có quỉ thần, sợ quỉ thần thì nước sẽ trị vì quỉ thần rất sáng suốt, biết được kẻ gian, người ngay, thưởng người thiện, trừng trị kẻ ác:

Quỉ thần sáng suốt cũng ngang với trời, “dù ở trong khe tối, trên chằm rộng, nơi thâm sơn cùng cốc, quỉ thần tất cũng biết được”.

(Quỉ thần chi minh, bất khả vi u gián quảng trạch, sơn lâm thâm cốc, quỉ thần chi minh tất tri chi[31] – Minh quỉ hạ).

Thiên Canh Trụ, 2, Mặc còn bảo: “Quỉ thần sáng suốt hơn thánh nhân, cũng như người sáng tai sáng mắt so với người điếc người đui” (Quỉ thần chi minh trí ư thánh nhân, do thông nhĩ minh mục chi dữ lung cổ dã[32]).

Ông dẫn chứng: Xưa vua nhà Hạ là ông Khải sai Phi Liêm đào quặng đồng trong núi để đúc vạc ở Côn Ngô, và bảo ông Bá Ích nướng mai rùa để bói. Quỉ thần cho biết rằng chín vạc sẽ đúc xong và sau sẽ “dời về ba nước”, [tức Hạ, Thương, Chu]. Quả nhiên sau nhà Hạ để mất vạc, nhà Ân nhận lấy. Ba nhà đó truyền lại cho nhau mấy trăm năm. Và Mặc kết: “Dù thánh nhân có tụ họp các bề tôi giỏi, các tướng quốc tài trí cũng không sao biết được việc mấy trăm năm sau, thế mà quỉ thần biết đấy”.

Vậy không làm một điều gì mà có thể giấu quỉ thần được. Người tốt thì được quỉ thần thưởng như Mục công nước Tần:

“Xưa, vua Mục công nước Tần đương giữa trưa thấy một vị thần vô cửa, mặt người mà mình chim, áo trắng viền đen, khuôn mặt vuông vức. Mục công kinh hoảng, vùng chạy. Vị thần đó bảo: “Đừng sợ, Thượng Đế khen đức sáng của ngươi, sai ta cho ngươi thọ thêm mười chín năm, nước ngươi thịnh vượng, con cháu đông đúc, dòng dõi không tuyệt”. Mục công dập đầu lạy hai lạy, hỏi: “Xin quỉ thần cho biết tôn danh”. Đáp: “Ta là thần Cẩu Mang[33] (coi về mùa xuân) – (Minh quỉ hạ)[34].

Còn kẻ ác thì quỉ thần trừng trị, dù kẻ đó “giàu sang, đông đảo, mạnh mẽ, có võ lực, áo giáp cứng, binh khí bén, quỉ thần tất cũng thắng được” – Quỉ thần chi phạt, bất khả vi phú quí chúng cường, dũng lực cường vũ, kiên giáp cường binh, quỉ thần chi phạt tất thắng chi[35] – (Minh quỉ hạ).

Tức như trường hợp Kiệt và Trụ.

“Vua Kiệt nhà Hạ, sang tới mức làm thiên tử, giàu tới mức có cả thiên hạ, nhưng trên thì mắng trời, khinh quỉ, dưới thì sát hại vạn dân, lừa gạt Thượng Đế, chặt hết cây trên đàn thờ Thượng Đế ở Nguyên Sơn, thấy vậy trời mới sai vua Thang rất sáng suốt trừng trị vua Kiệt. Vua Thang đem chín chục cỗ chiến xa, bày binh bố trận, từ trên Đại Tán đánh xuống quân nhà Hạ, vô tới phía ngoài kinh đô rồi bắt được Thôi Di Đại Hi [mạnh tới nỗi đẩy lùi được một con bò lớn]. Vậy vua nhà Hạ là Kiệt, sang tới làm thiên tử, giàu có tới có cả thiên hạ, dũng sĩ Thôi Di Đại Hi dùng loài tê ngưu, loài cọp tác chiến; dân chúng đông đúc tới ức triệu, đầy gò, đầy chằm, mà cũng không ngăn được trừng trị của quỉ thần”.

Chúng ta thấy trong hai thí dụ kể trên, việc thưởng phạt đều là ý trời cả. Ý đó cũng là ý của Nho gia, chỉ khác Nho cho là ý trời với ý dân là một, còn Mặc gia cho ý trời và ý quỉ thần là một để đưa tới kết luận này:

“Như vậy quỉ thần thưởng được người hiền, phạt được kẻ bạo ngược, thi hành [chủ trương có quỉ thần] ở trong nước có vạn dân. Quan chức nào coi kho lẫm của nhà nước mà không liêm khiết, trai gái nào sống lẫn lộn lén lút với nhau, quỉ thần tất thấy; người dân nào mà dâm bạo trộm cướp, làm giặc làm loạn, dùng khí giới, thuốc độc, nước lửa để chặn kẻ vô tội ở trên đường, cướp xe ngựa áo mỏng, áo lông của người để làm lợi cho mình, quỉ thần tất thấy. Như vậy quan chức nào coi kho lẫm của nhà nước, không dám không liêm khiết, thấy người thiện không dám không thưởng, thấy kẻ bạo ngược không dám không trị tội. Do đó sẽ không còn những kẻ dạm bạo, trộm cướp, làm giặc, làm loạn, dùng khí giới thuốc độc nước lửa để chặn kẻ vô tội ở trên đường, cướp ngựa xe, áo mỏng, áo lông của người để làm lợi cho mình. Thế là thiên hạ yên (…) Cho nên “các bậc vương công đại nhân, sĩ quân tử trong thiên hạ ngày nay, nếu thực tâm muốn dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì nên nhận rằng có quỉ thần và không thể không tôn thờ quỉ thần, làm sáng tỏ cái lẽ có quỉ thần cho dân chúng thấy. Đó là đạo của thánh vương”.

“Thiên hạ chi vương công, đại nhân, sĩ quân tử, thực tương dục cầu hưng thiên hạ chi lợi, trừ thiên hạ chi hại, đương nhược quỉ thần chi hữu dã, tương bất khả bất tôn minh dã. Thánh vương chi đạo dã”[36]. – Minh quỉ trung.

Thiên Công Mạnh, 7, ông nói rõ thêm: “Các thánh vương đời xưa đều cho rằng quỉ thần sáng suốt, gây hoạ phúc (…) nên trị nước mà yên. Từ đời Kiệt, Trụ về sau, đều cho quỉ thần không sáng suốt, không gây hoạ phúc được (…) mà chính sự hoá loạn, nước hoá nguy”.

Tóm lại cái dụng của thuyết có quỉ thần là “hưng thiên hạ chi lợi, trừ thiên hạ chi hại”. Đem ra ứng dụng, thuyết đó rất có ích, vậy là đúng rồi.

Phương Thụ Sở (sách đã dẫn – tr.106) bảo hai thiên Thiên chí, Minh quỉ giúp cho hạng tiện nhân có dũng khí để chống lại bọn quí tộc, vì quí tộc mà làm bậy thì bị trời phạt và quỉ thần trừng trị. Có thể như vậy, nhưng coi lại đoạn dẫn ở trên: trai gái mà sống lẫn lộn với nhau… người dân nào mà dâm bạo trộm cướp… quỉ thần tất thấy”, thì Mặc tử chẳng phải chỉ đe bọn quí tộc mà cả hạng tiện dân nữa chứ. Chẳng qua là trong một xã hội loạn, luật pháp không có hoặc có mà không công bằng, kẻ cầm quyền lộng hành, giảng đạo đức như Nho gia, không ai muốn nghe, thì Mặc mượn thần quyền để mọi người từ trên xuống dưới sợ mà bớt tàn nhẫn đi chăng; mượn một Thượng Đế thì Thượng Đế ở xa quá, chỉ trừng trị bọn vua chúa thôi, nên phải mượn thêm quỉ thần trừng trị kẻ ở dưới và những tội phạm nhẹ hơn. Có lẽ dụng ý của Mặc chỉ có vậy.

Quan niệm về quỉ thần của Mặc tử khác của Khổng tử mà thái độ của ông đối với quỉ thần lại hợp lí, có phần giống Khổng tử.

Một lần, Mặc tử đau, Phu Tị lại thăm, hỏi:

- Tiên sinh bảo quỉ thần sáng suốt, có thể gây hoạ, tạo phúc cho người được, người hiền thì thưởng, kẻ ác thì phạt. Tiên sinh là bậc thánh mà sao lại đau? Hoặc giả lời của tiên sinh không đúng chăng? Quỉ thần không sáng suốt chăng?

Ông đáp:

- Ta đau thì sao lại bảo quỉ thần không sáng suốt? Có nhiều nguyên nhân gây bệnh: nóng lạnh gây bệnh được, lao khổ cũng gây bệnh được. Nhà có một trăm cửa, mà chỉ đóng một cửa thì kẻ trộm sao lại không vô được? (Công Mạnh 20).

Lần khác, chính một môn sinh của ông – Tào Công tử - nghi ngờ thuyết quỉ thần của ông.

Tào được ông giới thiệu cho làm quan ở Tống, ba năm trở về, lại thăm ông, thưa:

- Hồi đầu con lại học thầy, mặc thì áo cộc bằng vải to, ăn thì canh rau hoắc, có bữa sáng mà không có bữa chiều, không có gì để thờ cúng quỉ thần. Nay nhờ công thầy dạy bảo, nhà con phong lưu hơn trước, nên không dám sơ suất trong việc thờ cúng quỉ thần, vậy mà trong nhà nhiều người chết, lục súc không sinh sản nhiều, thân mình thì bệnh tật liên miên, con chưa thấy đạo của thầy hữu dụng chỗ nào.

Mặc tử đáp:

- Không phải vậy. Quỉ thần đòi hỏi ở người nhiều kia: muốn rằng người nào chức cao bổng hậu thì phải kính người hiền, có nhiều của thì phải chia cho người nghèo; chứ đâu phải chỉ muốn nhón nhiều xôi, cắt nhiều miếng phổi đâu. Nay anh được chức cao bổng hậu mà không kính người hiền, đó là một điều bất tường, có của nhiều mà không chia cho người nghèo, đó là hai điều bất tường. Anh thờ quỉ thần mà chỉ biết cúng tế mà thôi, rồi phàn nàn “sao đau ốm hoài”, như vậy khác nào nhà có trăm cửa, chỉ đóng một cửa mà lấy làm lạ kẻ trộm sao vào được. Làm như anh cầu quỉ thần linh thiêng ban phúc cho sao được. (Phù quỉ thần chi sở dục ư nhân giả đa: dục nhân chi xử cao tước lộc, tắc dĩ nhượng hiền dã, đa tài tắc dĩ phân bần dã. Phù quỉ thần khỏi duy quắc thử chiết phế chi vi dục tai? Kim tử cao tước lộc nhi bất dĩ nhượng hiền, nhất bất tường dã; đa tài nhi bất dĩ phân bần, nhị bất tường dã[37]. Kim tử sự quỉ thần, duy tế nhi dĩ hĩ, nhi viết: “Bệnh hà tự chí tai”, thị do bách môn nhi bế nhất môn yên, - viết: “Đạo hà tòng nhập?” Nhược thị nhi cầu phúc ư hữu linh chi quỉ thần, khởi hà tai?[38] – Lỗ vấn 16).

Khổng tử có đáp thì cũng không khác vậy. Cứ làm hết bổn phận con người thì khỏi phải cầu đảo, tế lễ gì cũng vô ích. Cái lẽ đó, ngay một môn sinh của Mặc được Mặc giới thiệu cho làm quan, mà còn không hiểu thì thường dân có mấy người hiểu nổi? Đa số tất phải như thầy cúng nọ nước Lỗ, cúng quỉ thần một con heo mà xin quỉ thần ban cho cả trăm phúc. Mặc tử nghe được chuyện đó, bảo:

- Như vậy không thể được. Tặng người ta ít mà mong được đáp lại nhiều, thì người ta chỉ sợ được tặng thôi. Cúng một con heo mà cầu xin được cả trăm thứ phúc, thì quỉ thần rất sợ cúng bò, cừu (giọng ông thật hóm hĩnh!). Các thánh vương đời xưa thờ quỉ thần chỉ cúng tế thôi, chứ không cầu xin gì cả; nay cúng một con heo mà xin cả trăm thứ phúc thì giàu như vậy thà nghèo còn hơn. (Lỗ vấn 17).

Để kết thúc chương này, chúng tôi xin dẫn một truyện lí thú nữa: cuối thiên Minh quỉ hạ, một người không tin có quỉ thần, cho việc cúng tế là vô ích. Mặc tử đáp:

- (…) Dâng rượu xôi thanh khiết để cúng tế một cách cung kính, cẩn thận. Nếu quỉ thần có thật thì là mình mời được cha mẹ anh chị [đã khuất] về ăn uống, chẳng phải là cái lợi lớn ư? Nếu quỉ thần không có thì là phí tiền của vào việc làm xôi, rượu và mổ mấy con vật để cúng. Nhưng phí đó không phải là đổ bỏ xuống ngòi xuống rãnh, vì trong thì họ hàng, ngoài thì hàng xóm đều được ăn uống. Nếu quả thật không có quỉ thần thì như vậy [là cơ hội] để họp mặt vui vẻ với nhau, kết tình thân với làng xóm”.

Chúng ta khó thưởng tượng được một giáo chủ của phương Tây hay của Ả Rập mà có giọng như vậy: “Nếu quỉ thần có thật… Nếu quỉ thần không có…”. Đức q

Chú thích:ống địa ngục; kẻ nào không có tín ngưỡng như mình thì phải thuyết phục, nếu cần thì phải ép buộc, chứ có đâu lại khoan dung một cách Á đông như vậy: “Chư vị không tin thì cũng không sao, cứ cúng tế rồi ngã cỗ xuống mà vui vẻ ăn uống với nhau”. Mặc tử ham lí luận quá, rán lô gích thì đức tin làm sao mạnh được?

Chúng tôi ngờ lòng tin quỉ thần của Mặc lắm. Ông dễ thương làm sao! Kẻ nào bảo ông là người Ấn Độ, hoặc Ả Rập là nói bậy. Ông “Trung Hoa” hơn cả Khổng tử nữa. Khổng tử còn “tế thần như thần tại”, ông thì dù thần bất tại cũng cứ tế; miễn có lợi cho nước, cho dân, cho tình họ hàng, làng xóm. Không thể thực tiễn hơn được nữa.

Chú thích:

[1] Kinh thi, Đại nhã: 天生烝民,有物有則。民之秉彝,好是懿德。(theo http://baike.baidu.com/view/107899.htm). (Goldfish).

[2] Kinh Thi, Đại nhã: 皇矣上帝 臨下有赫 監觀四方 求民之莫 (theo http://baike.baidu.com/view/1057442.htm). (Goldfish).

[3] Bách vật: trong cuốn Luận ngữ của Nguyễn Hiến Lê, chép là “vạn vật” (nhưng không kèm theo chữ Hán). (Goldfish).

[4]天何言哉!四時行焉,百物生焉天何言哉?

[5] Bỏ bốn chữ mà các nhà chú giả còn lúng túng, không hiểu nổi. Chữ này dùng như chữ. [Xem thêm chú thích trong phần dịch. (Goldfish)].

[6]此有所避逃之者也,相儆戒猶若此其厚,況無所避逃之者,相儆戒豈不愈厚,然後可哉?且語言有之曰:焉而晏日焉而得罪,將惡避逃之?’曰無所避逃之。夫天不可為林谷幽門無人,明必見之。然而天下之士君子之於天也,忽然不知以相儆戒,此我所以知天下士君子知小而不知大也。

[7] Bốn ông vua: Vũ, Thang, Văn, Võ, nhưng thuộc ba đời (“tam đại” 三代): đời Hạ (vua Vũ), đời Thương (vua Thang) và đời Chu (vua Văn, vua Võ). (Goldfish).

[8] Bản nguồn chép chữ Hán đến đây: 昔三代聖王禹湯文武,欲以天之為政於天子,明說天下之百姓,故莫不犓牛羊,豢犬彘,潔 為粢盛酒醴,以祭祀上帝鬼神. (Goldfish).

[9] Cầu: có bản chép là 禱 (đảo). (Godfish).

[10] Dĩ nhiên muốn đây là muốn cho thiên hạ.

[11] Thiên chí thượng: Bản nguồn chép là “như trên”, để tiện tra cứu (dùng chức năng tìm kiếm) tôi sửa lại thành tên thiên. Về sau cũng vậy. (Goldfish).

[12] Hai chữ “lợi” trong hai câu “Dĩ kì kiêm nhi lợi chi. Hà dĩ tri kì kiêm nhi lợi chi?”, các bản trên mạng chép là “minh” 明: 以其兼而明之。何以知其兼而明之?Theo trang http://ctext.org/mozi/will-of-heaven-i/zh thì “minh” 明 có nghĩa “minh sát” 明察 (xét rõ). Trong phần IV: Dịch, cụ Nguyễn Hiến Lê chú là: “…người sau hiệu đính lại là “lợi”. (Goldfish).

[13] Nguyên văn chữ Hán, bản nguồn chép từ “Thiên hữu ấp nhân”: 天有邑人,何用弗愛也?且吾言殺一不辜者必有一不祥。殺不辜者誰也?則人也。予之不祥者誰也?則天也。若以天為不愛天下之百姓,則何故以人與人相殺,而天予之不祥?此我所以知天之愛天下之百姓也。(Goldfish).

[14] Phú: bản nguồn và các trang chữ Hán trên mạng chép là “tặc” 賊 (xem chú thích ở dưới). Trang http://ewenyan.com/articles/mozi/26.html bảo chữ “tặc” là chữ “phú” 賦 chép lầm. (Goldfish).

[15]吾所以知天之愛民之厚者,有矣。曰:以磨為日月星辰,以昭道之。製為四時春秋冬夏,以紀綱之。雷降雪霜雨露,以長遂五穀麻絲,使民得而財利之…為王公侯伯,使之賞賢而罰暴,賊金木鳥獸,從事乎五穀麻絲,以為民衣食之財。[Đoạn này, ngoài chữ 賊 (tặc) nói ở chú thích trên, bản nguồn còn chép thiếu bốn chữ 吾所以知 (Ngô sở dĩ tri) ở đầu câu. (Goldfish)].

[16]自貴且智者,為政乎愚且賤者則治;自愚賤者,為政乎貴且智者則亂。

[17]天矜於民,民之所欲,天必從之。

[18]天視自我民視,天聽自我民聽。

[19]禹,湯,文,武...上尊天,中事鬼神,下愛人,故天意曰:此之我所愛,兼而愛之;我所利,兼而利之。愛人者此為博焉,利人者此為厚焉。故使貴為天子,富有天下,業萬世子孫,傳稱其善,方施天下,至今稱之,謂之聖王。桀,紂,幽,厲...上詬天,中詬鬼,下賊人,故天意曰:此之我所愛,別而惡之,我所利,交而賊之。惡人者此為之博也,賊人者此為之厚也。故使不得終其壽,不歿其世,至今毀之,謂之暴王。[Nguyên văn chữ Hán có vài chỗ khác biệt với phần phiên âm: không có chữ “diên” (nghiệp diên vạn thế tử tôn), chữ “phổ” (phổ thi thiên hạ) thì chép là 方 (phương), chữ “vu” (trung vu quỉ) thì chép là 詬 (cấu). (Goldfish)].

[20] Bản nguồn và các bản trên mạng không có các chữ Hán tương ứng với bốn “giả bất bạo quả” này và ba chữ “giả bạo quả” ở sau. (xem chú thích ở dưới). (Goldfish).

[21]順天意者,義政也;反天意者,力政也。義政者...處大國不攻小國,處大家不篡小家,強者不劫弱,貴者不傲賤,多詐者不欺愚。此必上利於天,中利於鬼,下利於人。三利,無所不利,故舉天下美名加之,謂之聖王。力政也…處大國攻小國,處大家篡小家,強者劫弱,貴者傲賤,多詐者欺愚。此必上不利於天,中不利於鬼,下不利於人。三不利,無所利,故舉天下惡名加之,謂之暴王。

[22]古之今之為鬼,非他也:有天鬼,亦有山水鬼神者,亦有人死而為鬼者。(theo http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90/%E6%98%8E%E9%AC%BC%E4%B8%8B). (Goldfish).

[23] Nguyên văn là “hữu chư?”: Có chăng? Nhiều sách dịch là có lệ ấy chăng? Chúng tôi dịch là có lẽ ấy chăng? Vì cho như vậy hợp với tinh thần của Khổng tử hơn. [Trong cuốn Luận ngữ, viết sau cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Có lệ ấy chăng”.

[24] Trong cuốn Luận ngữ, thiên Tiên tiến, bài 11, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch: “Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết”. (Goldfish).

[25] Phi mạng: ở trên viết là Phi mệnh (chữ Hán là 非命). (Goldfish).

[26] Nguyên văn: 立朝夕(lập triêu tịch), trang http://ctext.org/mozi/book-9/zhs thì dịch là: “phỏng lập trắc lượng thời gian” 放立測量時間, nghĩa là phỏng định giờ khắc sáng chiều. (Goldfish)].

[27] Phát: bản nguồn và các bản trên mạng chép là “phế” 廢 (xem chú thích ở dưới); có vài trang bảo “phế” là “phát” 發. (Goldfish).

[28] Nguyên văn chữ Hán là 中; bản nguồn chép là “trùng”, tôi dựa vào lời dịch “xem có phù hợp”, tạm sửa lại thành “trúng”. (Goldfish).

[29]子墨子曰言:必立儀,言而毋儀,譬猶運鈞之上而立朝夕者也,是非利害之辨,不可得而明知也。故言必有三表。”何謂三表?子墨子曰:“有本之者,有原之者,有用之者。於何本之?上本之於古者聖王之事。於何原之?下原察百姓耳目之實。於何用之?廢以為刑政,觀其中國家百姓人民之利。此所謂言有三表也。

[30]故古聖王治天下也,故必先鬼神而後人者,此也。

[31]故鬼神之明,不可為幽閒廣澤,山林深谷,鬼神之明必知之。

[32] 鬼神之明智於聖人,猶聰耳明目之與聾瞽也。

[33] Cẩu Mang: nguyên văn là: 句芒. Chữ 句, Thiều Chửu đọc là: cú, câu, cấu. Trong phần IV: Dịch, chép là Câu Mang. (Goldfish).

[34] Truyện này có lẽ do người sau thêm vào, chứ Mặc tử sao đề cao Tần Mục công, một ông vua hiếu chiến, đức độ tầm thường.

[35]鬼神之罰,不可為富貴眾強、勇力強武、堅甲利兵,鬼神之罰必勝之。

[36]天下之王公,大人,士君子,實將欲求興天下之利,除天下之害,將欲求興天下之利,除天下之害,當若鬼神之有也,將不可不尊明也,聖王之道也。

[37] Đoạn “Kim sử cao tước lộc… nhị bất tường dã” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[38]夫鬼神之所欲於人者多:欲人之處高爵祿則以讓賢也,多財則以分貧也。夫鬼神豈唯擢季拑肺之為欲哉?今子處高爵祿而不以讓賢,一不祥也;多財而不以分貧,二不祥也。今子事鬼神唯祭而已矣,而曰:病何自至哉?是猶百門而閉一門焉,曰:盜何從入?若是而求福於有怪之鬼,豈可哉?[Phần phiên âm chép là: “quắc thử chi phế” và “linh chi quỉ thần”, phần chữ Hán lại chép là: “trạc thử kiềm phế” 擢黍拑肺 và “quái chi quỉ” 怪之鬼, (Goldfish)].