← Quay lại trang sách

TRÍCH DỊCH (5) LỖ VẤN

1- Vua Lỗ [Mục công] hỏi thầy Mặc tử:

- Tôi sợ bị Tề đánh, có thể cứu được không?

Thầy Mặc tử đáp:

- Được. Xưa, ba đời thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ mới đầu chỉ là vua một nước chư hầu trăm dặm, thi hành đạo trung, nghĩa mà sau lấy được thiên hạ; còn ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ chuốc oán, làm điều bạo ngược mà mất thiên hạ. Xin nhà vua trên thì kính Trời, thờ quỉ thần, dưới thì yêu và làm lợi cho trăm họ; tặng nhiều da và lụa, dùng ngôn ngữ nhún nhường, mau mau giao hảo với các nước chư hầu bốn bên; rồi xua hết dân trong nước ra chiến đấu, thì cứu được cái hoạ bị Tề đánh. Ngoài ra không có cách nào khác.

2- Tề sắp đánh Lỗ, thầy Mặc tử bảo Hạng Tử Ngưu [một viên tướng của Tề]:

- Tề đánh Lỗ là lầm lớn. Xưa, vua Ngô đem quân qua phía Đông đánh nước Việt, xua quân của Việt vương [Câu Tiễn] lên núi Cối Kê; phía Tây đánh Sở, giữ Chiêu vương ở đất Tuỳ; phía Bắc đánh Tề, bắt thái tử Quốc của Tề đem về Ngô; sau chư hầu báo thù, dân chúng Ngô ghét sự lao khổ vì chiến tranh, không dùng được, vì vậy mà thân bị giết, nước mất, dòng dõi tuyệt tự. Xưa, Trí Bá đánh họ Phạm và họ Trung Hàng, gồm đất của ba nhà nước Tấn [tức Trí, Phạm, Trung Hàng] làm một; sau chư hầu báo thù, dân chúng ghét sự lao khổ vì chiến tranh, không dùng được, vì vậy mà thân bị giết, nước mất, dòng dõi tuyệt tự. Cho nên nước lớn đánh nước nhỏ là hại lẫn nhau, cái hoạ tất trở ngược về nước mình.

3- Thầy Mặc tử yết kiến Tề Thái vương[1], hỏi:

- Có con dao, chém đầu người thì đứt liền, có thể gọi là bén không?

Thái vương đáp:

- Bén.

Lại hỏi:

- Chém đầu nhiều người, đều đứt liền, có thể gọi là bén không?

- Bén.

Thầy Mặc tử hỏi:

- Dao thì bén thật, nhưng ai chịu điều bất tường [chẳng lành]?

Thái vương đáp:

- Dao được tiếng là bén, mà người cầm dao chém phải chịu điều bất tường.

Thầy Mặc tử bảo:

- Thôn tính nước người, đánh bại quân, tàn sát dân chúng người, thì ai chịu điều bất tường?

Thái vương cúi xuống, ngửng lên suy nghĩ rồi đáp:

- Ta chịu điều bất tường.

4- Văn Quân ở Lỗ Dương sắp đánh Trịnh. Thầy Mặc tử hay tin, ngăn cản Văn Quân:

- Ví dụ trong cõi Lỗ Dương, đô ấp lớn đánh đô ấp nhỏ, nhà lớn [nhà các đại phu] đánh nhà nhỏ, giết dân chúng, cướp bò ngựa, chó heo, lúa gạo, hoá vật, của cải thì nhà vua nghĩ sao?

Văn Quân đáp:

- Trong cõi Lỗ Dương, ai cũng là bề tôi của quả nhạn, đô ấp lớn đánh đô ấp nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ để cướp hoá vật, của cải, thì quả nhân tức trừng trị nặng.

Thầy Mặc tử bảo:

- Trời gồm có cả thiên hạ, cũng như nhà vua có toàn cõi Lỗ Dương; nay nhà vua đem quân đánh Trịnh, không [sợ] bị Trời phạt sao?

Văn Quân đáp:

- Sao tiên sinh ngăn ta đánh Trịnh? Ta đánh Trịnh là thuận theo ý Trời. Người nước Trịnh ba đời giết cha[2], Trời phạt, khiến cho ba năm mất mùa, ta giúp Trời trừng trị nước đó mà.

Thầy Mặc tử bảo:

- Người nước Trịnh ba đời giết cha, Trời phạt, khiến cho ba năm mất mùa, như vậy đủ rồi. Nay nhà vua lại đem quân đánh Trịnh, bảo: “Ta đánh Trịnh là thuận theo ý trời”, thì cũng không khác gì một người cha quất một người con hung hăng, bất tài mà người cha nhà bên cạnh còn vác cây đánh nó nữa, bảo: “Ta đánh nó là thuận theo ý cha nó”, như vậy chẳng là trái lẽ ư?”

5- Thầy Mặc tử bảo Lỗ Dương Văn Quân:

- Nhà vua đánh nước Trịnh, giết dân, lấy bò ngựa, lúa gạo, hoá vật, của cải thì ghi lên thanh tre, tấm lụa, khắc trên đồng trên đá, trên chuông trên vạc để lưu lại cho con cháu đời sau, rằng: “Chiến công của ta không ai bằng”. Còn thường dân cũng đánh nhà láng giềng, giết người lấy bò ngựa, lương thực, áo vải áo lông, cũng ghi lên thanh tre, tấm lụa, trên cái gậy, cái “đậu”[3] để lưu lại cho con cháu đời sau, rằng: “Chiến công của ta không ai bằng” như vậy được không?

Văn Quân đáp:

- Phải. Xét lời thầy nói thì trong thiên hạ, điều người ta cho là nên làm, vị tất đã nên làm.

6- Thầy Mặc tử bảo Lỗ Dương Văn Quân:

- Hạng quân tử [hạng trị dân] trên đời đều biết việc nhỏ mà không biết việc lớn. Có người ăn trộm một con chó, một con heo thì bảo là bất nhân; còn ăn trộm một nước, một đô ấp thì lại cho là việc nghĩa. Cũng như thấy trắng ít thì bảo là trắng, thấy trắng nhiều thì bảo là đen. Vì vậy tôi bảo hạng quân tử trên đời biết việc nhỏ mà không biết việc lớn, nghĩa là vậy.

7- Lỗ Dương Văn Quân bảo thầy Mặc tử:

- Phía nước Sở có nước Đạm, nghe nói người nước đó hễ sinh con đầu lòng thì làm thịt mà ăn, bảo như vậy lợi cho những đứa sau[4]. Thịt ngon thì dâng lên vua, vua mừng, thưởng cho người cha. Đó chẳng phải là một tục xấu sao?

Thầy Mặc tử nói:

- Tục Trung Quốc thì cũng vậy. Giết cha mà thưởng con[5] thì khác gì ăn thịt con mà thưởng cha. Nếu không dùng nhân nghĩa thì khác gì người mọi rợ ăn thịt con?

8- Một người sủng phỉ của vua Lỗ chết. Một người Lỗ đọc bài “luỵ” [thuật hành trạng của người chết]. Vua Lỗ khen hay rồi dùng người đó. Thầy Mặc tử nghe được bảo: “Đọc bài luỵ là thuật lại cái chí của người chết, khen người đọc luỵ hay rồi dùng, thì cũng như dùng ngựa để kéo cày [không hợp với sở trường của ngựa]”.

9- Lỗ Dương Văn Quân hỏi thầy Mặc tử:

- Có người bảo rằng trung thần thì “bảo cúi thì cúi, bảo ngửng thì ngửng, không gọi thì im lặng, gọi thì thưa? Như vậy có phải làm trung thần không?

- Người mà bảo cúi thì cúi, bảo ngửng thì ngửng, như vậy không khác gì cái bóng; không gọi thì im lặng, gọi thì thưa, như vậy không khác gì tiếng vang. Nhà vua dùng cái bóng và tiếng vang đó vào việc gì?

Địch tôi cho trung thần là thấy vua có lỗi thì lựa lúc vắng người mà can, thấy mình có mưu chước gì hay thì trình bày với nhà vua mà không dám cho người khác biết, sửa chữa chỗ bậy của vua mà dâng vua điều thiện, tán đồng với vua mà bề trên không màng[6] với kẻ dưới[7], như vậy cái gì tốt đẹp là công của vua mà oán thì bề tôi chịu, vua được an vui, bề tôi chịu lo buồn. Địch tôi gọi như thế là trung thần.

10- Vua Lỗ hỏi thầy Mặc tử:

- Ta có hai người con, một ngươi hiếu học, một người thích chia sẻ của cải cho người khác, nên lựa người nào làm thái tử?

Thầy Mặc tử đáp:

- Chưa biết được. Có thể rằng hai người đó vì mong được thưởng hoặc được tiếng khen mà làm ra như vậy. Người đi câu dùng mồi không phải để tặng cá, người dùng thuốc chuột không phải vì yêu chuột. Xin nhà vua xét cả ý chí cùng công việc rồi mới biết được.

11- Một người nước Lỗ nhờ thầy Mặc tử dạy cho đứa con. Đứa con đó sau chiến đấu mà chết. Cha người đó lại trách thầy Mặc tử. Thầy Mặc tử đáp: “Ông muốn tôi dạy con ông. Nó học thành tài, chiến đấu mà chết, thì ông lại oán giận, như vậy không khác gì muốn có thóc, mua được rồi thì lại oán giận, chẳng cũng ngược lí ư?”

12- Ở miền Nam Bỉ nước Lỗ có một người tên là Ngô Lư, mùa đông làm đồ gốm, mùa hè làm ruộng, tự so sánh với vua Vũ. Thầy Mặc tử nghe tiếng lại thăm. Ngô Lư nói với thầy:

- Việc nghĩa, việc nghĩa! Đâu phải dùng để thuyết!

Thầy Mặc tử hỏi:

- Cái ông gọi là việc nghĩa đó, phải là lấy sức giúp người, lấy của chia cho người không?

Đáp:

- Phải.

Thầy Mặc tử nói:

- Địch tôi đã tính rồi. Địch tôi nghĩ nếu cày ruộng để nuôi thiên hạ thì giỏi lắm cũng chỉ cày bằng một nông phu, như vậy mà đem lúa chia cho khắp thiên hạ, mỗi người không được một thăng lúa; giả sử được một thăng lúa đi nữa thì cũng không làm cho người đói trong thiên hạ hoá no được, điều đó thấy rõ rồi. Địch tôi nghĩ nếu dệt vải để cho người trong thiên hạ có áo mặc thì giỏi lắm cũng chỉ dệt được bằng một người đàn bà, như vậy mà đem chia cho khắp thiên hạ thì mỗi người không được một thước vải; giả thử được một thước vải đi nữa thì cũng không làm cho người rét trong thiên hạ có áo ấm được, điều đó thấy rõ rồi. Địch tôi nghĩ nếu bận áo giáp cứng, cầm binh khí nhọn để cứu cái hoạ cho các nước chư hầu, thì giỏi lắm cũng chỉ chiến đấu được một binh sĩ, không chống nổi ba quân, điều đó thấy rõ rồi. Địch tôi cho rằng học đạo của tiên vương, tìm hiểu thuyết của các vị đó; thông suốt lời của thánh nhân mà xét kĩ ý nghĩa; rồi trên đem thuyết các vương công đại nhân, dưới giảng cho dân thường và các kẻ sĩ đi bộ [chưa hiển đạt]. Các vương công đại nhân mà dùng lời của tôi thì nước sẽ trị, dân thường và kẻ sĩ đi bộ dùng lời của tôi thì đức hạnh tất sẽ sửa chữa. Vì vậy Địch tôi cho rằng tuy không cày ruộng, không dệt vải mà kết quả còn hơn cày ruộng, dệt vải.

13- Ngô Lư bảo thầy Mặc tử:

- Việc nghĩa, việc nghĩa! Đâu phải dùng để thuyết!

Thầy Mặc tử đáp:

- Thí dụ trong thiên hạ không ai biết cày ruộng. Dạy cho thiên hạ cày ruộng với không dạy mà riêng mình tự cày ruộng thì cách nào kết quả nhiều?

Ngô Lự[8] bảo:

- Dạy người ta cày ruộng thì kết quả nhiều hơn.

Thầy Mặc tử nói:

- Thí dụ đánh một nước bất nghĩa. Đánh trống thúc quân tiến lên, với không đánh trống thúc quân mà riêng mình tự xông lên chiến đấu thì cách nào kết quả nhiều hơn?

Đáp:

- Đánh trống thúc quân thì kết quả nhiều hơn.

- Trong thiên hạ, hạng dân thường và kẻ sĩ đi bộ ít biết điều nghĩa, dạy điều nghĩa cho thiên hạ thì kết quả cũng nhiều hơn, vậy thì tại sao không dùng lời để thuyết? Nếu dân chúng được cổ động mà tiến về việc nghĩa thì cái nghĩa của tôi chẳng cũng tiến thêm nhiều ư?

14- Thầy Mặc tử cho Công Thượng Quá tới nước Việt. Công Thượng Quá thuyết với vua Việt, vua Việt rất mừng, bảo Công Thượng Quá:

- Nếu tiên sinh mời thầy Mặc tử lại ở nước Việt mà dạy quả nhân thì quả nhân xin cắt đất cũ của nước Ngô ra vuông vức năm trăm dặm để phong cho thầy Mặc tử.

Công Thượng Quá nhận lời. Rồi vua Việt cho Công Thượng Quá một đoàn năm chục cỗ xe để qua Lỗ rước thầy Mặc tử. [Tới Lỗ], Công Thượng Quá nói với thầy Mặc tử:

- Con đem đạo của phu tử nói với vua Việt, vua Việt rất mừng, bảo con: “Nếu mời được thầy Mặc tử lại ở nước Việt mà dạy quả nhân thì quả nhân xin cắt năm trăm dặm của nước Ngô mà phong cho thầy ấy”.

Mặc tử bảo:

- Anh xét cái chí của vua Việt ra sao? Nếu vua Việt nghe lời ta, dùng đạo của ta thì ta sẽ tới, rồi xin được đủ ăn, đủ mặc, tự coi ta cũng như các bề tôi khác, chứ cầu được đất phong làm gì? Nếu nhà vua không nghe lời ta, không dùng đạo của ta mà ta tới thì chỉ là vì lúa. Ở đâu thì cũng được lúa, mà ở đâu thì cũng là Trung Quốc cả, hà tất phải tới nước Việt?

15- Thầy Mặc tử sai Nguỵ Việt đi du thuyết các nước nước Nguỵ Việt hỏi:

- Được yết kiến các quân tử [người cầm quyền] bốn phương, con nên giảng gì trước?[9]

Thầy Mặc tử:

- Vô một nước nào thì lựa việc mà làm. Một nước hỗn loạn thì giảng về đạo trọng người hiền, tán đồng với người trên; một nước nghèo thì giảng về phép bớt tiêu xài, tiết giảm việc ma chay; một nước thích âm nhạc, chìm đắm trong rượu thì khuyên bỏ nhạc đi, đừng tin có số mạng; một nước bậy bạ vô lễ, thì giảng về đạo tôn Trời, thờ quỉ thần; một nước chỉ lo việc xâm chiếm nước khác thì giảng về đạo kiêm ái, không đánh nước người. Cho nên bảo: “Phải lựa việc mà làm [tuỳ mỗi nước]”.

16- Thầy Mặc tử cho Tào Công tử làm quan ở Tống. Ba năm sau Tào Công tử trở về, thăm thầy Mặc tử, thưa:

- Hồi đầu con lại học thầy, mặc thì áo cộc bằng vải to, ăn thì canh rau hoắc, có bữa sáng mà không có bữa chiều, không có gì để thờ cúng quỉ thần; nay nhờ công thầy dạy bảo, nhà con phong lưu hơn trước, nên không dám sơ suất trong việc thờ cúng quỉ thần, vậy mà trong nhà nhiều người chết, lục súc không sinh sản nhiều, thân mình thì bệnh tật liên miên, con chưa thấy đạo của thầy hữu dụng chỗ nào.

Thầy Mặc tử đáp:

- Không phải vậy. Quỉ thần đòi hỏi ở người nhiều kia: muốn rằng người nào chức cao bổng hậu thì phải kính người hiền, có nhiều của thì phải chia cho người nghèo; chứ đâu phải chỉ muốn nhón nhiều xôi, cắt nhiều miếng phổi đâu[10]. Nay anh được chức cao bổng hậu mà không kính người hiền, đó là một điều bất tường; có của nhiều mà không chia cho người nghèo, đó là hai điều bất tường; anh thờ quỉ thần mà chỉ biết cúng tế mà thôi, rồi phàn nàn “sao đau ốm hoài”, như vậy khác nào nhà có trăm cửa, chỉ đóng một cửa mà lấy làm lạ kẻ trộm sao vào được. Làm như anh cầu quỉ thần linh thiêng ban phúc cho sao được.

17- Một thầy cúng nước Lỗ, cúng quỉ thần một con heo mà xin quỉ thần ban cho cả trăm thứ phúc. Thầy Mặc tử nghe được chuyện đó, bảo:

- Như vậy không thể được. Tặng người ta ít mà mong được đáp lại nhiều, thì người ta chỉ sợ được tặng thôi. Cúng một con heo mà cầu xin được cả trăm thứ phúc, thì quỉ thần rất sợ cúng bò, cừu. Các thánh vương đời xưa thờ quỉ thần chỉ cúng tế thôi, chứ không cầu xin gì cả; nay cúng một con heo mà xin cả trăm thứ phúc thì giàu như vậy thà nghèo còn hơn[11].

18- Bành Khinh nói với thầy Mặc tử:

- Việc đã qua thì biết được còn điều chưa tới thì không biết được.

Thầy Mặc tử bảo:

- Thí dụ người thân của ông ở ngoài trăm dặm, bị tai nạn; nội một ngày, nếu ông tới kịp thì cứu sống được, không thì chết. Có một cỗ xe chắc và một con ngựa tốt, với có một con ngựa dở và cổ xe mà bánh có nhiều góc cạnh [không tròn, khó lăn], thì ông lựa xe nào để cưỡi?

Đáp:

- Tôi lựa cỗ xe chắc và con ngựa tốt để mau tới.

Thầy Mặc tử bảo:

- Vậy là ông nhờ việc đã qua mà biết được việc chưa tới đấy.

19- Mạnh Sơn khen Vương tử Lư:

- Xưa, trong cái hoạ Bạch công, Bạch công dùng búa rìu, dao quắm móc lưng, dùng kiếm và mâu [một binh khí mũi nhọn] chĩa thẳng vào tim Vương tử Lư, bảo: “Chịu làm vua thì sống, không thì chết”[12]. Vương tử Lưu đáp: “Sao làm nhục ta như vậy? Giết cha ta rồi cho ta nước Sở để lấy lòng ta. Được cả thiên hạ mà mang tiếng bất nghĩa, ta không làm, huống hồ là được nước Sở”. Rồi Vương tử Lư chịu chết. Vương tử Lư chẳng phải là người nhân ư?

Thầy Mặc tử bảo:

- Việc [nghĩa] đó tuy khó làm thật, nhưng chưa phải là nhân. Nếu cho làm vua là vô đạo[13] thì sao không nhận làm vua để trị [lại] nước? Nếu Bạch công là bất nghĩa thì sao không nhận làm vua, để giết Bạch công, rồi sau trả lại ngôi vua? Cho nên tôi bảo: “Khó làm thì khó làm thật, nhưng chưa phải là nhân”.

20- Thầy Mặc tử sai [một môn đệ là] Thắng Xước thờ Hạng Tử Ngưu. Hạng Tử Ngưu ba lần xâm chiếm đất Lỗ mà Thắng Xước đều theo giúp. Hay chuyện đó, thầy Mặc tử sai Cao Tôn tử xin Hạng Tử Ngưu đuổi Thắng Xước về. Thầy Mặc tử bảo Cao Tôn tử:

- Ta sai Thắng Xước [thờ Hạng Tử Ngưu] là muốn nó ngăn tính kiêu ngạo và sửa những sai lầm [của Hạng tử Ngưu]. Nay nó được lộc hậu mà lừa lọc phu tử[14], phu tử ba lần xâm chiếm nước Lỗ mà ba lần nó tới giúp, như vậy là quất roi vào miếng da che bụng ngựa[15]. Ta nghe nói: giảng điều nghĩa mà không làm là biết mà còn cố ý phạm lỗi. Thắng Xước không phải là không biết điều nghĩa, nó coi trọng bổng lộc hơn điều nghĩa.

21- Xưa, Sở và Việt dùng thuyền đánh nhau trên sông. Quân Sở xuôi dòng tiến tới rồi ngược dòng lui về, thấy lợi thì tiến, thấy bất lợi thì lui về một cách khó khăn. Quân Việt đón [ngược] dòng mà tiến, xuôi dòng mà lui, thấy thế lợi thì tiến, thế bất lợi thì lui mau được. Quân Việt nhờ thế nước đó mà mấy lần đánh bại quân Sở. Công Thâu tử[16] từ Lỗ xuống nước Sở thấy vậy mới chế tạo một loại máy thuỷ chiến có cả móc và nạng[17]; [hễ quân địch] lui thì móc lại, [quân địch] tiến tới thì chống lại; tuỳ móc và nạng dài ngắn mà lựa thuỷ thủ; binh của Sở kiềm chế được mà binh của Việt không kiềm chế được[18], nhờ cái thế đó mà mấy lần đánh bại được quân Việt.

Công Thâu tử tự hào về cái khéo của mình, bảo thầy Mặc tử:

- Chiến thuyền của tôi có móc và nạng, còn cái “nghĩa” của ông có móc và nạng không?

Thầy Mặc tử đáp:

- Móc và nạng của cái “nghĩa” của tôi còn tốt hơn móc và nạng của chiến thuyền của ông. Tôi móc lại bằng tình yêu, chống lại bằng sự cung kính. Không móc bằng tình yêu thì không thân với nhau, không chống lại bằng sự cung kính thì mau nhờn; nhờn mà không thân thì mau xa nhau. Cho nên thương yêu, kính trọng lẫn nhau tức là làm lợi cho nhau. Còn ông móc để bắt người ta ngừng lại thì người ta cũng móc để ông ngừng lại; ông chống để cự người ta cũng chống để cự lại với ông. Móc, chống lẫn nhau tức là làm hại lẫn nhau. Cho nên móc, nạng của cái nghĩa của tôi tốt hơn móc, nạng của chiến thuyền của ông.

22- Công Thâu tử chẻ, vót tre để làm một con chim khách bay được ba ngày mà không rớt xuống, tự cho mình là khéo. Thầy Mặc tử bảo: “Chim khách của ông không bằng cái chốt xe của tôi, chỉ đẽo ba tấc gỗ một lát là thành mà nó đỡ được sức nặng năm mươi thạch [mỗi thạch 120 cân]. Cái gì ích lợi cho người thì gọi là khéo, không lợi thì gọi là vụng”.

23- Công Thâu tử nói với thầy Mặc tử:

- Khi chưa gặp được ông, tôi muốn chiếm nước Tống; từ khi gặp được ông rồi, dù người ta tặng tôi nước Tống mà tôi phải làm điều bất nghĩa, thì tôi cũng không làm.

Thầy Mặc tử bảo:

- Địch tôi khi chưa gặp ông, ông muốn chiếm nước Tống; từ khi gặp được ông rồi, dù người ta tặng ông nước Tống mà ông phải làm điều bất nghĩa, thì ông cũng không làm; như vậy là tôi tặng ông nước Tống rồi đấy. Ông cứ chăm lo làm việc nghĩa đi, rồi tôi sẽ tặng ông cả thiên hạ.

CÔNG THÂU

Công Thâu Ban chế tạo xong cho nước Sở một khí giới là chiếc thang mây[19], sắp dùng để đánh Tống. Thầy Mặc tử hay tin, từ Lỗ đi mười đêm mười ngày không nghỉ, tới nỗi rách quần, rách giày, hở chân, để đến kinh đô Sở là Dĩnh, xin gặp Công Thâu Ban. Công Thâu Ban hỏi:

- Phu tử có điều gì dạy bảo tôi?

Thầy Mặc tử đáp:

- Phương Bắc có kẻ làm nhục tôi, xin cậy ông giết nó cho tôi.

Công Thâu Ban không bằng lòng. Thầy Mặc tử nói:

- Xin dâng ông mười dật vàng.

Công Thâu Ban đáp:

- Tôi trọng nghĩa, không giết người.

Thầy Mặc tử đứng dậy, vái hai vái, thưa:

- Xin cho phép tôi thưa: Tôi ở phương Bắc nghe nói ông làm cái thang để đánh nước Tống. Tống có tội gì đâu? Nước Kinh [tức Sở] có dư đất mà không đủ dân. Giết số dân của người ta[20] không có đủ để tranh đất mà mình có dư, như vậy không thể gọi là trí [sáng suốt]. Tống vô tội mà đem quân đánh, như vậy không thể gọi là nhân. Biết là việc không phải mà không can ngăn vua, như vậy không thể gọi là trung. Can ngăn mà không được, như vậy không thể gọi là giỏi. Vì nghĩa, không giết một người mà giết nhiều người, như vậy là không biết phân biệt [không hợp lí].

Công Thâu Ban chịu, không cãi được. Thầy Mặc tử bảo:

- Như vậy thì sao ông không thôi đi?

Công Thâu Ban đáp:

- Không được. Tôi đã lỡ nói với vua rồi.

- Thế thì sao không giới thiệu cho tôi vô bệ kiến?

Công Thâu Ban nhận lời:

- Vâng.

Thầy Mặc tử vô yết kiến vua Sở, tâu:

- Tôi nghe nói đại vương sắp đánh Tống, có vậy chăng?

Vua Sở đáp:

- Có.

Thầy Mặc tử nói:

- Nay có người không dùng cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ của mình mà muốn ăn trộm chiếc xe tồi tàn của người láng giềng; không dùng y phục bằng gấm thêu của mình mà muốn ăn trộm chiếc áo cộc bằng vải to của người láng giềng; không ăn gạo thịt của mình mà muốn ăn trộm hèm rượu và cám [thức ăn xấu thường để nuôi heo] của người láng giềng, thì người đó ra sao?

- Nhất định là có tật ăn trộm rồi.

Thầy Mặc tử nói:

- Đất nước Kinh[21] vuông năm ngàn dặm, [so với Tống] tức như cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ so với chiếc xe tồi tàn. Nước Kinh có chằm Vân Mông đầy loài tê ngưu, hươu nai; có sông Giang, sông Hán, nhiều cá, rùa, ba ba, giàu nhất thiên hạ, còn Tống không có trĩ, thỏ, cá giếc; như vậy cũng như gạo thịt so với hèm rượu và cám. Nước Kinh có cây tùng cao, cây tử đẹp, cây kỉ, cây nam, cây dư chương; còn Tống không có cây cao, như vậy cũng như y phục bằng gấm thêu so với áo cộc bằng vải to. Thần cho rằng ba vị khanh của Sở mà đánh Tống thì cũng như vậy. Chắc đại vương cho việc đó là hại cho nhân nghĩa nên không làm.

Vua Sở đáp:

- Hay! Tuy nhiên, Công Thâu Ban đã vì ta làm chiếc thang máy, thì tất sẽ chiếm Tống.

*

* *

Thầy Mặc tử lại yết kiến Công Thâu Ban, cởi cái đai ra, bày thành hình cái thành, dùng các thẻ tre tượng trưng cho binh khí; Công Thâu Ban chín lần bày máy đánh thành, thầy Mặc tử chín lần chống cự. Công Thâu Ban dùng hết các kiểu máy, mà thầy Mặc tử vẫn còn dư cách để giữ thành. Công Thâu Ban đành chịu khuất phục, bảo:

- Tôi biết cách chống ông, nhưng tôi không nói.

Thầy Mặc tử cũng nói:

- Tôi biết cũng cách chống ông, nhưng tôi không nói.

Vua Sở hỏi nguyên do, thầy Mặc tử đáp:

- Thâm ý của Công Thâu tử, chẳng qua là muốn giết thần. Giết thần rồi thì Tống không giữ được, Sở[22] có thể chiếm giữ được. Nhưng đệ tử của thần là bọn Cầm Hoạt Li gồm ba trăm người giữ khí giới để bảo vệ cửa thành, đương ở trên thành nước Tống mà đợi giặc Sở; dù giết được thần, cũng không diệt được bọn đó.

Vua Sở bảo:

- Hay! Ta xin không đánh Tống nữa.

Thầy Mặc tử trên đường về, đi qua nước Tống, gặp trời mưa, vào một cổng làng để tránh mưa, người giữ cổng [ngờ là gián điệp] không cho vô. Cho nên bảo: Trị nước giỏi hơn thần thì không ai biết công cho; tranh nhau về sự sáng suốt [tranh khôn] thì ai cũng biết[23].

PHỤ LỤC[24]

THIÊN TIỂU THỦ BÀN THÊM VỀ “TỪ”

(Trích Đại cương triết học Trung Quốc)

Thiên Tiểu thủ còn bàn thêm về lời nói như thế này: “Vật có khi thế mà thế, có khi thế mà không phải thế. Có khi một đằng khắp hết mà một đằng không khắp hết; có khi một đằng phải mà một đằng không phải” (Phù vật, hoặc nãi thị nhi nhiên, hoặc thị nhi bất nhiên, hoặc nhất chu nhi nhất bất chu, hoặc nhất thị nhi nhất phi dã)[25]

Thế nào là “đúng mà như thế”? Thiên Tiểu thủ nói: “Ngựa trắng là ngựa, cưỡi ngựa trắng là cưỡi ngựa. Ngựa đen là ngựa, cưỡi ngựa đen là cưỡi ngựa. Hoạch là người, yêu Hoạch là yêu người. Tang[26] là người, yêu Tang là yêu người. Ấy là đúng như thế” (Bạch mã, mã dã, thừa bạch mã, thừa mã dã. Li mã,mã dã, thừa li mã, thừa mã dã. Hoạch nhân dã, ai Hoạch, ái nhân dã. Tang, nhân dã, ái Tang, ái nhân dã. Thử nãi “thị nhi nhiên” giả dã)[27].

Một chủ ngữ (ngựa trắng) và một vị ngữ[28] (là ngựa) hợp thành một mệnh đề khẳng định đơn (ngựa trắng là ngựa). Thêm vào trước chữ làm chủ ngữ một “động từ” (cưỡi) và thêm vào chữ làm thuộc từ cùng một “động từ” (cưỡi) ấy, thì được hai mệnh đề đơn (Cưỡi ngựa trắng. Là cưỡi ngựa). Hợp hai mệnh đề đơn ấy lại thì được một mệnh đề khẳng định kép (Cưỡi ngựa trắng là cưỡi ngựa). Như vậy là “đúng mà như thế”.

Thế nào là “đúng mà không như thế”? Thiên Tiểu thủ nói: “Người thân của Hoạch là người, Hoạch thờ người thân không phải là thờ người. Em mình là người đẹp, yêu em mình không phải là yêu người đẹp. Xe là gỗ, cưỡi xe không phải là cưỡi gỗ. Thuyền là gỗ, vào thuyền không phải là vào gỗ. Kẻ trộm là người, nhiều kẻ trộm không phải là nhiều người; không có kẻ trộm không phải là không có người. Lấy gì chứng tỏ điều đó? Ghét nhiều kẻ trộm không phải là ghét nhiều người, muốn không có kẻ trộm, không phải phải là muốn không có người (…) “Đúng mà không phải thế” là như vậy đó”. (Hoạch chi thân, nhân dã, Hoạch sự kì thân, phi sự nhân dã. Kì đệ mĩ nhân dã, ái đệ phi ái mĩ nhân dã. Xa, mộc dã, thừa xa, phi thừa mộc dã. Thuyền, mộc dã, nhập thuyền, phi nhập mộc dã. Đạo nhân, nhân dã, đa đạo phi đa nhân dã, vô đạo phi vô nhân dã (...) Thử nãi thị nhi bất nhiên giả dã)[29].

Một chủ ngữ (người thân của Hoạch) và một vị ngữ (là người) hợp lại thành một mệnh đề khẳng định đơn (Người thân của Hoạch là người). Thêm vào trước chữ làm chủ ngữ (người thân) một “động từ” (thờ), và thêm vào trước chữ thuộc từ trong vị ngữ (người) cùng một “động từ” (thờ) ấy, thì được hai mệnh đề đơn (Hoạch thờ người thân. Là thờ người). Nếu hợp hai mệnh đề khẳng định đơn này lại thành một mệnh đề khẳng định kép thì mệnh đề kép này nghĩa không xuôi (Hoạch thờ người thân là thờ người). Chỉ có thể thêm chữ “không phải” vào, để thành một mệnh đề phủ định thì mới xuôi, mới đúng (Hoạch thờ người thân không phải là thờ người). Với câu “Kẻ trộm là người”, thêm tiếng phủ định (không có) vào trước chữ làm chủ ngữ (kẻ trộm) và thêm tiếng phủ định (không có) vào trước chữ thuộc từ trong vị ngữ (người), ta được hai mệnh đề phủ định đơn (Không có kẻ trộm. Không có người). Nếu hợp hai mệnh đề phủ định đơn này lại làm một mệnh đề khẳng định kép (Không có kẻ trộm là không có người) thì mệnh đề khẳng định kép này cũng lại trái nghĩa. Như vậy là “thế mà không phải thế”.

Người thân của Hoạch là người. Nhưng khi nói “Hoạch thờ người thân là thờ người”, thì chữ “người” thứ hai trong câu này biến hoá, nó thành ra nghĩa là “người dưng”, đối lập với “người thân”, chứ không có nghĩa là “một con người” như trong câu “Người thân của Hoạch là người” nữa. Bởi vậy, nếu không thêm hai chữ “không phải” và giữa hai mệnh đề khẳng định đơn “Hoạch yêu người thân. Là yêu người” thì câu khẳng định kép “Hoạch yêu người thân là yêu người” trở nên ngược nghĩa. Với câu “Thuyền là gỗ, vào thuyền không phải là vào gỗ”, chữ “gỗ” trong câu “Thuyền là gỗ” có nghĩa là “chất gỗ, bằng chất gỗ”; còn chữ “gỗ” trong “vào gỗ” thì có nghĩa là một tấm gỗ, phiến gỗ hay một cây gỗ. Như vậy, khi nghe nói “vào gỗ”, người ta thường có thể hiểu là “chui vào miếng gỗ, chui vào cây gỗ”. Như vậy, muốn khỏi nghịch nghĩa phải nói “vào thuyền không phải là vào gỗ”. Cũng vậy, chữ “người” trong câu “Kẻ trộm là người”, và chữ “người” trong câu “Không có kẻ trộm không phải là không có người” khác hẳn nghĩa nhau. Chữ “người” trên có nghĩa là một người (trộm là một người), còn chữ “người” dưới đặt như như vậy, có nghĩa là lương thiện, đối lập với trộm.

Thế nào là “một đằng khắp hết, một đằng không khắp hết”? Thiên Tiểu thủ nói:

“Yêu người, đợi yêu khắp hết mọi người mà sau mới là yêu người. Chẳng yêu người, chẳng đợi chẳng yêu khắp hết mọi người; chẳng yêu được khắp là vì chẳng yêu người vậy. Cưỡi ngựa, chẳng đợi phải cưỡi hết mọi con ngựa mà sau mới là cưỡi ngựa. Đến như chẳng cưỡi ngựa, thì phải đợi khắp hết chẳng cưỡi một con ngựa nào mà sau mới là chẳng cưỡi ngựa. Ấy “một đằng khắp hết, một đằng không khắp hết”. (Ái nhân, đãi chu ái nhân nhi hậu vị ái nhân. Bất ái nhân, bất đãi chu bất ái nhân; bất chu ái, nhân vị bất ái nhân hĩ. Thừa mã, bất đãi chu thừa mã nhiên hậu vị thừa mã dã, hữu thừa vu mã, nhân vị thừa mã hĩ. Đãi chí bất thừa mã, đãi chu bất thừa mã nhi hậu vị bất thừa mã. Thử nhất chu nhi nhất bất chu giả dã)[30]

Trong nhiều mệnh đề khẳng định, tân từ (hay bổ túc từ) của nó biểu thị cái gì ắt là phải biểu thị khắp hết đồng loại cái ấy, thì nghĩa những mệnh đề đó mới đúng. Chẳng hạn như mệnh đề khẳng định “Yêu người”. Tân từ “người” phải biểu thị toàn thể loài người thì nghĩa mệnh đề đó mới đúng. Nhưng cũng những mệnh đầu ấy mà ở thể phủ định, thì tân từ của nó bất tất phải biểu thị khắp hết mọi cái cùng loại với cái tân từ đó biểu thị, mà nghĩa những mệnh đề đó vẫn đúng. Tỉ dụ như mệnh đề “Chẳng yêu người”: tân từ “người” bất tất phải biểu thị tất cả loài người mà sau mệnh đề đó mới có nghĩa là “chẳng yêu người”. Tuy nhiên, cũng có những mệnh đề khẳng định, tân từ của nó biểu thị cái gì thì bất tất phải biểu thị khắp hết mọi cái đồng loại với cái ấy, mà nghĩa những mệnh đề ấy vẫn đúng. Tỉ dụ như mệnh đề “Cưỡi ngựa”: tân từ “ngựa” bất tất phải biểu thị “khắp hết mọi con ngựa”; cưỡi một con ngựa cũng vẫn đúng là “cưỡi ngựa”. Nhưng trái lại cũng những mệnh đề ấy mà ở thể phủ định thì tân từ của nó tất phải biểu thị khắp hết mọi cái cùng loại với cái mà tân từ đó biểu thị, thì nghĩa những mệnh đề ấy mới đúng. Tỉ dụ như mệnh đề “Chẳng cưỡi ngựa”: tân từ “ngựa” tất phải biểu thị khắp hết mọi con ngựa thì mệnh đề “Chẳng cưỡi ngựa” mới đúng là “chẳng cưỡi ngựa”. “Một đằng khắp hết, một đằng không khắp hết” là nghĩa như vậy.

Thật ra, khách quan mà xét, kiến giải của Mặc gia ở đây có chỗ không ổn. Chủ trương của Mặc gia là “kiêm ái”, cho nên mới bảo rằng: “Yêu người” mà “người” không có nghĩa là “khắp hết mọi người” thì vẫn không phải là yêu người. Thực ra, nếu không vì sợ mâu thuẫn với chủ trương “kiêm ái” mà nói, thì dù chỉ yêu một người cũng nói là “yêu người”, có nghĩa là yêu người rồi, như “cưỡi ngựa” có nghĩa là cưỡi ngựa rồi, mặc dù chữ “ngựa” chỉ biểu thị “một con ngựa”.

Thế nào là “một đằng phải, một đằng không phải”? Thiên Tiểu thủ nói:

“Ở trong nước (quốc gia) thì là ở nước, có một chiếc nhà ở trong nước thì lại không phải là có nước. Quả cây đào là đào, quả cây gai không phải là gai. Hỏi thăm bệnh người là hỏi thăm người, ghét bệnh người không phải là ghét người. Hồn ma của một người nào đó không phải là người, hồn ma của anh là anh. Tế hồn ma người không phải là tế người, tế hồn ma anh là tế anh. Mắt con ngựa ấy nhìn thì bảo là con ngựa ấy nhìn, mắt con ngựa ấy to thì không thể bảo là con ngựa ấy to. Lông con bò ấy vàng thì bảo con bò ấy vàng, lông con bò ấy nhiều thì không thể bảo con bò ấy nhiều. Một con ngựa là ngựa, hai con ngựa là ngựa, ngựa bốn chân là một con ngựa bốn chân, chứ không phải hai ngựa mà bốn chân. Một ngựa là ngựa, ngựa có con trắng là (có ít nhất) hai con ngựa mà một con trắng. Ấy “một đằng phải, một đằng không phải” là nghĩa như vậy đó. (Cư vu quốc, tắc vị cư quốc, hữu nhất trạch vu quốc, nhi bất vị hữu quốc. Đào chi thực, đào dã, cức chi thực, phi cức dã. Vấn nhân chi bệnh, vấn nhân dã, ố nhân chi bệnh, phi ố nhân dã. Nhân chi quỷ, phi nhân dã, huynh chi quỷ, huynh dã. Tế nhân chi quỷ, phi tế nhân dã, tế huynh chi quỷ, nãi tế huynh dã. Chi mã chi mục phán tắc vị chi mã phán, chi mã chi mục đại, nhi bất vị chi mã đại. Chi ngưu chi mao hoàng, tắc vị chi ngưu hoàng, chi ngưu chi mao chúng, nhi bất vị chi ngưu chúng. Nhất mã, mã dã, nhị mã, mã dã, mã tứ túc giả, nhất mã nhi tứ túc dã, phi lưỡng mã nhi tứ túc dã. Nhất mã, mã dã, mã hoặc bạch giả, nhị mã nhi hoặc bạch dã, phi nhất mã nhi hoặc bạch. Thử nãi nhất thị nhi nhất phi giả dã)[31]

Hai mệnh đề đơn hợp thành một mệnh đề khẳng định kép, tỉ dụ: “Hỏi bệnh người là hỏi người”. Lấy một chữ trong cái mệnh đề đơn (Hỏi bệnh người) làm chủ ngữ của mệnh đề kép và đổi chữ ấy ra một chữ khác (tỉ dụ trong mệnh đề “Hỏi bệnh người”, đổi chữ “hỏi” ra chữ “ghét”, mệnh đề đơn là chủ ngữ “Hỏi bệnh người” thành “ghét bệnh người”), rồi lại lấy cùng một chữ (“hỏi”) ấy trong mệnh đề đơn (Là hỏi người) làm vị ngữ của mệnh đề kép, mà đổi ra thành cùng một chữ khác (“ghét”) như đã đổi trong mệnh đề đơn cũ: mệnh đề vị ngữ “Là hỏi người” thành “Là ghét người”. Nếu đem hai mệnh đề đơn đã được sửa đổi như vậy ghép thành một mệnh đề khẳng định kép “Ghét bệnh người là ghét người”, thì mệnh đề mới này thành ra trái nghĩa. Tất phải thêm chữ “không phải” vào giữ hai mệnh đề khẳng định kép: “Ghét bệnh người không phải là ghét người”, thì mệnh đề kép mới mới xuôi. Ngược lại, nếu mệnh đề kép cũ là một mệnh đề kép phủ định (Tỉ dụ: “Hồn ma người không phải là người”) thì sau khi đổi lại một chữ trong mỗi mệnh đề đơn (đổi chữ “người” thành chữ “anh”), tất phải sửa cho xuôi nghĩa, làm cho mệnh đề phủ định cũ thành một mệnh đề khẳng định kép thì mới ổn (Hồn ma anh là anh). Mặt khác, trong ngôn ngữ văn tự Trung Quốc, số nhiều và số ít, không bắt buộc phải biểu diễn thật minh bạch: khi viết trống không chữ “ngựa” hay nói trống không tiếng “ngựa”, thì hiểu là một con ngựa cũng được, mà hiểu là nhiều con ngựa cũng vẫn được. Nhiều khi, chủ ngữ trong một mệnh đề, nếu coi như số ít thì mệnh đề có nghĩa, mà nếu coi như ở số nhiều thì mệnh đề đó trở thành không có nghĩa gì. Ngược lại, có khi phải hiểu là ở số nhiều thì mới có nghĩa, mà ở số ít lại không có nghĩa. Đó là trường hợp chữ “ngựa” trong mệnh đề “Ngựa có con trắng” và mệnh đề “Ngựa bốn chân”. Trong mệnh đề “Ngựa bốn chân”, phải hiểu là một con ngựa; trong mệnh đề “Ngựa có con trắng”, phải hiểu “ngựa” (là ít nhất có) hai con ngựa. Ấy “một đằng phải, một đằng không phải” là nghĩa như vậy đó. Sở dĩ có tính trạng đó, là vì trong ngôn ngữ văn tự, ý nghĩa của một chữ thường khi thay đổi tuỳ theo vị trí của nó trong câu, tuỳ theo ý nghĩa của thượng, hạ văn, tuỳ theo thói quen thường gán cho một chữ những ý nghĩa đặc biệt. Cũng bởi lẽ đó cho nên “Hỏi bệnh người là hỏi người”, mà “Ghét bệnh người không phải là ghét người”, “Hồn ma anh là anh” v.v…

Nếu nhất thiết đều “thế là phải thế” thì những phương pháp “thí”, “mâu”, viện”, suy” sẽ không thể có tệ bệnh. Nhưng sự thực không phải nhất thiết đều “thế là phải thế”, cho nên, khi lập mệnh đề, không thể không thận trọng được.

Lập luận của Mặc gia trong đoạn trích dẫn ở thiên Tiểu thủ trên đây thật là tinh vi…

BỘ MẶC TỬ

(Trích trong cuốn Cổ văn Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê)

Bộ Mặc tử cũng như bộ Luận ngữ là một công trình tập thể, do môn đệ của Mặc tử chép lời dạy của thầy mà soạn thành.

Mặc tử, người nước Lỗ, tên là Địch, sanh vào khoảng Khổng tử, mất và thọ độ tám chục tuổi (480?-397?), nếu không học đạo của Khổng tử thì cũng chịu ảnh hưởng của Nho gia. Ông sống khắc khổ, có tài tranh biện, suốt đời hăm hở cứu vớt thiên hạ, đi chu du các nước giảng đạo kiêm ái. Khi Công Thâu Ban chế giúp nước Sở một kiểu thang máy, sắp dùng đánh nước Tống, ông khởi hành từ Tề đi luôn mười ngày đêm đến kinh đô Sở để can Công Thâu Ban. Công Thâu Ban nghe, đưa ông vào yết kiến vua Sở, vua Sở cũng bị thuyết phục nữa. Sau lại có lần sang Sở để khuyên Sở đừng đánh Tống. Môn đệ của ông rất đông, tuyệt đối phục tòng ông, biết hy sinh cho đạo, thành lập một tôn giáo chủ trương thờ Trời và quỉ thần, đề cao kiêm ái, phản đối chiến tranh, lễ, nhạc, đối lập với Nho gia. Đạo Mặc ảnh hưởng lớn tới đời Tần, qua đời Hán, Nho học lần lần chiếm địa vị độc tôn mà Mạc học suy luôn.

Bộ Mặc tử nay còn 53 thiên, nhưng chỉ có những thiên Thượng Hiền, Thượng Đồng, Kiêm Ái, Phi Công, Phi Nhạc, Tiết Táng, Thiên Chí, Minh Quỷ, Phi Mệnh, Phi Nho là tin được, còn những thiên khác là của đời sau viết. Quan trọng nhất là những thiên Kiêm Ái, Phi Công, Thượng Đồng. Bộ đó rất có giá trị về triết học mà về văn học có tác dụng lớn là mở nguồn cho lối văn nghị luận của Trung Hoa; cho nên tuy về phương diện nghệ thuật, tác phẩm chưa đạt tới một mức cao, chúng tôi cũng trích dịch một đoạn dưới đây trong thiên Kiêm Ái[32] để độc giả so sánh với những văn nghị luận đời sau.

*

兼愛

(…)醫之攻人之疾者(...)必知疾之所自起,焉能攻之(...)治亂者何獨不然?(...)

聖人以治天下為事者也,不可不察亂之所自起。當察亂何自起,起不相愛。臣子之不孝君父,所謂亂也;子自愛不愛父,故虧父而自利;弟自愛不愛兄,故虧兄而自利。臣自愛不愛君,故虧君而自利,此所謂亂也。雖父之不慈子,兄之不慈弟,君之不慈臣,此亦天下之所謂亂也。父自愛也不愛子,故虧子而自利;兄自愛也不愛弟,故虧弟而自利;君自愛也不愛臣,故虧臣而自利(…)雖至天下之為盜賊者亦然:盜愛其室,不愛異室,故竊異室以利其室;賊愛其身,不愛人,故賊人以利其身(...)雖至大夫之相亂家、諸侯之相攻國者亦然:大夫各愛其家,不愛異家,故亂異家以利其家;諸侯各愛其國,不愛異國,故攻異國以利其國。天下之亂物,具此而已矣(...)

若使天下兼相愛,愛人若愛其身,猶有不孝者乎?視父兄與君若其身,惡施不孝?猶有不慈者乎?視弟子與臣若其身,惡施不慈?故不孝不慈亡有,猶有盜賊乎?故視人之室若其室,誰竊?視人身若其身,誰賊?故盜賊亡有,猶有大夫之相亂家諸侯之相攻國者乎?視人家若其家,誰亂?視人國若其國,誰攻?故大夫之相亂家,諸侯之相攻國者亡有。若使人下兼相愛,國與國不相攻,家與家不相亂,盜賊無有,君臣父子皆能孝慈,若此則天下治。故聖人以治天下為事者,惡得不禁惡而勸愛?(...)

KIÊM ÁI

(…) Y chi công tật giả (…) tất tri tật chi sở tự khởi, yên năng công chi (…). Trị loạn giả hà độc bất nhiên? (…)

Thánh nhân dĩ trì thiên hạ vi sự giả dã, bất khả bất sát loạn chi sở tự khởi. Thường sát loạn hà tự khởi, khởi bất tương ái. Thần tử chi bất hiếu quân phụ, sở vị loạn dã; tử tự ái bất ái phụ, cố khuy phụ nhi tự lợi; đệ tự ái bất ái huynh, cố khuy huynh nhi tự lợi. Thần tự ái bất ái quân, cố khuy quân nhi tự lợi, thử sở vị loạn dã. Tuy phụ chi bất từ tử, huynh chi bất từ đệ, quân chi bất từ thần, thử diệc thiên hạ chi sở vị loạn dã. Phụ tự ái dã bất ái tử, cố khuy tử nhi tự lợi; huynh tự ái dã bất ái đệ, cố khuy đệ nhi tự lợi; quân tự ái dã bất ái thần, cố khuy thần nhi tự lợi (…) Tuy chí thiên hạ chi vi đạo tặc giả diệc nhiên: đạo ái kì thất, bất ái dị thất, cố thiết dị thất dĩ lợi kì thất; tặc ái kì thân, bất ái nhân, cố tặc nhân dĩ lợi kì thân (…) Tuy chí đại phu chi tương loạn gia, chư hầu chi tương công quốc giả diệc nhiên: đại phu các ái kì gia, bất ái dị gia, cố loạn dị gia dĩ lợi kì gia; chư hầu các ái kì quốc, bất ái dị quốc, cố công dị quốc dĩ lợi kì quốc. Thiên hạ chi loạn vật, cụ thử nhi dĩ hĩ (...)

Nhược sử thiên hạ kiêm tương ái, ái nhân nhược ái kì thân, do hữu bất hiếu giả hồ? Thị phụ huynh dữ quân nhược kì thân, ác thi bất hiếu? Do hữu bất từ giả hồ? Thị đệ tử dữ thần nhược kì thân, ác thi bất từ? Cố bất hiếu bất từ vong hữu, do hữu đạo tặc hồ? Cố thị nhân chi thất nhược kì thất, thùy thiết? Thị nhân thân nhược kì thân, thùy tặc? Cố đạo tặc vong hữu, do hữu đại phu chi tương loạn gia chư hầu chi tương công quốc giả hồ? Thị nhân gia nhược kì gia, thùy loạn? Thị nhân quốc nhược kì quốc, thùy công? Cố đại phu chi tương loạn gia, chư hầu chi tương công quốc giả vong hữu. Nhược sử nhân hạ kiêm tương ái, quốc dữ quốc bất tương công, gia dữ gia bất tương loạn, đạo tặc vô hữu, quân thần phụ tử giai năng hiếu từ, nhược thử tắc thiên hạ trì. Cố thánh nhân dĩ trì thiên hạ vi sự giả, ác đắc bất cấm ác nhi khuyến ái? (...)

DỊCH NGHĨA

KIÊM ÁI

Thầy thuốc trị bệnh cho người (…) tất phải biết bệnh phát sinh từ đâu, rồi mới trị được (…) Sao riêng cái trị loạn không thể?

Thánh nhân lo việc trị thiên hạ, không thể không xét loạn từ đâu mà sinh. Tôi thường xét loạn từ đâu mà sinh và thấy rằng sinh ở chỗ người ta không yêu nhau. Tôi con không hiếu với vua cha, như vậy là loạn. Con chỉ yêu mình mà không yêu cha cho nên mới làm thiệt cho cha để lợi cho mình; em chỉ yêu mình mà không yêu anh, cho nên mới làm thiệt cho anh để lợi cho mình; bề tôi chỉ yêu mình mà không yêu vua cho nên mới làm thiệt cho vua để lợi cho mình; như vậy gọi là loạn. Dù đến (1) cha không thương con, anh không thương em, vua không thương bề tôi, cái đó cũng gọi là loạn. Vì cha chỉ yêu mình mà không yêu con cho nên làm thiệt cho con để lợi cho mình; anh chỉ yêu mình mà không yêu em cho nên làm thiệt cho em để lợi cho mình; vua chỉ yêu mình mà không yêu bề tôi cho nên làm thiệt bề tôi để lợi cho mình (…) Dầu cho đến đạo tặc trong thiên hạ thì cũng vậy: kẻ trộm chỉ yêu nhà mình mà không yêu nhà người khác cho nên mới ăn trộm của nhà khác để lợi cho mình; kẻ làm giặc chỉ yêu thân mình mà không yêu người khác nên mới hại người khác để lợi cho thân mình (…) Dầu cho hạng đại phu làm loạn nhà lẫn nhau, đến bậc chư hầu đánh nước lẫn nhau thì cũng vậy: đại phu chỉ yêu nhà mình mà không yêu nhà khác cho nên mới làm loạn nhà khác để làm lợi cho nhà mình; chư hầu chỉ yêu nước mình mà không yêu nước khác cho nên mới đánh nước khác để làm lợi cho nước mình. Các vật gây loạn trong thiên hạ, đều như vậy mà thôi.

(…) Thế cho nên chư hầu mà không yêu nhau tất đánh nhau tại đồng; gia chủ không yêu nhau tất cướp lẫn nhau; người nọ người kia không yêu nhau tất hại lẫn nhau; vua tôi không yêu nhau thì vua không huệ (gia ơn cho dân), tôi không trung; cha con không yêu nhau thì cha không từ mà con không hiếu; anh em mà không yêu nhau thì không hoà thuận; người trong thiên hạ mà không yêu nhau thì kẻ mạnh tất bắt kẻ yếu, kẻ giàu tất khinh kẻ nghèo, kẻ sang ngạo kẻ hèn, kẻ khôn lanh tất lừa kẻ ngu độn; những vạ loạn oán hận trong thiên hạ sở dĩ nổi lên đều là do không yêu nhau (…)

Nếu khiến cho thiên hạ đều gồm yêu nhau, ai ai cũng yêu cha anh và vua như chính thân mình thì làm gì còn kẻ bất hiếu? Ai ai cũng coi con em và bề tôi như chính thân mình thì làm gì còn kẻ bất từ? Cho nên sẽ không có sự bất hiếu và bất từ nữa. Còn có đạo tặc nữa chăng? Ai ai cũng coi nhà người như nhà mình, thì còn ai ăn trộm? Ai ai cũng coi thân người như thân mình thì còn ai làm giặc? Cho nên đạo tặc sẽ không còn nữa. Còn có hạng đại phu làm loạn nhà lẫn nhau, bậc chư hầu đánh nước lẫn nhau nữa chăng? Ai ai cũng coi nhà người như nhà mình, thì còn ai làm loạn? Ai ai cũng coi nước người như nước mình thì còn ai đánh nhau? Cho nên sẽ không còn hạng đại phu làm loạn nhà lẫn nhau, bực chư hầu đánh nước lẫn nhau nữa.

Nếu khiến cho thiên hạ đều gồm yêu nhau, các nước không đánh nhau, các nhà không làm loạn lẫn nhau, đạo tặc không có, vua tôi, cha con đều hiếu từ, như vậy thiên hạ trị. Cho nên bực thiên hạ làm cái việc trị thiên hạ, sao mà không cấm sự ghét nhau và khuyên sự yêu nhau cho được?

- Chúng ta nhận thấy phép hành văn khác hẳn trong Luận ngữ: rất bình dị, rõ ràng như để giảng cho hạng bình dân (Mặc tử xuất thân trong giới đó); mới xét qua có thể coi là rườm, nhưng sự thực là tác giả muốn lập đi lập lại, để nhấn mạnh vào óc người đọc. Bút pháp ấy thường thấy trong các bộ kinh của Đông lẫn Tây thời thượng cổ.

Chú thích:

(01) Nghĩa là: chẳng những tôi con không yêu vua cha mới gọi là loạn, mà ngay như vua cha không thương tôi con, cũng gọi là loạn nữa.

[1] Tức Tề Thái công, tên là Điền Hoà, Thái công tự xưng vương cho nên gọi là Thái vương.

[2] Theo Sử kí của Tư Mã Thiên (thiên Trịnh thế gia) thì người nước Trịnh hai lần giết vua: Ai công và U công.

[3] Nguyên văn là 杖, Đường Kính Cảo bảo chữ tịch 席 đó là chữ đó 度, nghĩa là cây gậy. – Đậu là một đồ để cúng tế, như cái tô có chân cao và có vung (豆 /đậu/). [Câu đầu, có lẽ nên sửa lại thế này: Nguyên văn là 席, Đường Kính Cảo bảo chữ tịch 席 đó là chữ độ 度, nghĩa là cây gậy (杖 /trượng/). (Goldfish)].

[4] Theo thiện Tiết táng hạ (ở trên) và theo thiên Thang vấn, sách Liệt tử, thì là nước Chiếp Mộc ở phía Đông nước Việt.

[5] Đem quân đi đánh người người, binh lính vào chỗ chết, tức là giết họ, rồi sau thưởng cho con họ.

[6] Bản nguồn chép là “nang”, tôi tạm sửa lại là “màng”. Nguyên văn là 比, Theo Thiều Chửu thì đọc là “bí”, nghĩa là: thân, vào hùa; còn trang http://ctext.org/mozi/lus-question/zh giảng là kết đảng 結黨. (Goldfish).

[7] Nguyên văn 無下比: chúng tôi đoán là giữ phận trên dưới, vua tôi.

[8] Nguyên văn: 吳慮. Ở trên chép là Ngô Lư (ba lần), còn ở đây lại chép là Ngô Lự. Chữ 慮, Thiều Chửu đọc là “lư” hoặc “lự”. Có lẽ cụ Nguyễn Hiến Lê đọc là “lự” vì trong đoạn trong chương III phần II, tên Ngô Lư được chép đến 4 lần. (Goldfish).

[9] Theo Phương Thụ Sở thì Nguỵ Việt là tên nước, hai câu này phải hỏi; dịch là: Thầy Mặc tử muốn đi thăm nước Nguỵ, nước Việt. Có người hỏi… thầy sẽ giảng gì trước?

[10] Ý muốn nói đâu phải chỉ muốn được cúng tế hậu hĩ mà thôi. Theo Khúc lễ, thời đó ăn xôi thì dùng ngón tay, không dùng đủa.

[11] Ý muốn nói: thà cúng ít hoặc đừng cúng còn hơn.

[12] Vương Tử Lư là con Sở Bình Vương, tên Khải. Bạch công giết Sở Bình vương và bắt Vương Tử Lư phải lên ngôi.

[13] Nghe không xuôi. “Nếu cho là nước vô đạo” hoặc “Nếu cho các vua là vô đạo” thì xuôi hơn.

[14] Trỏ Hạng Tử Ngưu. Trọng ai thì gọi là phu tử, chứ không nhất định đó là thầy mình.

[15] Để thúc ngựa đến mau hơn; tức để giúp Hạng Tử Ngưu làm điều bất nghĩa.

[16] Tức Công Thâu Ban, một người thộ giỏi thời Lỗ Ai công; theo Từ Hải không phải là Lỗ Ban mà là thợ mộc thờ làm tổ sư.

[17] Móc và nạng: bản nguồn chép là “móc và nặng”. Nguyên văn là “câu” 鉤, nghĩa là cái móc, vật có hình cái móc; ở đây có lẽ là cây sào, ở đầu sào có gắn cái móc như hình http://www.ydjs119.com/upload2/533.jpg, có thể kéo hoặc đẩy thuyền địch. (Goldfish).

[18] Cả đoạn và cái máy đó Đường Kính Cảo chú thích rất sơ sài, chúng tôi không tra được ở đâu, không hiểu rõ, nên chỉ đoán ý, không chắc dịch đúng.

[19] Xe có 6 bánh và hai cái thang, mỗi cái cao hơn hai trượng, đụng tới mây, quân lính leo lên đánh thành.

[20] Đưa dân họ ra trận, tức là giết họ.

[21] Sao cho Mặc tử lúc thì gọi là Kinh, lúc gọi là Sở? Đường Kính Cảo quên chưa hiệu đính.

[22] Sao cho Mặc tử lúc thì gọi là Kinh, lúc gọi là Sở? Đường Kính Cảo quên chưa hiệu đính.

[23] Nguyên văn: /治於神者,眾人不知其功;爭於明者,眾人知之/ Trị ư thần giả, chúng nhân bất tri kì công; tranh ư minh giả, chúng nhân tri chi. Chúng tôi đoán nghĩa như vậy.

[24] Phần Phụ lục này là do tôi ghi thêm, các nhan đề các đoạn trích ở dưới cũng do tôi tạm đặt. (Goldfish).

[25]夫物,或乃是而然,或是而不然,或一周而一不周,或一是而一非也 [Trong bản nguồn, nguyên văn chữ Hán được đặt ở cuối sách. (Goldfish)].

[26] Hoạch và Tang còn có nghĩa là hạng tôi đòi.

[27]白馬,馬也,乘白馬,乘馬也。驪馬,馬也,乘驪馬,乘馬也。獲,人也,愛獲,愛人也。臧,人也,愛臧,愛人也。此乃是而然者也

[28] Vị ngữ tông đồi với predicate của Anh hay prédicate của Pháp, gồm một động từ (to be, être) và một thuộc từ (attribut). Trong tỉ dụ “ngựa trắng là ngựa”, vị ngữ gồm động từ là và thuộc từ ngựa.

[29]獲之親,人也,獲事其親,非事人也。其弟美人也,愛弟非愛美人也。車,木也,乘車,非乘木也。船,木也,入船,非入木也。盜人,人也,多盜非多人也,無盜非無人也(...)此乃是而不然2者也

[30]愛人,待周愛人而後為愛人。不愛人,不待周不愛人。不周愛,因為不愛人矣。乘馬,不待周乘馬然後為乘馬也。有乘於馬,因為乘馬矣。逮至不乘馬,待周不乘馬而後為不乘馬。此一周而一不周者也。

[31]居於國,則為居國,有一宅於國,而不為有國。桃之實,桃也,棘之實,非棘也。問人之病,問人也,惡人之病,非惡人也。人之鬼,非人也,兄之鬼,兄也。祭人之鬼,非祭人也。祭兄之鬼,乃祭兄也。之馬之目盼,則為之馬盼,之馬之目大,而不謂之馬大。之牛之毛黃,則謂之牛黃,之牛之毛眾,而不謂之牛眾。一馬,馬也,二馬,馬也,馬四足者,一馬而四足也,非兩馬而四足也。一馬,馬也,馬或白者,二馬而或白也,非一馬而或白。此乃一是而一非者也。

[32] Nói rõ hơn là thiên Kiêm ái thượng. (Goldfish).

HẾT

.