← Quay lại trang sách

Chương 1 THỜI ĐẠI

Khổng Tử mất năm 479 trước Tây lịch (năm thứ 41 đời Chu Kính Vương) ở nước Lỗ. Triều đình Lỗ và môn sinh tống táng ông rất trọng hậu, chôn trên bờ sông Tứ, phía bắc kinh thành (ngày nay ở huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông).

Hết thảy các đệ tử đều coi ông như cha, để tâm tang ba năm. Hơn trăm người làm nhà gần mộ, coi mộ cho đến mãn tang (riêng Tử Cống ở lại thêm ba năm nữa) rồi bùi ngùi chia tay nhau, mỗi người đi một nơi: người thì thanh tĩnh thủ tiết, không chịu ra làm quan mà ở ẩn tại nước Vệ như Nguyên Hiến; người thì như Tử Cống, đem sở học ra giúp đời lãnh một chức ở triều đình các vua chư hầu, rán thực hiện một phần đạo trị nước của thầy, mặc dầu không được bọn vua chúa luôn luôn theo lời khuyên can, nhưng hầu hết đều được họ kính trọng; một số nữa đem theo những bản chép các kinh Xuân Thu, Thi, Thư... về quê nhà mở trường truyền đạo của thầy, chép lại những lời dạy bảo của thầy rồi giảng giải thêm theo ý kiến riêng của mình. Đạo của Khổng tử rộng quá, bao quát nhiều vấn đề quá, cho nên không một môn sinh nào hiểu thấu được trọn, mỗi người chỉ chú trọng vào một khía cạnh hợp với tính tình, tư chất của mình, và càng ngày họ càng xa đạo gốc. Do đó mà sinh ra nhiều phái: phái Tử Trương cốt giữ lấy tinh thần, không câu chấp những điều vụn vặt, có phần quá cao, quá phóng khoáng, tự nhiên; phái Tử Hạ chú trọng về văn chương, lễ nghi, thịnh hành một thời nhờ vua nước Ngụy là Văn Hầu (423-387) tôn ông làm thầy và đặt chức bác sĩ để học các kinh. Quan trọng hơn hết là phái Tăng tử (tức Tăng Sâm) ở nước Lỗ. Hồi còn sống, Khổng tử ít chú ý tới Tăng Sâm, có lần chê là trì độn, nhưng chính Tăng Sâm có công với đạo Khổng hơn tất cả các môn đệ khác, một phần vì ông học rộng, thành thực mà chắc chắn, ghi chép lời của thầy trong cuốn Đại Học (một trong tứ thư), một phần nữa vì ông may mắn có một môn sinh rất xứng đáng, có phần vượt ông nữa, tức Tử Tư, tác giả cuốn Trung Dung (cũng là một trong tứ thư). Tử Tư tên là Không Cấp, là con của Bá Ngư, cháu của Khổng tử. Bá Ngư tư cách tầm thường, mà con lại vừa thông minh, hiểu được phần uyên áo của Khổng giáo (đạo trung dung và đức thành), vừa có một tư cách rất cao, không hổ với ông nội.

Được vua Lỗ Mục Công rất kính trọng, mà ông không nhận một chức tước nào, chịu sống trong cảnh nghèo không hề nhận một vật tặng nào nếu người tặng không biết giữ lễ với ông, dù người đó là vua chúa đi nữa. Hồi ông ở Lỗ, Lỗ Mục Công thường sai người đến thăm ông và tặng ông vài món thịt nấu chín. Lần đầu ông nhận, nhưng rồi ông bực mình vì vua đã không biết dùng mình, lại không biết cách tặng mình nữa: lần nào, sứ giả tới cũng bảo là do lệnh vua đem lại, khiến ông phải cúi đầu lạy hai lạy mà tạ ơn, cho nên ông từ chối, nói thẳng vào mặt sứ giả: “ngày nay ta mới biết rằng vua nuôi ta như nuôi chó, ngựa”. Lỗ Mục Công đáng lẽ phải dặn sứ giả cứ tiếp tục đem thịt hay lúa lại, mà âm thầm đưa vào nhà trong, chứ đừng nói rằng do lệnh vua sai nữa, thì mới hợp lẽ đãi hiền. (Mạnh tử - Vạn Chương hạ, bài 6).

Lần khác, Lỗ Mục Công lại nhà Tử Tư thăm, rồi hỏi:

- Thời xưa, một ông vua có ngàn cỗ chiến xa - nghĩa là ông vua một nước không lớn không nhỏ như nước Lỗ - mà muốn làm bạn với một kẻ sĩ, thì làm thế nào?

Tử Tư cũng lại tỏ vẻ khó chịu, đáp:

Người xưa có nói: nên thờ bậc hiền sĩ như thầy. Chứ đâu có nói: “Nên làm bạn với kẻ sĩ”.

Như vậy là Tử Tư muốn bảo: xét về địa vị thì ông là vua, tôi là bề tôi, tôi đâu dám làm bạn với ông. Còn xét về đạo đức thì ông phải thờ tôi, chứ đâu được làm bạn với tôi”. (Dĩ vị, tắc tử quân dã, ngã thần dã, hà cảm dữ quân hữu dã? Dĩ đức tắc tử sự ngã giả dã, hề khả dĩ dữ ngã hữu dã?)

以位,則子君也,我臣也,何敢與君友也?以德則子事我者也,奚可以與我友也?

- Mạnh tử - Vạn Chương hạ, bài 7).

Thái độ của Tử Tư thật là hiên ngang, so với thái độ của ông nội khác nhau xa. Khổng tử khi vào điện vua Lỗ thì khom lưng cúi mình, và khi đi ngang qua ngôi vua, dù là ngôi trống, cũng hơi biến sắc, chân hơi run, tiếng nói phào phào như hụt hơi (Luận ngữ - Hương đảng, bài 4).

Mới cách có hai thế hệ, khoảng nửa thế kỉ, mà đã như vậy. Có lẽ cũng do các vua chư hầu đã ít được trọng mà địa vị cùng uy tín của kẻ sĩ đã tăng lên nhiều; do đó ta mới hiểu được thái độ của Mạnh tử đối với các vua Lương, Tề... sau này.

Nhưng lí do chính vẫn là tư cách, tính tình của Tử Tư; ông cũng như thầy là Tăng tử, rất chú trọng về đạo đức, tới nỗi có vẻ câu chấp, hẹp hòi.

(Khổng tử coi đức nhân là chính, dùng lễ, nhạc, hiếu đễ để gây đức nhân; Tăng tử trái lại, coi đức hiếu là gốc của các đức khác)[1].

Tử Tư không có môn đệ nào danh tiếng, nhưng trong số môn đệ của môn đệ ông, có một người rất xuất sắc, cả về tư tưởng lẫn tư cách, chẳng những giữ được truyền thống của Khổng tử - Tăng tử, Tử Tư, mà còn phát huy thêm được đạo Nho, được đời sau tôn là á thánh, chỉ kém Khổng tử, người đó là Mạnh tử.

Coi bảng dưới đây (lập theo tài liệu của Vũ Đồng trong Trung quốc triết học đại cương -Thương vụ ấn thư quán - 1958), chúng ta thấy Mạnh tử sinh sau Khổng tử khoảng 180 năm, sau Mặc tử khoảng 90 năm, sau Dương Chu và Lão tử trên nửa thế kỉ, lớn hơn Trang tử khoảng 10 tuổi, và có thể rằng khi Tuân tử bắt đầu có tiếng tăm thì ông vẫn còn sống.

Thời Xuân Thu -770 -403

Khổng tử

sinh -551

mất -479

Mặc tử

-480

-397[2]

Dương tử

-440

-380

Lão tử

-430

-340

Liệt tử

-430

-349

Thời Chiến quốc -403 -221

Mạnh tử

-372

-289[3]

Trang tử

-360

-280

Tuân tử

-330

-227

Hàn Phi

-280

-2

Bảng trên còn cho ta thấy ông thọ trên 80 tuổi, sống giữa thời Chiến quốc: khi ông sinh thì thời Chiến quốc mới bắt đầu được khoảng ba chục năm, và ông mất được trên 30 năm thì nhà Chu dâng đất cho Tần (-256), từ đó Tần thôn tính lần lần các nước khác mà thống nhất Trung quốc năm -211.

Thời Chiến quốc là một thời loạn nhất của Trung-Hoa, các chư hầu đều “tranh thành dĩ chiến, tranh địa dĩ chiến”, “sát nhân doanh dã, sát nhân doanh thành”, có nước bắt hết các trai tráng, cả ông già nữa phải tòng quân, ruộng đất không ai cầy cấy phải bỏ hoang, gia súc chết gần hết, dân tình cực kì điêu đứng (coi thêm phần I, Chiến quốc sách - nhà Lá Bối tái bản năm 1973).

Chiến tranh không còn giữ cái luật “quân tử” - không giết kẻ bại - ta thường thấy ở thời Xuân thu, mà có tính cách dã man, rừng rú: tàn phá cho thật nhiều, đổ máu cho thật nhiều, chiếm đất bắt dân lành làm nô lệ, còn lính địch thì giết hằng ngàn, hằng vạn.

Các vua chúa đại thần, hầu hết trụy lạc, sống cực kì xa hoa trên xương máu của dân: vợ họ đeo đầy châu báu, ngọc thạch, họ ngồi trong những chiến xa phủ gấm vóc, sống trong những lâu đài lộng lẫy, tiệc tùng suốt ngày này qua ngày khác, có bữa tiệc gồm trăm món ăn, “tới nỗi mắt không nhìn thấy hết được, tay không gắp hết được, miệng không nếm hết được”[4]. Một vị đại thần nước Ngụy (cũng gọi là nước Lương) mà có mấy trăm cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ, cả ngàn con ngựa mập, và mấy trăm nàng hầu ăn mặc như các công chúa.

Như vậy ta tưởng tượng cách sống của vua nước lớn như Tề, Tần, Sở ra sao.

Dân chúng bị nạn chiến tranh bất tuyệt, già nửa phải đi lính, còn kẻ ở nhà thì phải nộp thuế có khi tới ba phần tư hoa lợi. Cho nên Mạnh tử đã phẫn uất, mắng vào mặt vua Lương Huệ Vương: “bếp vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập, mà dân thì có sắc đói, đồng ruộng la liệt những kẻ chết đói; như vậy khác nào vua sai thú ăn thịt người. Loài thú ăn thịt lẫn nhau người ta còn ghét thay; nay làm cha mẹ dân, cai trị dân mà sai thú ăn thịt người thì có đáng làm cha mẹ dân không?” (Bào hữu phì nhục, cứu hữu phì mã, dân hữu cơ sắc, dã hữu ngạ biểu, thử suất thú khi thực nhân dã. Thú tương thực, thả nhân ố chi. Vi dân phụ mẫu, hành chính bất miễn ư suất thú nhi thực nhân, ố tại kì vi dân phụ mẫu dã?)

庖有肥肉,廄有肥馬,民有饑色,野有餓莩,此率獸而食人也。獸相食,且人惡之,爲民父母,行政不免於率獸而食人,惡在其爲民父母也?

Những năm được mùa, dân cũng không được hưởng vì triều đình thu lúa hết để nuôi lính, mà những năm mất mùa thì kẻ già người bệnh chết hằng loạt trên đường, trong ruộng, còn những kẻ khỏe mạnh nhất phiêu bạt đi khắp nơi. Xã hội hoàn toàn tan rã, tan rã từ gốc, tức nông thôn; sự bất an gây sự bất bình: ai ai cũng mong có một trật tự mới.

Thời ấy tuy có thất hùng: Tề, Sở,Tần, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy; nhưng ba nước mạnh hơn cả là Tề, Sở, Tần.

Trong ba nước ấy, Tề đất đai nhỏ hơn cả nhưng có một vị trí rất tốt; nằm trên hạ lưu sông Hoàng Hà, gồm nhiều đồng ruộng phì nhiêu đã được trồng trọt từ lâu, dân chúng được khai hóa, khéo tay và thuần tính; quyền hành dễ được tập trung vào triều đình, không thường bị chia xẻ cho các lãnh chúa như tại các nước nhiều núi non hiểm trở. Một nguồn lợi rất lớn của Tề là muối, nhờ bờ biển rất dài; các ruộng muối do triều đình khai thác rồi thương nhân chở đi bán khắp miền đông Trung-Hoa, và phải đóng thuế cho nhà vua 50% giá bán. Ngay hai ngàn năm sau, đời Minh, đời Thanh mà nghề bán muối (và bán trà) vẫn có lợi nhất, tạo nên nhiều gia sản lớn nhất. Hình như Tề còn có mỏ sắt, cũng do triều đình khai thác. Do đó, Tề thành nước giàu nhất, văn minh nhất trong thất hùng. Từ thế kỉ thứ bảy trước Tây lịch, Tề Hoàn Công (685-643) nhờ tướng quốc Quản Trọng, một chính trị gia đại tài, tổ chức lại chính quyền, quân đội, nhất là kinh tế, mà hùng cường, thành một vị bá trong các chư hầu, thao túng các nước khác, mười một lần hội các chư hầu[5] để ra mệnh lệnh cho họ, chẳng hạn để tuyên bố phạt Sở hoặc trừng trị một chư hầu không chịu phục tòng.

Tới thế kỉ thứ tư, thời Mạnh tử, Tề đã suy vì các vua bất tài, nhưng vẫn còn là nước giàu nhất.

Đất đai rộng nhất là Sở, phía đông từ Đông-Hải, phía tây tới Hán-Trung, giáp với Tần; phía bắc giáp Hàn, Tống, Lỗ, Tề, ở phía trên sông Hoài; phía nam tới Động-đình hồ, ở dưới sông Dương-tử: diện tích bằng diện tích Tề, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn nhập lại. Nhưng miền đó chưa khai phá, đa số là rừng hoang và đầm lầy, dân chúng thưa thớt mà còn dã man, nên sự cai trị rất khó khăn.

Thế kỉ thứ năm, vua Sở chắc đã nhiều lần muốn tổ chức lại chính quyền và quân đội, nhưng hình như không thành công, cho nên Sở lăm le muốn tiến lên hướng bắc, chiếm miền trung nguyên (Hàn, Ngụy, Tống, Lỗ, Tề mà không được.)

Tần nằm về phía tây, đất đai cũng rất rộng, chỉ kém Sở (nhất là sau khi nghe lời Tư Mã Thác, Tần Huệ Vương đem quân chiếm được đất Ba Thục - coi bài 1, 7 - Tần sách trong Chiến quốc sách).

Đất cũng gồm nhiều rừng núi, dân chúng cũng còn bán khai, nhưng được một lợi thế là có cửa Hàm- Cốc, một hẻm núi rất hiểm trở, một khi đóng lại thì thời đó có thiên binh vạn mã cũng không qua được. Thành thử Tần không bị các nước ở phía đông (Hàn, Ngụy, Tống...) tấn công, có thể yên ổn tổ chức sự cai trị, khai khẩn đất đai, trữ lương, luyện binh để chờ thời. Nhất là từ năm -362, Tần Hiếu Công dùng Vệ Ưởng (cũng gọi là Thương Ưởng) làm tá thứ trưởng, áp dụng biến pháp của Ưởng thì Tần càng mau mạnh. Ưởng đặt ra pháp lệnh rất công bình, vô tư: phạt thì không kiêng kẻ có uy quyền lớn, thưởng thì không vì tình riêng. Hình pháp thi hành lên tới cả thái tử (sau lên ngôi là Huệ Văn Vương, cũng gọi là Huệ Vương): thái tử có tội, Ưởng bắt quan sư phó phải chịu tội thay, bị thích chữ vào má. Ưởng còn đặt ra phép ngũ gia hoặc thập gia liên bảo: năm nhà hoặc mười nhà phải liên đới chịu trách nhiệm với nhau, một người có tội mà những người kia không tố cáo thì cả bọn bị tội, trái lại ai tố cáo thì được thưởng. Lại ra lệnh người nào ra khỏi làng, thì phải có “bằng cứ”, tức như thẻ căn cước ngày nay, nếu không thì không nhà nào được chứa. Nhờ những pháp lệnh ấy, trong nước hết trộm cướp, ngoài đường không ai nhặt của rơi.

Ông ta tổ chức lại hành chánh, chia nước làm 31 huyện, đặt dưới quyền một huyện trưởng, như vậy quyền hành tập trung cả vào triều đình, không còn bọn lãnh chúa nữa. Đồng thời ông khuyến khích canh nông, sửa sang đường sá, bỏ chế độ tỉnh điền, cho nông dân tự do khai thác đất đai, hoàn toàn làm chủ đất của mình. Chế độ thuế khóa cũng thay đổi, tùy theo diện tích của ruộng, như vậy triều đình thu được một số thuế nhất định, không tùy thuộc mùa màng trúng hay thất nữa.

Dùng biến pháp mười sáu năm, Tần đã mạnh rồi, Hiếu Công xưng bá (-343), nhiều chư hầu bắt đầu thấy nguy cơ, năm -333, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở theo mưu kế của Tô Tần, hợp tung để chống Tần, nhưng chỉ được một năm, phe hợp tung tan, Tần càng đắc thế, xưng vương (-325). Tới năm -311, Trương Nghi đề xướng thuyết liên hoành, liên kết các nước từ đông sang tây và đứng về phe Tần để phá các nước khác, và lần lần nhờ tướng Bạch Khởi, Tần thắng được Ngụy, Hàn, hạ được Sở, uy hiếp được Tề, diệt được Triệu, chiếm được Chu, Chu phải dâng hết đất cho Tần (-256).

Dưới dây là những biến cố lớn xảy ra trong đời Mạnh tử:

- 372 Mạnh tử sinh.

- 362 Tần Hiếu Công lên ngôi.

- 359 Tần Hiếu Công dùng Vệ Ưởng để biến pháp.

- 350 Tần Hiếu Công dời đô lại Hàm-dương, bỏ chính sách tỉnh điền.

- 343 Tần Hiếu Công xưng bá.

- 338 Tần Hiếu Công chết, Huệ Văn Vương nối ngôi, giết Vệ Ưởng.

- 334 Tề, Ngụy xưng vương. – Sở diệt Việt.

- 333 Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, hợp tung để chống Tần. Tô Tần làm tung trưởng.

- 332 Tô Tần bỏ Triệu, phe hợp tung tan.

- 325 Tần xưng vương.

- 323 Trương Nghi làm tướng quốc Ngụy. – Hàn, Yên đều xưng vương.

- 317 Tần đại thắng Hàn ở Tu Ngư. Tề giết Tô Tần. -Trương Nghi làm tướng quốc Tần.

- 316 Tần chiếm đất Thục.

- 314 Tề Tuyên vương diệt Yên.

- 312 Sở đánh Tần, thua to, Tần chiếm được Hán Trung.

- 311 Trương Nghi đề xướng thuyết liên hoành.

- 299 Tần giam cầm Sở Hoài Vương. Khuất Nguyên buồn rầu vì việc nước, đâm đầu xuống sông Mịch La.

- 298 Tề, Hàn, Ngụy hợp lực phá quân Tần ở cửa Hàm Cốc.

- 295 Triệu diệt Trung-Sơn.

- 293 Ngụy, Hàn đánh Tần, tướng Tần là Bạch Khởi đại thắng.

- 289 Mạnh tử chết. (Hơn ba chục năm sau, Chu dâng hết đất cho Tần: - 256)

Thời Chiến quốc là một thời đại loạn, nhưng cũng là thời tư tưởng Trung Quốc phát triển rất mạnh, như đương lên men. Ngôn luận được hoàn toàn tự do, trừ ở Tần; các vua chúa đã không nghi kị, mà còn tôn trọng kẻ Nho sĩ, mời họ làm cố vấn, tuy không theo chính sách của Khổng gia, nhưng đãi họ rất hậu; còn hạng biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Tuy, Công Tôn Diễn... thì một bước lên chức tướng quốc.

Người đời sau gọi thời đó là thời “bách gia chư tử”, không phải là quá đáng. Các đại triết gia thì không nhiều, độ năm sáu nhà như Mạnh tử, Trang tử, Tuân tử, Huệ tử, Công Tôn Long, Trâu Diễn, nhưng nhà nào cũng có một số đệ tử có tài; các triết gia ít tên tuổi hơn thì chắc là rất nhiều, như Cáo tử, Bành Mông, Điền Biền, Doãn Văn, Hứa Hành, Trần Trọng, Ngụy Mâu.... sử không chép hết được. Ngoài ra còn các chính trị gia, gọi là Pháp gia, như Thân Bất Hại (mới đầu giúp Ngụy, sau giúp Tần), Vệ Ưởng, Thận Đáo, nổi tiếng nhất là Hàn Phi (cuối đời Chiến quốc); Thân Bất Hại chuyên bàn về thuật làm vua; Vệ Ưởng chuyên bàn về pháp; Thận Đáo chuyên bàn về cái “thế” của ông vua; Hàn Phi tổng hợp lại mà gián tiếp giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc.

Còn hạng biện sĩ (cũng gọi là sách sĩ) giỏi biện luận, du thuyết bọn cầm quyền để mưu bổng lộc, chức tước, và hạng phương sĩ (cũng gọi là thuật sĩ), gồm các thiên văn gia, y gia, nông gia.... (ngày nay ta gọi là kĩ thuật gia) thì đếm không hết.

Thuyết của cả trăm nhà đó chống đối nhau, mà thuyết nào cũng có vẻ chấp nhận được, thành thử nhà cầm quyền cũng như dân chúng không biết nghe ai, không tìm ra được hướng đi nữa.

Sinh trong một thời như vậy, hỗn loạn hơn đời Khổng tử cả về phương diện xã hội lẫn tư tưởng mà vẫn giữ đạo nhân nghĩa của Không tử, lại chịu ảnh hưởng tính tình cương cường bất khuất của Tử Tư, thì dĩ nhiên Mạnh tử cũng phải ôm hận như Không tử, mấy chục năm bôn ba các nước Lương, Tề, Lỗ, Đằng rồi rốt cuộc cũng lại trở về quê nhà trứ thư lập ngôn. Về phương diện ấy, đời ông y hệt đời Khổng tử.

Chú thích:

[1] Trong chương Li Lâu hạ - bài 22, Mạnh tử chỉ nói: “Ta chưa được là môn đồ của Khổng tử, ta học riêng ở những người truyền đạo của Ngài”. Vậy rõ ràng ông không phải là học trò của Tử Tư. Tử Tư chắc chết trước khi ông sinh, mà ông có thể cách Khổng tử bốn năm thế hệ, nhưng các học giả từ xưa vẫn cho Mạnh tử thuộc vào môn phái Tử Tư, có lẽ vì ông thường dẫn lời Tử Tư, rất trọng Tử Tư. Tính tình cũng hiên ngang như như Tử Tư, và phần tâm học của ông cơ hồ có chịu ảnh hưởng Tử Tư ít nhiều (coi các chương VII, VIII ở sau).

[2] Từ đây trở xuống, các năm sinh và tử đều phỏng chừng hết, có khi sai vài chục năm.

[3] Trong cuốn Chư tử khảo sách (Nhân dân xuất bản xã Bắc kinh - 1959 chương Mạnh tử truyện La Căn Trạch chép với 8 thuyết về năm sinh và năm tử của Mạnh tử. Trừ hai thuyết hiển nhiên là sai, còn sáu thuyết kia xê xích nhau tới ba chục năm: như một thuyết nói Mạnh tử sinh năm đầu triều đại Chu An vương (-401), mất năm đầu triều đại (-314); một thuyết bảo sinh năm thứ tư triều đại Chu Liệt vương (-372) mất năm thứ hai mươi sau triều đại (-289), rồi La Căn Trạch đưa ý kiến: không thuyết nào có chứng cứ chắc chắn; đại khái có thể tin rằng Mạnh Tử sinh vào khoảng năm đầu triều đại Chu Liệt vương (-375 - Chư tử khảo sách in lầm là - 370) và mất năm thứ hai mươi ba điều đại Chu Noản vương (-290) chúng tôi thấy thuyết sinh -372, mất - 289 được nhiều sách dùng nhất, mà cũng chỉ xê xích thuyết La Căn Trạch có ba năm, nên có thể tin Vũ Đồng được.

[4] Liu Wu Chi trích dẫn trong La Philosophie de Confucius, Pagot, 1993.

[5] Các sách cổ như Chiến quốc sách, Sử kí đều chép là cửu hợp chư hầu (chín lần họp chư hầu). Nhưng theo chú thích của Chu Tử, thì Tề Hoàn Công họp chư hầu 11 lần. Chữ cửu (chín) đó phải đọc là củ: củ hợp có nghĩa là kết hợp. Henri Maspéro trong cuốn La Chine antique (PUF-1965) trang 249 cũng bảo là 11 lần và nếu kể thêm một lần năm 652 sau khi Hoàn Công mất thì là 12.