- 7 -
Gắng nuôi con. Quên anh đi. Thứ lỗi cho anh. Hãn. Đó là nội dung dòng chữ bút chì trên mảnh giấy xé từ tập vở học trò gấp tư, kèm sợi dây chuyền vàng giấu trong hộp diêm. Mười một chữ hệt mười một con nhặng, vừa đọc thấy tức khắc chúng cất cánh bay vù đáp vào mắt khiến Ngà tối tăm mày mặt. Mười một chữ viết theo lối đánh điện tín ngắn gọn, mà chứa lượng thông tin có sức nặng làm trĩu trái tim giàu cảm xúc của người đàn bà trẻ.
Sững sờ, nước mắt lặng lẽ ứa lăn trên má, đọc lui tới không biết bao nhiêu lần vẫn chẳng thể hiểu nổi sự thực ẩn giấu sau dòng “điện tín” ấy, Ngà đến khẩn nài ông cán bộ quản giáo trực tiếp tân xin được gặp “chồng” lần nữa. Ông này lắc đầu:
- Từ trước tới nay không có lệ cho trại viên tiếp thân nhân hai lần.
Ngà trưng mẩu thư ngắn nom tầm thường nhưng chứa cả nội dung “vĩnh biệt” ngậm ngùi, kèm những giọt vắn giọt dài không thể ngăn:
- Hai lần trong một ngày phải không ạ? Vây tôi xin nán lại chờ đến mai, mong ông thông cảm.
Trả tại mẩu thư cho “khổ chủ”, ông ta lạnh lùng nói:
- Mai không phải là ngày nghỉ. Đây là việc nhà, tôi nghĩ chị có thể trao đổi qua thư từ.
Sau đó bao nhiêu thư đi không hề nhận được tin lại. Vài lần Ngà lên thăm nuôi mang cả thằng cu Công theo, Hãn vẫn cố tình tránh mặt. Kẻ “đại diện” hắn vẫn là Kiêm. Kiêm thường kết thúc nhanh chóng cuộc gặp, nhận giỏ đồ tiếp tế xong là quay vào trại ngay, và bao nhiêu lần hắn lặp lui lặp tới mãi một câu nghe phát chán: “Hãn vẫn thường, chúc cô Ngà và cháu khoẻ vui luôn!”.
Để có tiền sinh sống, nuôi con, Ngà chẳng nề hà bất cứ công việc gì, từ nặng nhọc như rửa chén bát trong các tiệm ăn, quán phở, giúp việc trong các lò giết mổ heo, bò... đến tạp nham như bán hàng rong, buôn bán nhu yếu phẩm ở cửa hàng đằng đông, đi bỏ mối lẻ ở các quán tạp hoá đằng tây, theo tàu lửa Thống Nhất buôn chuyến đủ loại hàng hoá trong Nam cần, ngoài Bắc sẵn có hay ngoài Bắc thiếu, trong Nam thừa, luồn lách tận biên giới Lào buôn lậu hàng qua ngả cửa khẩu Lao Bảo, đường 9... Ăn uống thất thường, ăn vận tuềnh toàng nhưng nhan sắc cứ lồ lộ hệt sen trong đầm, trăng đầu ngõ, đi bất cứ đâu và làm bất cứ gì, không ít phen Ngà phải chống chọi với cái lũ trai lơ, bọn đàn ông thích cà rỡn, ưa trò chim chuột, coi quấy rối tình dục là tuồng mua vui. Người mẹ trẻ ấy chưa bao giờ ngã lòng.
Và, ngày nọ bỗng gặp lại bà Chanh ở giữa chợ Đông Ba, hai người hàn huyên tâm sự gần nửa buổi ở một quán nước. Nghe bà Chanh rủ rê, nói về lợi lộc của cái nghề “tối mật” mối lái, móc nối cho đường dây đưa người vượt biên ra nước ngoài qua cửa biển Thuận An, Ngà phân vân, nửa tin nửa ngờ, đoạn hứa sẽ thử việc. Qua vài lần móc nối trót lọt, nhận thù lao gấp nhiều lần thu nhập do các nghề hầm bà lằng trước đây mang lại, nàng trở thành cái bóng luôn theo hình là bà Chanh được coi như bà chị kết nghĩa.
Nghề nghiệp mới đòi hỏi phải sống kiểu nửa tối nửa sáng, thoắt ẩn thoắt hiện, lắm lúc phải “tàng hình” bám chặt các bến bãi trước mỗi “trận đánh” đến cả tuần lễ, mươi ngày, không thuận tiện lắm cho việc nuôi con, Ngà đánh bạo mang thằng Công về quê Hãn ra mắt ông bà nội nó. Hết sức ngỡ ngàng, chẳng ai dám nhận, bảo chờ xác minh. Sau đó được Hãn xác nhận qua thư, người em trai vội vã đi tìm Ngà, và không chút ngại ngần nhận thằng cháu về nuôi. Vậy là năm lên ba, thằng Công về ở luôn với ông bà nội và chú thím nó. Thỉnh thoảng Ngà lại về thăm con, dẫu chưa được cưới xin, nàng vẫn đối xử khá tốt với gia đình “chồng”, dưới mắt mọi người, Ngà được tiếng là nàng “dâu” thảo.
Ngày Hãn nhận giấy phóng thích quay về quê thì thằng Công gần lên bốn, ông bà nội rất cưng chiều thằng cháu đích tôn. Trước đó không lâu, vợ chồng người em không con, mới tậu được một cửa hàng nhỏ kinh doanh vàng bạc ngoài phố, dọn ra ở ngoài đó luôn, Hãn trở thành trụ cột chính của gia đình.
Như một số gia đình khác trong làng, ngoài ruộng vườn canh tác quanh năm, nhà Hãn còn có truyền thống kinh doanh vàng bạc từ bao đời nay. Người cha nói:
- Bây giờ thong thả rồi con học nghề là vừa, trước mắt giúp em con phát triển cửa hàng của nó, sau này có nghề lận lưng để nuôi vợ con.
- Không, con không có ý định sống xa nhà nữa.
- Xa nhà là sao?
- Thì từ bao đời nay làng mình ai muốn ăn nên làm ra bằng nghề thợ bạc cũng phải tha hương ra phố ra huyện, thậm chí lang bạt kỳ hồ khắp nơi Bản thân cha cũng vậy thôi, nếu chưa thua tuổi già, cha đâu đã chịu “qui cố hương”!
Người cha cười:
- Đi, thỉnh thoảng lại về, có gì đâu mà ngại.
- Vả lại, con đã nguyện sống độc thân đến hết đời.
- Cái gì mà... độc thân? - Người cha xoe tròn mắt kinh ngạc nhìn gã trai như thể trên trán hắn bất thần nẩy ra cái sừng… bò: - Thế đã báo tin cho Ngà nó biết con về chưa? Bao nhiêu năm người ta sắt son chờ đợi lo kiếm tiền nuôi con mọn, sao giờ con lại…
Run tay châm thêm cho đầy tách trà, ông cụ uống cạn cơ hồ đang rất khát. Đan hai tay bó lấy đầu gối, Hãn lảng mắt ra cây bồ đề cổ thụ cao chừng năm sáu tấc thu mình đứng trong chậu kiểng màu lam ngọc với bộ rễ sù sì chưng trước hiên, thường ngày ai cũng khen thế đẹp oai phong, bộ rễ mạnh mẽ, ấn tượng, giờ nom lẻ loi đến phiền muộn.
- Dù mẹ thằng Công đã từng… nhưng giờ con coi cô ấy cũng chỉ là bạn!
- Lâu nay ở nhà vẫn đối xử với nó như dâu thảo, và nó coi cha mẹ như cha mẹ chồng, tình cảm như bát nước đầy. Đừng có ruồng bỏ, quay lưng lại với người ta một cách vô ơn bạc nghĩa thế con ạ!
- Con có một lý do rất riêng chưa tiện thưa với cha lúc này, xin khất lúc khác tiện hơn. Mỗi thằng Công con nghĩ trả hiếu cho cha mẹ cũng đủ rồi. Biết đâu sắp tới vợ chồng chú Hiếu hết tịt ngòi, lại đẻ sồn sồn năm một, lúc đó chỉ sợ cha lại than mệt vì bị cháu chắt quấy rầy.
- Con có tự thấy bây giờ con khác trước nhiều không?
- Con vẫn là con thôi, có gì khác đâu? Con muốn chăm sóc lại khu vườn, cha thấy thế nào ạ?
- Chơi với cuốc xẻng chẳng nhàn nhã bằng chơi với các dung cụ nhỏ gọn của nghề thợ bạc đâu, con cần cân nhắc kỹ. Việc cuốc đất lật cỏ ai chẳng làm được?
- Đất sẽ đẻ ra vàng nếu mình biết cách bắt nó đẻ. Còn nghề thợ bạc chỉ là gia công vàng thôi!
Đẩy mục kỉnh lên tận gốc mũi, người cha ngắm đứa con nay đã rắn rỏi, phong trần hơn trước, có cái gì đó cứ phảng phất trên vẻ mặt hắn nom buồn buồn, nghiêm nghiêm khó thể hiểu nổi. Ông khẽ phẩy tay:
- Ờ thì... - ông cụ bỏ lửng câu nói với vẻ mặt cau có, cau ríu đôi mày sâu róm y hệt mày của Hãn, nhưng Hãn biết ông sẽ không bắt buộc hắn phải theo cái nghề thợ bạc truyền thống của gia đình nữa.
Vốn gốc gác nhà nông, rời làng ra phố chợ học hành đỗ đạt, đi lính theo sắc luật tổng động viên, thất trận, rã ngũ, giờ quay về lại hiện nguyên hình là anh nông dân với ít chữ nghĩa trong đầu, ít trải nghiệm cuộc sống và tâm hồn hằn dấu một nỗi đau thầm, Hãn cầm lại cây cuốc thoạt tiên hơi lọng cọng sau quen dần, chí thú chăm sóc mảnh vườn tạp hơn 7 sào đất quanh nhà lâu nay gần như hoang phế. Thuê người làm sạch cỏ dại, khơi lại giếng, khai thông mương tưới tiêu, gia cố thêm vồng, liếp không chỉ các loại trái cây lưu niên như cam, quít, bưởi, xoài, sabôchê... mà cả các loạt rau củ ngắn ngày cũng được lên kế hoạch sản xuất. Sau vài tháng, khu vườn đã có “bộ mặt” mới.
Công việc vườn tược chiếm hầu hết thời gian trong ngày, phần còn lại Hãn dành cho việc chăm chút, dạy dỗ thằng Công và đọc sách, đa số là sách Thiền học, Phật học và Triết học.