- 8 -
Ra trại sau Hãn chừng nửa năm, Kiêm về phụ việc ở nhà máy sản xuất nước đá của một ông chú ở Hoà Vang Đà Nẵng. Vào một buổi chiều cuối tuần, ngang qua khu phố có quán bar Thanh Khê Melody ngày xưa, nay đổi bảng hiệu thành quán nhậu bình dân Mai Hồng, lác đác có vài bàn đầy khách, Kiêm ghé vào. Hắn hết sức ngạc nhiên và vui mừng gặp lại Ngà ở đây. Nàng mang bia hơi, bò lúc lắc ra chiêu đãi khách. Sau vài câu thăm hỏi thông thường, Kiêm nói:
- Sao cô lai phiêu bạt giang hồ vào tận đây, cứ ngỡ là đang vui vầy với thằng Hãn và cu Công ngoài Huế chứ.
Ngà khẽ so vai nói giọng không buồn không vui:
- Anh Hãn bây giờ khác xưa nhiều quá, em không thể hiểu nổi, nên rất tiếc không thể vui vầy như anh nói.
- Không sống chung nhưng vẫn yêu hắn chứ?
- Có lẽ không bằng ngày còn mang thằng nhóc trong bụng.
- Thế Ngà có gặp Hãn thường không? Tôi cũng tính đi thăm nó một chuyến nhưng công việc cứ lu bu...
- Thì thỉnh thoảng em vẫn về thăm thằng Công ấy mà! Ngại ở riết với anh Hãn, con trai em rồi cũng sẽ đâm ra gàn dở như cha nó, em đòi mang nó vô trong này. Cả anh ấy và gia đình nhất định không cho, nói nó là cháu đích tôn, như hũ mắm treo đầu giàn.
Uống cạn ly bia hơi, rót đầy, Kiêm cau mày ra dáng nghĩ ngợi rất lung, đoạn lái câu chuyện qua ngõ khác:
- Ngà mở quán lâu chưa? Hình như trước đây nơi này là bar Thanh Khê...
- Chỗ quen cũ của em, ông chủ vượt biên, bị sung công làm trụ sở dân phòng một thời gian, nay người nhà xin lại...
- Chắc cũng phải thân thế ghê lắm mới...
- Đương nhiên, em sang lại gần một năm nay. Thời buổi này buôn bán kiểu bình dân, làng nhàng vậy cho chắc ăn.
- À ra thế, vị trí thuận lợi, mặt bằng này chắc đắt lắm?
- Chỉ có sáu cây thôi, ăn nhằm gì! - Ngà nheo mắt cười.
Sáu cây vàng là cái giá không rẻ giữa thời buổi cơm độn bột mì hay bo bo hàng bữa. Mọi nhu yếu phẩm phải mua bằng tem phiếu theo tiêu chuẩn phân phối dè xẻn của nhà nước… Kiêm đưa ly lên, họ cụng rồi cạn nửa ly, Ngà nhắc khách ăn, gọi hầu bàn mang ra một bình bia nữa. Kiêm bỗng nhìn người đàn bà hơi đẫy đà nhưng vẫn còn khá xinh đẹp y như trước kia - bằng con mắt khác, sau khi nghe cái giá nàng đã sang mặt bằng, buột miệng:
- Khâm phục, khâm phục! Hỏi thật nhé, bộ cô được hưởng quyền thừa kế gì hay sao?
- Thừa kế gì đâu, tay làm hàm nhai thôi anh! Anh hiểu sao bây giờ em phải mở quán ngồi lượm bạc cắc thế này không? Bởi vì, sợ lắm rồi... chẳng còn hồn vía để phiêu lưu vô mấy cái nghề hốt bạc nữa.
Ngầm bị thôi thúc bởi ý định khoe mẽ nghề mối lái, dắt dây người vượt biên chui, sau một lần đổ bể, suýt xộ khám, đành xa chạy cao bay, nhưng rồi Ngà dừng kịp, lại nhắc Kiêm ăn uống, cụng ly với hắn, lại than phiền về Hãn, và chẳng rõ do hơi men hay vui vì chợt gặp người quen để trút vơi tâm sự, ngữ điệu của Ngà bỗng nhiễm chút hơi hám - người ta thường gọi là triết lý vụn:
- Đôi khi buồn nẫu ruột, em chợt nghĩ, tụi em giống hai lạch nước nhỏ sau khi đã trải qua lắm ghềnh thác cheo leo dọc đời mới gặp nhau, nhưng thay vì hợp lưu thành một dòng sông êm đềm lại chia ra đôi ngả. Ít ra thì cũng hơn một lần em bảo anh ấy nên làm cái đám cưới, đơn sơ cũng được, hoặc lễ ra mắt họ hàng gì đó, nhưng Hãn cứ hứa suông rồi phớt lờ. Theo anh thì tại sao nào?
Thừa biết lý do Hãn không muốn đeo nhẫn cưới vào tay Ngà, nhưng Kiêm cứ tỉnh như không:
- Thế hắn ta có để mắt hay phải lòng cô nào ở làng không?
- Chắc là... không!
- Sao cô dám đoạn quyết vậy?
- Thì nghe vợ chồng chú em và cả vài người trong họ hàng anh ấy nói. Ngoài làm vườn đọc sách, thỉnh thoảng Hãn cũng đi đâu đó làm việc họ, việc làng, tham gia các công tác xã hội, nhưng trong mắt mọi người, kể cả các cô gái thì anh ấy là một người lãnh cảm hay trầm cảm gì đó rất khó tả. Điều này em cũng thấy và luôn tự hỏi, có phải do trục trặc tâm thần gì đó mà khi còn ở trong trai anh ấy bảo phải quên anh đi và luôn tránh mặt em vào những kỳ thăm nuôi!? Các anh, cả anh lẫn anh Hãn đang cố giấu giếm điều bí mật nào đó, phải không?
- Lạ lùng nhỉ! - Kiêm lảng chuyện: - Thế em tính để thằng Công ở với cha nó mãi sao?
- Vào mùa hè, em hay đón nó vào chơi, chừng tuần lễ thằng nhóc lại kêu nhớ đòi về. Mà này, đừng có đánh trống lảng nữa, nói đi, cái gọi là điều bí mật ấy!
- Xin khất Ngà một dịp khác, bởi anh đã hứa với Hãn sống để bụng, chết mang theo nên... Quả là rất... buồn, như cô nói lúc nãy, cô và Hãn bây giờ tựa sông chia hai nhánh, nhưng dù tan hay hợp thế nào thì sông vẫn chảy.
- Vẫn chảy à? Mắc cạn thì có! Nói như anh thì giàu hay nghèo, sướng hay khổ thế nào thì cũng phải sống chứ gì? Cái sống ấy có khiên cưỡng quá không?
- Thế theo cô phải sống như thế nào?
- Người này phải biết tận hiến để được tận hưởng yêu thương từ kẻ kia, đừng có lãng phí thanh xuân một cách oan uổng. Em đang đi tìm điều này nhưng chưa gặp.
- Tìm sẽ thấy, hình như Chúa Jesus từng bảo thế.
- Thật ra em đã tìm thấy nhưng lại để vuột mất đó thôi. Suy cho cùng, anh Hãn đối với em cũng chỉ là chồng có mỗi một đêm rồi... thôi! Nhiều khi nghĩ đến nát óc em cũng không thể hiểu nổi mình có còn yêu anh ấy không nữa.
- Cái nhánh sông ngỡ mình đang mắc cạn tên Ngà chảy vòng vo một hồi rồi cũng quay về “hợp lưu” với cái tên Hãn. Sao lại chỉ có một đêm?
Cái bộ dạng ra vẻ kinh ngạc của gã đàn ông khiến người đàn bà hơi chột dạ, nghe môi má vụt nóng bừng cái cảm giác phần kín thầm nào đó của riêng mình bất thần phơi lộ trước mắt kẻ khác. Hôm gặp lại sau gần 4 năm xa cách, Hãn cứ tỉnh như không, không hề giống chút nào trạng huống đoàn viên hạnh phúc của một đôi vợ chồng đã đành, như thể cuộc gặp lại của hai người bạn cũng không nốt. Có cái gì đó giống bức tường vô hình ngăn giữa họ, khiến trong mắt nhìn người đàn bà, người bạn lòng của nàng trở nên xa lạ từ cử chỉ đến lời nói, cơ hồ có lớp giá băng xi mạ lên tất thảy khó hâm nóng, khó gần gũi. Một chỗ nằm chung biết bao đêm cô đơn Ngà từng mong đợi đã được Hãn khước từ một cách bẽ bàng: “Em ngủ với con đi, từ lâu anh đã quen ngủ... một mình!”.
Người chồng một đêm. Vâng, chỉ duy nhất một đêm kinh hoàng bên bờ đầm sôi lửa tai ương, và ám mù khói chết chóc ấy. Rồi thôi!
Lần gặp hôm ấy ở quán Mai Hồng mở đầu cho những lần gặp sau. Dần dà họ tìm thấy ở nhau lắm điểm tương đồng, vài điểm dị biệt có thể san sẻ được. Nói một cách nôm na thì, một hôm cả hai cảm thấy không thể sống thiếu nhau. Và, để Ngà không còn tiếc nuối, không còn bị ám ảnh mảy may nào về người bạn cũ nữa, Kiêm đã nói cái mà Ngà gọi là điều bí mật của Hãn vào dịp hắn ngỏ lời cầu hôn với nàng:
- Thật ra chẳng có gì khó hiểu. Sau một lần bị tai nạn trong rừng, Hãn không còn là đàn ông nữa. Người chồng một đêm tội nghiệp của em mong em có một cuộc đời khác, không phiền luỵ bởi sự khiếm khuyết bất hạnh hoàn toàn ngoài ý muốn và rất đáng tiếc của hắn ta!
Sau đó ít lâu họ cưới nhau, rồi cùng sang Mỹ định cư theo chương trình H.O. Thỉnh thoảng Ngà gửi tiền về tiếp Hãn nuôi thằng Công ăn học, hắn khó thể từ chối.
Đủ tiêu chuẩn ra đi nhưng Hãn đã chọn ở lại, ngày mỗi già đi bên cây trái vườn nhà. Những cuốn sách Thiền học, Phật học và Triết học từ thời ấy đến nay đã cũ sờn vẫn được lật giở một cách trang trọng bởi những ngón tay chai sần, vẫn được đọc đi đọc lại không hề thiếu sự nghiêm túc hay say mê. “Vàng” từ đất vườn nhà hắn bây giờ không chỉ cung cấp cho các bạn hàng rau quả ngoài chợ, mà cả các mối lái từ Huế ra, từ cây số 17 vào.
Định bụng ngày nào đó sẽ quay lại Hiệp Đức thăm cây mít cô đơn hắn trồng coi có còn không, nhưng chưa có dịp. Cây mít ngày bọn Hãn rời Hiệp Đức để chuyển về trại Phú Ninh - nơi dừng chân của “hành trình” dài 3 năm 7 tháng - đã cao ngồng nhưng vẫn còn son trẻ, chưa ra hoa đậu trái, giờ này nếu còn chắc nó hoá lão mất rồi.
Qua bậc tiểu học ở trường làng, thằng Công ra tỉnh học tiếp trung học, rồi tốt nghiệp đại học, đi làm ở một công ty nước ngoài, cưới vợ, lập nghiệp luôn ngoài phố, thỉnh thoảng lại về thăm cha. Vẫn không quên lời trối trăng của ông nội, Công tranh thủ lúc rảnh rỗi đi học thêm nghề thợ bạc ở cửa hàng của chú Hiếu, ông chú đã đi tìm, nhận nó về nuôi từ thuở mới lên ba.* HẾT
.