← Quay lại trang sách

Chương 2 ĐỜI SỐNG HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ

Mạnh tử là triết gia duy nhất thời Tiên Tần mà chúng ta biết được ít điều về tuổi thơ, nhờ bà mẹ hiền của ông. Ông thuộc dòng dõi công bộc Mạnh Tôn ở nước Lỗ, tên là Kha, tự là Tử Dư, sinh ở ấp Trâu, sát nước Lỗ. Có sách nói cha là Khích Công Nghi, mẹ họ Chưởng nhưng vô chứng cứ. Tới đời ông cha, chi của ông đã sa sút, tuy là quý tộc mà sống như bình dân, về điểm ấy ông giống Khổng tử. Có lẽ phần đông các triết gia thời ấy cũng như ông: nhờ thuộc dòng dõi quí tộc, ông mới được học hành; rồi vì nghèo, không được lãnh một chức vị tại triều, nên ông mới có chí lập thân.

Chúng ta có thể nói giai cấp trung lưu thời nào cũng tạo cho quốc gia, nhân loại được nhiều nhân tài nhất, vì địa vị cao quá thì người ta thường hưởng lạc hoặc phải sớm lo việc nước, ít chú trọng đến sự học, còn thân phận thấp quá thì không có phương tiện để học, chí khí dễ bị hoàn cảnh khắt khe làm cho tiêu ma.

Tương truyền Mạnh tử mồ côi cha từ hồi ba tuổi, nhưng chưa đáng tin, chỉ nên nhớ rằng ông sớm mồ côi, được mẹ ở góa nuôi nấng. Không nghe nói ông có anh em chị em.

Nhiều người đã biết những giai thoại dưới đây về cách dạy con của thân mẫu ông. Toàn là những truyền thuyết chép trong Liệt nữ truyện, nếu không đáng tin hết thì ít nhất cũng phải nhận là có ý nghĩa, nên chúng tôi cũng nhắc lại.

Giai thoại thứ nhất là thân mẫu ông ba lần dời chỗ ở để ông được sống trong một hoàn cảnh tốt nhất. Mới đầu nhà ở gần một nghĩa địa (có sách nói là ở gần một lò làm thịt súc vật) cậu Kha ngày ngày trông thấy tang lễ, đám táng, xúc động và bắt chước người ta đào huyệt làm lễ chôn cất. Bà mẹ bảo: “Chỗ này không phải là chỗ cho con tôi ở”, rồi dời nhà lại gần chợ (có sách chép là tới một xóm làm đồ mã). Cậu Kha thấy những người bán rong cũng bắt chước, suốt ngày làm bộ mua bán, rao hàng, trả giá. Thấy vậy bà mẹ lại dời chỗ nữa, lần này tới gần một trường học; kết quả thật đáng mừng: con bà bắt chước thái độ, cử chỉ nghiêm trang, kính cẩn của các học sinh, cũng lễ độ nghiêng mình chào hỏi, cũng nhường bước cho người lớn, khoan thai tiến lui.

Giai thoại thứ nhì: một hôm cậu thấy một người mổ một con heo, hỏi mẹ:

- Người ta mổ thịt nó làm gì vậy, mẹ?

Bà mẹ đáp:

- Để cho con ăn.

Rồi suy nghĩ một lát, bà ân hận rằng mình đã nói đùa. Bà nghĩ bụng: “Khi mình có mang nó, nếu chiếu trải lệch thì mình không dám ngồi, thịt cắt không ngay ngắn, mình không dám ăn. Như vậy là dạy nó từ khi nó còn là bào thai, chưa biết gì. Bây giờ nó đã bắt đầu hiểu biết, không nên nói đùa như vậy mà nó tưởng là mình nói dối, rồi cũng hóa ra nói dối”. Nghĩ vậy, bà bèn đi mua một ít thịt heo về cho con ăn.

Giai thoại thứ ba: cậu Kha đã hơi lớn rồi, theo học một người trong môn phái Tử Tư. Mới đầu cậu hơi làm biếng, có lần giữa buổi học bỏ về nhà. Bà mẹ đương dệt vải, thấy vậy cắt một khổ vải trong khung cửi. (Có sách chép rằng cậu đương học bài thì bỏ dở, bà đương khâu ở bên cạnh, bèn lấy dao cắt đứt miếng vải). Cậu ngạc nhiên hỏi tại sao. Bà đáp: “Đương học mà bỏ về (hoặc bỏ dở) thì cũng như đương dệt (hoặc đương khâu) mà cắt khổ vải đi. Cái học của con như khổ vải của mẹ còn dùng gì được nữa đâu”. Lời trách ấy in sâu vào tâm hồn cậu, từ đó cậu siêng học, sau thành một học giả giỏi nhất đương thời.

Chúng ta không được biết gì về vợ con của Mạnh tử. Chỉ có truyền thuyết này rất khó tin, nhưng cũng lí thú. Một lần ông thấy vợ ngồi trong phòng riêng mà ở trần. Ông nổi giận, cho như vậy là vô lễ, mất nết, muốn đuổi vợ đi. Nhưng cụ bà gọi ông lại một chỗ vắng, rầy ông: theo lễ, một người đàn ông sắp đi tới cửa phòng của một người đàn bà, dù người đó là vợ, thì cũng phải đằng hắng hay lên tiếng, cho người ta biết trước; rồi khi bước vào phòng thì nên nhìn xuống để người ta đừng ngờ mình có ý xoi mói. Con sồng sộc đi vào phòng riêng của nó, là con vô lễ, mà lại trách nó vô lễ, như vậy chẳng bất công ư?”. Ông nhận lỗi về mình và thôi không đuổi vợ nữa.

Mấy giai thoại ấy, nếu đúng, thì biểu lộ được một phần tính tình của ông: có hiếu với mẹ, có chí, nghiêm khắc, nhưng biết nhận lỗi.

Ông không có tiếng tăm sớm như Khổng tử, ngoài ba mươi tuổi vẫn chưa được ai biết tới. Có lẽ thời gian đó là thời gian chuẩn bị, cần cù học hỏi, tìm hiểu đạo Khổng. Đọc bộ Mạnh Tử, thấy ông dẫn nhiều câu trong kinh Thi, kinh Thư thì chúng ta đoán rằng ông chuyên về hai kinh đó, có thể thêm kinh Xuân Thu nữa, còn các kinh khác: Lễ, Nhạc, Dịch ông ít hoặc không nhắc tới.

Nhưng vào khoảng bốn chục tuổi, ông nổi danh là một đại nho, có nhiều môn sinh, được nhiều người trọng vọng.

Tiếp theo một khoảng hai chục năm, ông nhiệt tâm hoạt động về chính trị, hồi năm chục tuổi cùng với môn sinh bôn ba các nước Lỗ, Lương, Tề, Đằng, Tống, rán tìm một vị minh chủ để thực hành đạo của Khổng tử. Những lời khuyên của ông được vua các nước đó coi trọng và đôi khi áp dụng.

Theo bài 4, chương Đằng Văn công, hạ, và bài 3, chương Công tôn Sửu hạ, thì ông sống rất sang, tới đâu cũng được các vua chúa tiếp đãi cực kì trọng hậu. Mỗi khi qua nước nào, ông “dắt theo cả mấy chục cỗ xe và mấy trăm người tùy tùng và vua nước ấy phải cung cấp lương thực”; tới khi ông rời một nước nào thì vua còn “dâng ông chút ít để ông lên đường” nữa; “chút ít” đó là bảy chục dật vàng như hồi ông rời nước Tống. Mỗi dật bằng 24 hay 20 lượng vàng! Khổng tử có thấy cảnh ấy, chắc phải lắc đầu than rằng: “hậu sinh khả úy thật?” Thầy trò cụ có lúc phải nhịn đói, mặt xanh như tàu lá; và môn sinh cụ quí nhất, Nhan Hồi, chỉ có một giỏ cơm, một bàu nước. Thời thế đã khác xa!

Nếu ta so sánh với các biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi... thì càng thấy rõ uy danh của thầy trò Mạnh tử lớn ra sao. Hầu hết bọn biện sĩ đều phải lao đao, ăn dầm nằm dề ở một quán trọ một kinh đô nào đó cả tháng, có khi cả năm, vung tiền ra mua chuộc những kẻ hầu cận nhà vua để xin được tiếp kiến. Khó tới nỗi Tô Tần đã phải trách vua Sở:

Thức ăn ở Sở đắt như ngọc, củi đắt như quế, kẻ thông báo của nhà vua khó được thấy mặt như quỉ, mà nhà vua khó được yết kiến như Thượng Đế. Nay nhà vua giữ tôi lại là bảo tôi ăn ngọc, đốt quế để xin hội kiến với Thượng Đế ư? (Chiến quốc sách – Sở III.2).

Vì vậy mà lần đầu Tô Tần lại yết kiến vua Tần phải chầu chực đến nỗi rách chiếc áo cừu và tiêu hết trăm dật vàng (2.400 lượng)[1], phải bỏ nước Tần về quê nhà, hình dung tiều tụy, mặt mày xanh xạm, có vẻ xấu hổ. (Chiến quốc sách - Tần I.2).

Trương Nghi cũng không may mắn hơn, tới Sở phải chầu chực cả tháng cả năm, nghèo khổ quá, bọn đàn em đòi bỏ về, Trương Nghi phải dùng một cách bỉ ổi để xoay tiền: vào yết kiến vua Sở, bảo sẽ qua Tần kiếm gái đẹp cho nhà vua; hoàng hậu và một sủng phi của vua Sở hay tin, phải đút lót cho Trương, kẻ thì một ngàn cân vàng, người thì năm trăm cân. (Chiến quốc sách – Sở III.4).

Tài liệu trong Chiến Quốc sách không đáng tin hẳn, nhưng tác giả tất dựa trên sự thực lịch sử rồi tưởng tượng thêm. Vậy ta có thể tin rằng các biện sĩ thời Chiến quốc thường không được các vua chúa kính trọng bằng các triết gia có đạo đức như Mạnh tử nhưng lại ưa dùng họ hơn là dùng các triết gia: Tô Tần, Trương Nghi đều một bước nhẩy lên chức tướng quốc còn Mạnh tử, không được như Khổng tử nữa (Khổng tử còn được cầm quyền tướng quốc nước Lỗ trong mấy năm), không được một ông vua nào giao cho một nhiệm vụ quan trọng ở triều đình cả, chỉ đóng vai khách khanh, tức như chức cố vấn ngoại quốc mà không có quyền hành chi cả.

Bọn triết gia được trọng mà không được dùng là do bọn vua chúa mà cũng chính do họ nữa:

- Bọn vua chúa chỉ muốn được cái tiếng tốt là biết chiêu hiền đãi sĩ, chứ thực tâm cho họ là vu khoát, không thực tế, hoặc không đủ đức và kiên nhẫn để theo họ. Chính họ cũng giữ đúng nguyên tắc quá, không chịu mềm dẻo để tìm cách thực hành đạo của mình một phần nào; đôi khi họ còn kiêu căng, ngạo mạn, không coi bọn vua chúa ra gì cả.

Mạnh tử bôn ba chư hầu có phần ít hơn Khổng tử, và cũng như Khổng tử, ông không hề dặt chân đến nước Chu (mặc dầu ông chủ trương vẫn giữ chế độ phong kiến: có thiên tử và các vua chư hầu), có lẽ vì ông cho rằng các vua Chu không đủ tư cách hoặc phương tiện làm nên việc lớn, thống nhất Trung Quốc. Ông cũng không tới Sở và Tần, chê hai nước đó còn bán khai, không dáng làm chủ Trung Quốc chăng? Rốt cuộc ông chỉ loanh quanh ở miền Lỗ, Đằng, Tống, Lương, tức miền lưu vực Hoàng hà, đã được khai hóa lâu đời hơn cả.

Bộ Mạnh Tử mở đầu bằng hai chương Lương Huệ vương thượng và hạ. Có lẽ ông tới Lương trước hết; thời đó kinh đô Lương và Tề là những đất văn vật nhất, đến các hạng sĩ (học sĩ, tức các triết gia như ông, biện sĩ, thuật sĩ) tới đông hơn hết.

Ngay từ buổi hội kiến đầu tiên với Lương Huệ vương, ông đã tấn công nhà vua liền. Lương bị các nước chung quanh uy hiếp, năm -341 thua Hàn và Tề, năm sau lại bị Tần đánh, phải dâng Tần đất Hà Tây, dời đô qua Đại-Lương, năm -318, lại thua Tần một lần nữa mặc dầu được Sở, Triệu, Hàn, Yên giúp sức. Vì vậy Huệ vương muốn cho Lương mạnh lên, nên mới gặp mặt, đã hỏi ngay Mạnh tử có cách gì làm lợi cho nước ông không.

Mạnh tử gạt phăng:

- Vua cần gì phải nói với lợi? Chỉ nên nói tới nhân nghĩa mà thôi. (Vương hà tất viết lợi? Diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ. 王何必曰利?亦有仁義而已矣。Lương Huệ vương, thượng - bài I).

Vì làm vua một nước mà chỉ nghĩ tới cái lợi cho nước mình thì từ các đại thần trở xuống tới người dân thường, ai cũng chỉ nghĩ tới cái lợi cho nhà mình, thân mình, như vậy nước sẽ loạn. Vả lại mưu cái lợi cho nước mình thì phải làm hại nước khác, chính vì nước nào cũng chỉ tính cái lợi riêng cho mình nên mới có chiến tranh mà thời Chiến quốc mới kéo dài mấy trăm năm. Phải lo cái lợi chung cho thiên hạ kia thì mới hết loạn, mà cái lợi chung đó là nhân với nghĩa.

Ta thấy lí tưởng ông hợp với truyền thống Khổng tử, trái hẳn với chủ trương của các chính trị gia, các pháp gia. Theo chính sách nhân nghĩa thì phải lâu mới có kết quả, mà Huệ vương nóng lòng, muốn nước mau mạnh, phàn nàn rằng đã hết lòng trị nước, cứu giúp dân nghèo, mà sao kết quả cũng không hơn gì các nước láng giềng, dân số vẫn không đông hơn các nước ấy; Mạnh tử lấy chiến trận ra giải thích cho nhà vua, bảo:

- Tiếng trống lệnh nổi lên rồi, hai quân giao chiến nhau, quân của nhà vua thua, cởi bỏ áo giáp, kéo đao thương mà chạy, kẻ chạy trăm bước rồi ngừng, kẻ năm chục bước rồi ngừng. Kẻ chạy năm chục bước có quyền chê kẻ chạy trăm bước không?

Huệ vương đáp không. Mạnh tử kết luận:

- Vậy thì nhà vua cũng đừng nên mong dân số nước Ngụy đông hơn dân số các nước chung quanh.

Nghĩa là chưa thấy kết quả chỉ tại chưa thi hành nhân nghĩa đến nơi đến chốn, còn phải kiên nhẫn nhiều, gắng sức nhiều nữa, mới bấy nhiêu, tuy đã khá hơn các ông vua khác nhưng chưa đủ.

Lần khác, Mạnh tử tỏ ra nghiêm khắc quá mức. Huệ vương vẫn lễ độ, rất nhiều thiện chí, bảo xin nghe lời ông dạy bảo về việc trị nước, ông đã chẳng khuyến khích, còn mắng ngay vào mặt Huệ vương là làm cha mẹ dân mà “sai thú ăn thịt dân”, vì “trong bếp vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập mà (...) đồng ruộng la liệt những kẻ chết đói) (Lương Huệ vương, thượng, bài 4, đã dẫn ở chương I).

Ít lâu sau những cuộc hội kiến ấy, Huệ vương băng; con là Tương vương lên nối ngôi. Mới gặp lần đầu, Mạnh tử đã có ác cảm ngay với Tương vương, khi ra khỏi điện, chê rằng “ở xa coi, không có khí tượng ông vua; lại gần chẳng có oai nghiêm khiến cho mình kính hoặc sợ”. Tương vương hỏi ông làm sao thống nhất được thiên hạ, ông đáp:

“Ai không giết người thì thống nhất được thiên hạ”. Cũng lại là lời ngầm trách các vua Lương bất nhân, không biết nuôi dân mà còn hiếu chiến.

Từ đó ông chán ngán, hết trông cậy vào nước Lương được, bỏ nước đó mà qua Tề.

Ông ở Tề lâu nhất, khoảng bốn, năm năm mà cũng hi vọng ở Tề nhiều nhất, vì như trên chúng tôi đã nói, Tề là một nước phú cường lại văn minh, được khai hóa từ lâu. Kinh đô Tề hồi đó là nơi tụ họp những danh sĩ bậc nhất Trung Quốc. Vua Tề trọng đãi họ, cho họ ở những ngôi nhà lộng lẫy ở cửa tây kinh đô, tặng họ chức tước và lương bổng rất hậu, chỉ để thỉnh thoảng hỏi ý kiến họ về việc nước, hoặc mời họ vào triều giảng về đạo lí, và viết sách truyền bá đạo của họ[2].

Mạnh tử hai lần tới Tề, lần đầu gặp Tề Tuyên vương hồi ông trên 50 tuổi. Chúng ta biết ông Tề Tuyên vương này nhờ một câu trong Cung oán ngâm khúc:

Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.

Câu ấy cho ta một cảm tưởng xấu về ông, tưởng ông là hạng vua dâm đãng bậc nhất, như Kiệt, Trụ chẳng hạn. Sự thực ông không hiếu sắc gì hơn các vua chúa khác, có phần dễ thương nữa vì thẳng thắn nhận những nhược điểm của mình (như ham nghe nhạc, săn bắn, gái đẹp) và có thiện chí muốn tu tỉnh, lại có lòng thương người.

Mạnh tử có cảm tình với Tuyên vương, nhận chức khách khanh; đối với ông, không có giọng mạt sát gay gắt như đối với Lương Huệ vương và Tương vương. Trong bộ Mạnh Tử có 16 bài chép những lời ông khuyên bảo Tuyên vương (mà chỉ có năm bài về Lương Huệ vương và một bài về Lương Tương vương).

Lần đầu tiên (bài 7 - chương Lương Huệ Vương, thượng) Mạnh tử khen Tuyên vương có đủ đức để dựng nghiệp vương (tức nuôi dân và thống nhất Trung Quốc), vì biết thương loài vật, không nỡ thấy con bò sợ hãi đi qua cửa điện, vô tội mà bị đem giết để lấy máu làm lễ tôi chuông, mà bảo kẻ tả hữu thả nó ra. Đem lòng nhân đó với con bò mà cư xử với dân trong nước, ban bố ân huệ trong nước, thì không lí gì không dựng được nghiệp vương.

Tuyên vương mừng lắm, phục ông là thấy rõ tâm can của mình.

Rồi khi Tuyên vương thành thực nhận tật ham thanh sắc, săn bắn, Mạnh tử cũng không trách, tỏ ra rất khéo léo, bảo những ham thích đó không làm hại cho việc trị nước, trái lại có thể là cái phúc cho dân Tề nữa. Nếu nhà vua biết cho dân hưởng chung cái vui của mình (dữ bách tính đồng lạc), như cho họ cùng nghe nhạc với mình, mở cửa vườn hoa cho dân vào cắt cỏ, kiếm củi, săn trĩ, bắn thỏ; và trị nước sao cho không có thiếu nữ nào buồn duyên về nỗi không chồng, không có cậu trai nào tủi phận vì nỗi không vợ; nếu nhà vua ham thanh sắc và săn bắn theo cách đó thì dân chúng sẽ quí mến mình, dựng nghiệp vương có gì là khó. (Lương Huệ vương, hạ - bài 1, 2 và 5). Mấy bài ấy là những bài hay nhất trong bộ Mạnh Tử: Lời ôn tồn mà thấu đáo tâm lí, lí luận chặt chẽ, đôi chỗ hùng hồn.

Nhưng Tề Tuyên vương chỉ biết nghe mà không biết thực hành đạo của ông, nên lần lần ông chán, giọng lại hóa ra gay gắt. Như trong bài 6, Lương Huệ vương, hạ, ông hỏi dồn Tuyên vương một hơi:

- Ví dụ có người bề tôi của nhà vua, nhờ bạn trông nom giùm vợ con mình, qua chơi nước Sở, khi về thấy bạn để cho vợ con mình đói rét, thì người đó nên xử trí ra sao?

Tuyên vương đáp:

- Nên tuyệt giao với người bạn ấy.

- Lại ví dụ có một quan sĩ sư (quan đầu ti hình pháp) mà không cai quản nổi những người dưới quyền mình thì nên xử trí ra sao?

- Nên cách chức đi.

- Lại ví dụ có một ông vua để cho nước rối loạn thì nên xử trí cách nào?

Tuyên vương ngượng, ngó qua bên tả bên hữu, nói lảng sang chuyện khác.

Có lẽ từ đó Tuyên vương không muốn gặp ông nữa. Một hôm ông sửa soạn vào triều yết kiến nhà vua thì một sứ giả tới cho hay nhà vua bị cảm hàn, muốn lại thăm ông mà không được, hôm sau sẽ họp triều, mong được ông tới. Mạnh tử biết nhà vua không thành thực, đáp rằng ông cũng đau, hôm sau sẽ không vào triều được. Và hôm sau ông đi thăm một người bạn. Vừa ra khỏi nhà thì sứ giả dắt một ngự y tới để săn sóc cho ông. Cháu của Mạnh tử tiếp sứ giả phải nói dối rằng bệnh ông đã bớt, ông đã đi vào triều rồi, và tức tốc sai mấy người nhà đi kiếm ông, xin ông vào triều ngay đi.

Nhưng ông cứ thản nhiên, không thèm vào triều, tối đó ngủ lại ở nhà người bạn (Công tôn Sửu, hạ - bài 2).

Thấy đạo của mình cũng không thi hành được ở Tề, ông định tâm bỏ đi. Tuyên vương hay ý đó, lại thăm ông và sai người thuyết phục ông ở lại, ông không nghe. Nhà vua còn muốn dựng một học viện, đón ông lại đó dạy đạo lí, cấp cho ông mỗi năm mười ngàn chung thóc để nuôi học trò, như vậy cho mọi người trong nước, từ các quan đại phu với thường dân, có một bực thầy để ngưỡng mộ và noi gương. Mạnh tử cũng không chịu, nhất định bỏ đi.

Tuy nhiên, khi ra khỏi kinh đô Tề rồi, ông có ý nấn ná, dừng chân ở ấp Trú ba ngày, mong Tuyên vương đổi ý mà triệu ông trở lại. Ông kể lể tâm sự với một môn sinh là Cao tử:

- Thầy đã đi ba ngàn dặm, đến hội ngộ với nhà vua (là để giúp vua trong việc trị nước bình thiên hạ). Nay nhà vua không biết dùng thầy thì thầy mới ra đi, chứ đâu có muốn vậy. Thầy dừng chân ở ấp Trú ba ngày là mong nhà vua triệu thầy ở lại. Khi không thấy nhà vua triệu lại, thầy mới quyết tâm về quê nhà (...) Nếu nhà vua biết dùng thầy thì thầy sẽ làm cho dân nước Tề được an cư lạc nghiệp, mà toàn dân trong thiên hạ cũng được vui cảnh thái bình nữa.

Ông có vẻ rầu rầu, nói một đệ tử khác là Sung Ngu:

- Trời chưa muốn cho thiên hạ được bình trị.

Nếu muốn thì ở thời này ngoài ta ra còn ai giúp được? Được vậy thì ta mừng lắm chứ.

Tâm trạng ông lúc đó cũng như tâm trạng Khổng tử khi không còn hành đạo ở nước Lỗ được nữa mà phải bịn rịn bỏ đi.

Trong số các vua chư hầu, người trung thành, tin ông nhất là Đằng Văn công. Trong bộ Mạnh Tử có bảy bài chép những lời ông khuyên Văn công.

Đằng là một nước nhỏ xíu (theo Liu Wu Chi, chỉ rộng mười sáu cây số vuông), ở vào giữa hai nước mạnh lớn: Tề và Sở, cho nên bị cái cảnh như trên đe dưới búa. Cổ nhân đã có bài thơ vịnh nước Đằng như sau:

Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhoi,

Lại thêm Tề, Sở ép hai bên

Quay đầu về Sở, e Tề giận.

Ngửa mặt sang Tề, sợ Sở ghen.

Chính vì ở tình thế khó xử đó, nên vua Đằng cần được Mạnh tử chỉ bảo. Ngay từ hồi trẻ còn là thế tử, Đằng Văn công đã ngưỡng mộ Mạnh tử, có lần nhân qua Sở, đi ngang qua nước Tống, lại thăm ông, nghe ông giảng về tính thiện và đạo của Nghiêu, Thuấn. Rồi khi ở Sở về, lại ghé thăm ông nữa. Lần này ông ngờ thế tử chưa tin hẳn lời ông giảng lần trước, nên dẫn lời của Nhan Hồi, môn đệ Khổng tử: “Ông Thuấn là người gì? Ta là người gì? Nếu ta gắng sức làm điều thiện thì cũng như ông Thuấn.” Vậy thế tử chịu thi hành nhân chính, thì cũng sẽ lập được sự nghiệp Nghiêu, Thuấn. Nước Đằng tuy nhỏ, bớt bề dài phụ cho bề ngang, được mười lăm dặm[3] nhưng thi hành nhân chính thì cũng thành một nước tốt.

Thế tử mừng và tin ông lắm, cho nên khi vua cha là Định công mất, thế tử nhờ sư phó của mình là Nhiễm Hữu lại nước Trâu hỏi Mạnh tử về tang chế. Mạnh tử khen lòng hiếu của thế tử và khuyên cử tang ba năm, trong thời gian đó, bận áo sô gai, ăn cháo đạm bạc, theo tục lệ các đời Hạ, Ân và Chu. Nhưng bậc cha anh trong họ và các quan trong triều phản đối, bảo Đằng không hề có tục ấy, cứ theo tang chế của Đằng, đừng nên sửa đổi.

Nhiễm Hữu phải hỏi lại Mạnh tử một lần nữa.

Mạnh tử giữ vững chủ trương của mình, dẫn lời của Khổng tử và bảo người bề trên như gió, kẻ dưới như cỏ, gió lướt tới đâu, cỏ rạp tới đó, hễ mình nêu gương cho dân thì dân tất theo. (Quân tử chi đức phong dã, tiểu nhân chi đức thảo dã, thảo thượng chi phong tất yểu).

君子之德風也,小人之德草也,草上之風必偃。

Thế tử nghe lời, bỏ cung điện, ra ở lều tranh trong năm tháng, mọi việc nước đều giao phó cho quan trủng tể; đến khi tống táng vua, các vua chư hầu đến điếu, dân chúng bốn phương trong nước đều tới coi, thấy thế tử dung nhan tiều tụy, khóc lóc thảm thương ai nấy đều phục lòng chí hiếu của thế tử (Đằng Văn công, thượng - bài 2).

Ít năm sau, Đằng Văn công vời Mạnh tử tới triều để hỏi về việc nước:

- Đằng là nước nhỏ, bị ép ở giữa Tề và Sở, vậy nên thờ Tề hay thờ Sở?

Mạnh tử đáp:

- Mưu ấy tôi chưa tính tới. Nhưng nếu nhà vua không muốn hàng phục thì cứ đào hào chung quanh thành cho thật sâu rộng, xây thành quách cho thật cao dày, rồi nhà vua cùng với dân chúng ra sức chống giữ, dân chúng sẽ liều chết chứ không chạy đâu. (Lương Huệ vương, hạ - bài 13).

Lần khác Văn công thấy Tề đã chiếm nước Tiết, đào hào xây lũy ở đấy, đâm hoảng, hỏi Mạnh tử cách đối phó.

Mạnh tử không biết đáp sao, chỉ bảo thời xưa vua Thái vương còn ở đất Mân, bị rợ Địch xâm lấn, không chống cự được bèn bỏ đất Mân mà đến ở chân núi Kì. Đằng Văn công cứ làm điều thiện đi, đời sau con cháu sẽ có người lập được nghiệp vương mà thống trị thiên hạ. (Cứ gắng làm điều thiện đi, như vậy đủ rồi.” (Cưỡng vi thiện nhi dĩ hĩ). (Lương Huệ vương, hạ - bài 14). Bỏ nước Đằng cho Tề chiếm thì trốn đi đâu? Lời khuyên đó thật mơ hồ không thực tế, không thuyết phục nổi Đằng Văn công.

Cho nên lần khác, Văn công lại hỏi:

- Đằng là nước nhỏ, hết sức thờ nước lớn mà cũng không được yên, phải làm sao bây giờ?

Mạnh tử không có ý kiến gì khác, lại đem việc vua Thái vương nước Mân thời trước ra giảng, và kết luận: chỉ có hai cách, một là cùng với dân liều chết mà giữ thành; hai là bỏ nước mà đi sống nơi khác, dân sẽ đi theo. (Lương Huệ vương, hạ - bài 15).

Thực ra, ai ở vào địa vị ông, cũng không có cách nào trả lời khác được. Ở vào thời Chiến Quốc, một nước như nước Đằng không sao tồn tại lâu được, sớm muộn gì cũng bị Tề hoặc Sở thôn tính, chắc Mạnh tử cũng đã hiểu lẽ đó, nên buổi hội kiến đầu tiên, ông chỉ bảo Đằng có thể thành một nước tốt, chứ không bảo thành một nước mạnh, thống nhất được Trung Quốc. Sở dĩ ông nhận lời mời của Văn công mà qua Đằng là để khỏi phụ lòng ngưỡng mộ của nhà vua, chứ không mong gì Đằng lập được nghiệp vương. Văn công còn trẻ, ngây thơ, quá tin ở thuyết của ông, tưởng đâu có thể theo lời dạy bảo của ông mà giữ vững được xã tắc.

Thật là chua chát cho Văn công: thành tâm theo đạo Nghiêu, Thuấn mà không được; mà cũng buồn cho Mạnh tử: ông vua một nước phú cường như Tề Tuyên vương thì không nghe lời ông, chỉ muốn coi ông như một vật trang sức cho triều đình; còn người tin ông, chịu theo đạo ông, như Đằng Văn công thì lại làm chủ một nước nhỏ quá, lo bảo vệ giang sơn không xong. Rốt cuộc, về chính trị ông còn thất bại hơn Khổng tử; ông sớm biết vậy nên khoảng sáu mươi tuổi trở về quê nhà chuyên dạy học và viết sách như Khổng tử.

Chú thích:

[1] Theo bài Tần I.2 trong cuốn Chiến Quốc Sách do hai cụ GC và NHL dịch và giới thiệu thì Tô Tần tiêu hết “trăm cân vàng” (nguyên văn: 黃金百斤 hoàng kim bách cân), tức tiêu hết 1.600 lượng. (Goldfish).

[2] Theo Liu Wu Chi, sách đã dẫn, trang 61.

[3] Mỗi dặm thời đó khoảng 600 mét. 15 dặm khoảng 9 cây số: mỗi chiều 9 cây số tức là khoảng 80 cây số vuông. Con số này có phần đáng tin hơn con số của Liu Wu Chi.