← Quay lại trang sách

Chương 9 TƯ CÁCH VÀ TÀI NĂNG MẠNH TỬ

Tính tình và tư cách

Nhiệt tâm cứu đời của Khổng tử và Mạnh tử ngang nhau: cả hai đều dắt một đám môn sinh, bôn ba nhiều nước chư hầu mấy chục năm tìm một ông vua chịu thi hành đạo của mình; nhưng Khổng tử ngoài năm chục tuổi còn được làm đại tư khấu bốn năm rồi nhiếp tướng sự (gần như tướng quốc) nước Lỗ, còn Mạnh tử trước sau chỉ lãnh chức khách khanh, như cố vấn, không được cầm quyền một lần nào cả. Nguyên do tại thời Mạnh tử đã loạn hơn thời Không tử, nhưng cũng tại tính tình nghiêm khắc, có thể nói là cố chấp của Mạnh tử nữa.

Khổng tử tính tình khoan hòa, chịu chiều đời một chút, như lần ông vào chào nàng Nam tử, vợ vua Linh công nước Vệ, có tiếng là dâm đãng, vì theo tục lệ Vệ, ai muốn làm quan cũng phải ra mắt vợ vua. Môn sinh của ông là Tử Lộ, cương trực mà nóng nảy, tỏ vẻ bất bình, khiến ông phải thề: “Nếu ta có làm điều gì không phải thì trời hại ta! Trời hại ta!” (Luận ngữ - Ung dã - bài 26).

Nhà cầm quyền nào muốn vời ông giúp sức thì chẳng cần biết người đó có đức hay không, ông cũng sẵn sàng tới, như lần ông định đến với Phất Nhiễu, một người gia thần phản lại chủ, ở nước Lỗ. Tử Lộ cũng lại bất bình nữa, xẵng giọng, bảo: “Chẳng cần đi đâu nữa!” Ông đáp: Người ta vời mình, tất có cớ chính đáng. Nếu người ta muốn dùng thầy thì thầy chẳng làm cho đời Đông Chu hưng vượng ngay ở nước Lỗ này ư?” Nhưng rồi ông cũng nghe lời của Tử Lộ mà không đi. (Luận ngữ - Dương Hóa - bài 5).

Lần khác, ở nước Tống, ông cũng muốn lại giúp Phật Bật vì được y vời. Tử Lộ cũng lại can, vì Phật Bật là một phản thần. Ông đáp: “Vật gì thật cứng thì mài mấy nó cũng chẳng mòn; vật gì thật trắng thì nhuộm cách mấy nó cũng chẳng đen. Thầy há như trái bầu chỉ để treo mà ngắm chứ chẳng ăn sao?”. Nói vậy nhưng rồi ông cũng không đi. (Luận ngữ - Dương Hóa - bài 7).

Mạnh tử trái lại là một người giữ đúng qui tắc, không chịu thỏa hiệp, khiến cho một môn sinh là Công tôn Sửu trách nhẹ ông:

“- Đạo của thầy thật cao, thật đẹp, nhưng ai theo đạo của thầy thì tựa như lên trời, đi mãi chẳng tới. Sao thầy chẳng làm cho đạo vừa sức người, để giúp thiên hạ có thể chăm chỉ học tập hằng ngày được?”

Ông đáp:

- Người thợ khéo không vì người thợ vụng mà bỏ lằn dây lằn mực được. Tay thiện xạ không vì kẻ bắn dở mà thay đổi cách giương cung. Người quân tử (...) giữ trung đạo, ai có sức thì theo”. (Quân tử… trung đạo nhi lập, năng giả tòng chi - Tận tâm, thượng - bài 41).

君子...中道而立,能者從之。

Nghĩa là ông cứ theo đúng nguyên tắc, không vì người đời mà hạ thấp đạo của ông xuống. Ông không vì lẽ cứu đời mà “uổng xích nhi trực tầm”, đi yết kiến các vua chư hầu, khi họ không vời ông, nên một môn đề là Trần Đại có lần thưa với ông:

“Mình không tự ý đến yết kiến các vua chư hầu, như vậy cơ hồ như thầy câu chấp tiểu tiết. Nếu thầy chịu đi thăm họ, gặp người có chí lớn, thầy có thể giúp họ làm nên nghiệp vương, gặp người có chí nhỏ, thì có thể giúp họ nên nghiệp bá. Sách Chí đời xưa có câu: “Uổng xích nhi trực tầm”, con nghĩ rằng thầy có thể theo lời đó được”.

Thời đó bọn biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Tuy, tới kinh đô các nước, chầu chực, đút lót để được vào yết kiến các vua chúa mà trình bày mưu mô của mình, và được trọng dụng, người nào cũng làm tướng quốc, riêng Tô Tần được làm “tung trưởng”, điều khiển liên minh hợp tung của sáu nước để chống lại Tần. Mạnh tử trái lại, giữ vững tư cách, có vua nào vời thì mới tới, cho nên Trần Đại mới dẫn lời cổ nhân để ông xét lại thái độ của mình. “Uổng xích nhi trực tầm” nghĩa đen là “chịu cong một thước mà ngay thẳng được một tầm - tức mười thước”, nghĩa bóng là chịu khuất thân tạm thời để phát triển được sự nghiệp.

Mạnh tử đáp:

“- Câu “uổng xích nhi trực tầm” là nói về lợi. Nếu (không xét về đạo) chỉ nghĩ tới lợi thôi thì “uổng tầm nhi trực xích” cũng làm hay sao?”.

Rồi ông kể chuyện Vương Lương, một người đánh xe giỏi của nước Tống không chịu đánh xe hầu một sủng thần là Bế Hề đi săn vì Bế Hề không biết bắn, mà đáp vua Tống:

“Kinh Thi chép rằng: “Kẻ đánh xe thì cầm cương cho đúng phép, người bắn cung hễ buông tên là trúng đích”. Tôi không quen đánh xe hầu kẻ tiểu nhân bất tài. Tôi xin từ.” Và Mạnh tử kết:

“Kẻ đánh xe mà còn biết hổ thẹn, không chịu bỏ phép cầm cương để chiều ý người đi săn (...) huống hồ người quân tử lại chịu làm cong cái đạo của mình để theo vua chư hầu hay sao? Anh lầm rồi, thầy chưa thấy ai khuất thân khom lưng mà sửa ngay cho người khác được bao giờ”. (Ngự giả thả tu dữ xạ giả tỉ... như uổng đạo nhi tòng bỉ, hà dã? Thả tử quá hĩ; uổng kỉ giả vị hữu năng trực nhân giả dã - Đằng Văn công, hạ - bài l).

御者且羞與射者比... 如枉道而從彼,何也?且子過矣;枉己者未有能直人者也。

Đến môn sinh còn không hiểu ông thì người ngoài làm sao không trách ông.

Bài 17, Li Lâu, thượng, chép: Thuần Vu Khôn, một nhà biện thuyết nổi danh nước Tề, hỏi ông:

- Theo lễ thì trai gái không được truyền tay mà trao đồ cho nhau, phải không?

Ông đáp:

- Như vậy là lễ đấy.

- Ví dụ một người chị dâu sắp chết đuối, mình có nên đưa tay ra vớt không?

- Chị dâu sắp chết đuối mà mình không đưa tay ra cứu vớt thì quả là loài sài lang rồi. Trai gái không truyền tay nhau mà trao đồ, đó là lễ thường. Chị dâu sắp chết đuối, đưa tay ra cứu vớt là phép quyền biến”...

Mạnh tử trả lời như vậy đúng lắm, nhưng không ngờ bị mắc bẫy. Thuần Vu Khôn hỏi:

“- Hiện nay thiên hạ đương chìm đắm, sao ông không đưa tay ra cứu vớt?”.

Mạnh tử bối rối nhưng nhanh trí, trả lời gượng được bằng câu này: “Thiên hạ chìm đắm, phải cứu vớt bằng đạo, chị dâu sắp chết đuối thì cứu vớt bằng tay. Ông muốn tôi cứu vớt thiên hạ bằng tay sao?”

Một lần khác, Thuần Vu Khôn chê thẳng Mạnh tử là bất tài vì chẳng giúp gì được cho thiên hạ:

“Khôn này chưa từng thấy người tài đức mà chẳng nên sự nghiệp bao giờ. Cho nên hiện nay trong thiên hạ không có bậc hiền giả, nếu có thì Khôn này đã biết”.

Mạnh tử không trả lời thẳng chỉ dẫn truyện Khổng tử bỏ nước Lỗ vì không được vua Lỗ theo lời, rồi kết luận: “Kẻ thường nhân chẳng biết được việc làm của người quân tủ”. (Cáo tử, hạ - bài 6). Ông mắng Thuần Vu Khôn là tiểu nhân, không thèm giảng giải cho nghe nữa. Thuần Vu Khôn chắc cũng ngượng.

Có thái độ cương quyết giữ nguyên tắc, không chịu thỏa hiệp như vậy nên Mạnh tử chỉ được các vua chúa kính trọng thôi chứ không thực tâm dùng.

Ông chua xót trách Tề Tuyên vương:

“Có người hồi nhỏ học đạo (trị quốc) của thánh hiền, lớn lên mong muốn thi hành sở học của mình. Nhưng nhà vua lại bảo: “Khoan, hãy để qua một bên sở học của ngươi mà làm theo ý ta đã”. Như vậy mới làm sao?

“Nay nhà vua có một hạt ngọc chưa mài, dù đáng một vạn dật, thì cũng giao cho thợ ngọc giũa mài. Đến việc trị quốc thì nhà vua lại bảo: “Khoan, hãy để qua một bên sở học của ngươi mà làm theo ý ta đã”. Sao hành động lại khác khi giao ngọc cho thợ giũa mài?”.

(Phù nhân ấu nhi học chi, tráng nhi dục hành chi. Vương viết: Cô, xả nhữ sở học nhi tòng ngã”, tắc hà như? Kim hữu phác ngọc ư thử tuy vạn dật, tất sử ngọc nhân điêu trác chi. Chí ư trị quốc gia tắc viết: Cô xả nhữ sở học nhi tòng ngã. Tắc hà dĩ dị ư giáo ngọc nhân điêu trác ngọc tai? - Lương Huệ vương, hạ - bài 9).

夫人幼而學之,壯而欲行之。王曰:姑,舍女所學而從我,則何如?今有璞玉於此,雖萬鎰,必使玉人雕琢之。至於治國家則曰:姑舍女所學而從我,則何以異於教玉人雕琢玉哉?

Nét nổi bật thứ nhì của Mạnh tử là thái độ hiên ngang. Ông đã khéo luyện cái “khí hạo nhiên” của ông, bảo thà chết đói chứ không chịu nhận món ăn phi lễ (Cáo tử, thượng - bài 10). Ông coi bọn vận động sái đạo để ra làm quan là đê tiện cũng như con trai con gái dùi lỗ để nhìn nhau, vượt tường để theo nhau. (Đằng Văn công, hạ - bài 3).

Trong chương V, tôi đã nói ông cho rằng các vua chúa có bổn phận phải nuôi ông và cả bọn tùy tùng có tới vài trăm người của ông chỉ vì lẽ ông là một người giữ đạo nhân, nghĩa của thánh hiền mà làm gương cho người trong nước! Có việc cần tiền, nhà vua tặng ông thì ông nhận; nếu không có việc gì cả thì dù là một trăm dật vàng ông cũng từ chối vì như vậy là người ta muốn mua chuộc chứ không phải giúp đỡ ông. Hơn nữa, ông muốn nhà vua phải trọng ông như bậc thầy (Vạn Chương, hạ - bài 7).

Ông nhắc cái gương vua Nghiêu đãi ông Thuấn:

“Xưa kia, vua Nghiêu đãi ông Thuấn, sai chín người con trai theo phụng sự ông Thuấn, và hai người con gái nâng khăn sửa túi ông Thuấn. Khi ông Thuấn còn cày cấy giữa đồng, vua Nghiêu cho bách quan ra hầu hạ, cung cấp đủ mọi vật: bò, cừu, lúa thóc trong kho lẫm. Sau đó, cử ông Thuấn lên chức vị cao nhất. Cho nên có người bảo đó là cách các vua chúa tôn trọng người hiền”.

Ông không những không sợ hạng “đại nhân”, tức như ngày nay ta gọi là hạng “cụ lớn”, mà còn khinh họ nữa:

“Khi mình giảng giải với hạng đại nhân thì mình đừng nghĩ tới địa vị của họ, đừng nhìn cái cảnh cao sang vòi vọi của họ. Nếu ta đắc chí (được ở địa vi cao thì ta chẳng xây cất cung đường cao đến mấy nhẫn (mỗi nhẫn là tám thước), dựng những đòn tay đầu rộng đến mấy thước; nếu ta đắc chí thì chẳng bày bàn ăn vuông vức một trượng, chẳng dùng mấy trăm mĩ thiếp hầu hạ; nếu ta đắc chí thì chẳng miệt mài xong tiệc rượu, chẳng phóng ngựa săn thú bắn chim, có cả ngàn cỗ xe theo hầu đằng sau. Những cái họ làm, ta sẽ không làm. Những cái ta làm thì nhất thiết đều theo chế độ tốt đẹp thời xưa. Như vậy thì ta sợ gì bọn đại nhân?” (Tận tâm, hạ - bài 34).

Có lần vua Tề vời ông vào triều, ông thấy nhà vua có vẻ không thành thực với mình, ông không thèm vào mà lại đi thăm một người bạn là Cảnh Sửu. Cảnh Sửu trách ông là bất kính đối với vua, ông đáp: “Khắp nước Tề, ngoài tôi ra, không ai đem đạo lí vua Nghiêu, vua Thuấn mà tâu bày với nhà vua, như vậy thì không ai kính vua bằng tôi đấy chứ”.

Cảnh Sửu lại bảo ông đáng trách ở chỗ vua vời mà không tới. Ông đáp: “Ngày xưa ông Y Doãn là bề tôi mà vua Thành Thang chẳng dám đòi, ông Quản Trọng là một viên quan mà vua Tề Hoàn công chẳng dám triệu. Ông Quản Trọng mà vua chẳng dám triệu, huống hồ một người (như ông) chẳng thèm làm như Quản Trọng ư?” (Công Tôn Sửu, hạ - bài 2).

Nghĩa là ông bảo chính vua Tề mới bất kính đối với ông. Ông coi vua chúa không ra gì cả vì vua chỉ có tước vị, mà ông thì có đạo đức, tức cái mà thiên hạ tôn trọng hơn hết, có ích cho đời nhất.

Suốt lịch sử Trung Hoa, Mạnh tử là người áo vải đầu tiên và có lẽ duy nhất dám mạt sát tất cả các vua chúa đương thời, lại mắng thẳng vào mặt hai ba ông vua, mà họ chỉ xấu hổ chứ chẳng dám đáp lại, chứ đừng nói là trừng trị.

Ông mắng chung các vua chư hầu là hiếu chiến, “cho đất đai ăn thịt dân, tội đáng chết”. (Li Lâu, thượng - bài 14); là “lưu, liên, hoang, vong”, ham tiệc tùng, săn bắn làm cho dân phải nhịn ăn, phải hầu hạ vua quan, không được nghỉ ngơi. (Lương Huệ vương, hạ - bài 4).

Lương Huệ vương bị ông vạch tội là giết dân rồi đổ lỗi cho sự mất mùa:

“Vua để cho loài chó, heo ăn hết đồ ăn của dân mà chẳng biết ngăn cấm; trên đường đầy những kẻ chết đói mà không xuất lúa phát chẩn cho dân. Dân chết, vua nói rằng: Chẳng phải tại ta, tại mất mùa đấy. Như vậy có khác nào đâm người cho tới chết rồi bảo: “Chẳng phải tại ta, tại mũi dao đấy!” (Lương huệ vương, thượng - bài 3).

Bài kế đó, Mạnh tử còn nặng lời hơn nữa, bảo Lương Huệ vương đã khiến cho loài thú ăn thịt dân vì trong bếp nhà vua có thịt béo, trong tàu có ngựa mập mà dân không có gì ăn, trong đồng la liệt kẻ chết đói.

Tề Tuyên vương, ngay buổi đầu, đã bị ông trách là bẫy dân vì vườn của nhà vua rộng bốn chục dặm, hễ người dân nào giết một con hươu trong vườn thì bị xử như phạm tội giết người (Lương Huệ vương, hạ bài 2).

Lần khác, ông làm cho Tề Tuyên vương mắc cỡ.

Ông đưa ra hai thí dụ: một người đi xa, giao vợ con cho bạn thân săn sóc, mà bạn để cho vợ con mình đói lạnh, một ông quan coi hình pháp không làm tròn nhiệm vụ, hỏi nhà vua nên xử trí ra sao, nhà vua đáp nên tuyệt giao với người bạn, và cách chức viên quan. Rồi ông hỏi tiếp: “Thế, một ông vua để cho trong nước loạn thì nên xử trí cách nào?” Tề Tuyên vương ngó qua bên phải bên trái rồi nói lảng sang truyện khác.

Cũng vua Tề đó phải kinh sợ, biến sắc khi ông bảo rằng các quan khanh trong tôn thất có bổn phận họp triều đình và tôn tộc để truất một ông vua phạm tội lớn, và tôn một người khác trong họ lên thay.

Khắp thế giới, trừ Diogène, không có một triết gia nào tư cách hiên ngang như vậy, thực là một bậc đại trượng phu “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Tôi không hiểu từ đời Hán Vũ đế, Nho giáo được độc tôn, các ông vua đọc những đoạn đó trong Mạnh Tử có thất sắc không, còn các ông lớn khi vinh thân phì gia rồi, có bao giờ nhớ những bài họ học thuộc lòng ấy khi còn là một thư sinh không?

Tài năng

Trong bộ Nho Giáo, quyển thượng, Trần Trọng Kim bảo: “Cái học của ông (Mạnh tử) đã rộng, cái văn của ông lại có cái anh khí làm cho lời văn rất mạnh”.

Nửa trên câu ấy chưa chắc đã đúng: bộ Mạnh Tử dẫn nhiều truyện trong kinh Thư và nhiều câu trong kinh Thi, cơ hồ ông chỉ chuyên về hai kinh đó để thành một chính trị gia xuất sắc. Nhưng nửa dưới của câu thì rất đúng: Mạnh tử quả là một nhà hùng biện có tài thuyết phục, lôi cuốn người đối thoại. Sở dĩ ông hùng biện vì như chính ông đã nói: ông không thích tranh luận, bất đắc dĩ mà phải tranh luận. Ông có một mục đích, một lí tưởng để bênh vực, ông lại có nhiều nhiệt tâm cho nên lời nói của ông luôn luôn phát ra tự đáy lòng, linh động, rất nhiều sinh khí. Ông không phải là hạng biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi, chỉ bẻm mép, nay chủ trương thế này, mai đã chủ trương ngược lại, cốt sao được bọn vua chúa tin dùng mà giao cho những quyền cao, chức trọng, nghênh ngang võng lọng ngựa xe.

Đây, ta nghe Mạnh tử nói với Tống Câu Tiễn:

- Ông thích đi du thuyết phải không? Tôi sẽ nói với ông về phép du thuyết. Người ta biết mình, hiểu mình thì mình vui vẻ, mà người ta không biết mình, không hiểu mình, thì mình cũng cứ vui vẻ.

Tống Câu Tiễn hỏi:

- Phải làm sao cho có thể vui vẻ mãi được?

- Phải tôn trọng đức hạnh, ưa thích điều nghĩa thì sẽ được vui vẻ mãi. Cho nên lúc khốn cùng chẳng làm mất cái nghĩa mà khi thành đạt thì chẳng rời cái đạo. Lúc khốn cùng không mất cái nghĩa, cho nên kẻ sĩ giữ được tiết tháo của mình, lúc thành đạt chẳng rời cái đạo cho nên dân chúng không thất vọng vì mình. Người xưa khi đắc chí (ra làm quan) thì ban ân huệ cho dân, khi bất đắc chí (ở ẩn) thì tu thân để rạng danh ở đời. Khi nghèo khổ, ở ẩn thì một mình mình giữ đạo khi hiển đạt thì giúp cho thiên hạ đều theo đạo.

(Mạnh tử vị Tống Câu Tiễn viết: Tử hiểu du hồ? Ngô ngữ tử du. Nhân tri chi, diệc hiêu hiêu; nhân bất tri chi, diệc hiêu hiêu.

Viết: Hà như tư khả dĩ hiêu hiêu hĩ?

Viết: Tôn đức, lạc nghĩa, tức khả dĩ hiêu hiêu hĩ. Cố sĩ cùng bất thất nghĩa, đạt bất li đạo. Cùng bất thất nghĩa, cố sĩ đắc kỉ yên; đạt bất li đạo, cố dân bất thất vọng yên. Cổ chi nhân đắc chí, trạch gia ư dân; bất đắc chí tu thân hiện ư thế. Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ - Tận tâm, thượng - bài 9).

孟子謂宋句踐曰:子好游乎?吾語子游。人知之,亦囂囂;人不知,亦囂囂。

曰:何如斯可以囂囂矣?

曰:尊德,樂義,則可以囂囂矣。故士窮不失義,達不離道。窮不失義,故士得己焉;達不離道,故民不失望焉。古之人得志,澤加於民;不得志修身見於世。窮則獨善其身,達則兼善天下。”

So sánh với phép du thuyết của bọn biện sĩ ta thấy khác một trời một vực. Bài Thuế nan của Hàn Phi (đời Tần Thủy Hoàng) có thể tóm tắt được hết thuật của phái đó, tức thuật dò xét ý nghĩ, tâm lí của đối phương để lấy lòng họ, chiều thị hiếu của họ, bất chấp đạo đức, nhân nghĩa:

“Du thuyết khó, nhưng không khó ở chỗ tri thức của ta đủ thuyết phục được vua chúa hay không, cũng không khó ở chỗ khẩu tài của ta phát biểu được rõ ý của ta hay không (...) mà khó ở chỗ hiểu được tâm lí đối phương để lời của ta hợp với tình ý của họ. Như đối phương nghĩ tới danh dự thanh cao mà ta đem tài lợi ra thuyết thì tất họ cho ta là bỉ lậu tư cách đê hèn, mà không dùng ta, xa lánh ta.

Nếu đối phương nghĩ tới tài lợi mà ta đem danh dự thanh cao ra thuyết thì họ cho ta là không biết mưu tính, không sát sự tình, tất không thu dụng ta (...) bậc quí nhân có điều lầm lỗi mà kẻ du thuyết đem lễ nghĩa ra bàn để chê cái ác của họ, như vậy thân sẽ nguy (...) ép buộc họ làm cái việc mà họ không làm được, ngăn cản không cho họ làm cái việc mà họ không thể không làm, như vậy, thân sẽ nguy (...) Điều cốt yếu của phép du thuyết, là tô điểm cái mà đối phương khoe khoang tự phụ và che giấu cái mà đối phương lấy làm hổ thẹn (...).

Như có kẻ nào cũng dơ dáy như họ thì nên tô điểm cho là kẻ đó không có gì thương phong bại tục; nếu có kẻ nào cũng thất bại như họ thì nên biểu minh rằng kẻ đó không hề lầm lẫn (...) Khi họ giận dữ thì đừng trái ý họ, khi biện luận thì tránh sự xung đột (...).

Rồng là một con vật thuần, có thể lấn lờn[1] mà cưỡi, nhưng dưới họng nó có những vẩy ngược dài cả thước, ai mà đụng tới thì nó sẽ giết. Bậc vua chúa cũng có những vẩy ngược, kẻ du thuyết mà biết đừng động tới những vẩy ngược của họ thì là tạm được rồi”.

Một đằng thì thanh tao, hiên ngang chỉ giữ đạo lí, vua chúa dùng mình hay không, không cần, họ tàn bạo thì cứ mắng vào mặt họ mà không sợ chết; một đằng thì đê tiện, nịnh bợ chỉ mong lấy lòng vua chúa để họ dùng mình, họ dơ dáy thì tô điểm cho đẹp, kị nhất là làm cho họ giận.

Trong bộ Cổ văn Trung Quốc (Tao Đàn - 1965) tôi đã viết: “Mạnh tử hăng hái, sôi nổi, cảm tình nồng nhiệt, khí thế hùng dũng”.

Văn của ông bao giờ cũng rõ ràng, mạch lạc, rất dễ hiểu, đọc không chán vì có nhiều vẻ: thường hùng hồn như những bài ông thuyết phục Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương ở hai chương đầu; có lúc phóng thích cay độc như đoạn ông tả Lương Tương vương khi ông mới yết kiến ra (bài 6 - vương Huệ vương, thượng), có lúc phẫn uất, mạt sát tất cả bọn cầm quyền đương thời (bài 14 - Li Lâu, thượng); có lúc nghiêm trang, hùng kính, (bài 2 - Đằng Văn công, hạ); có lúc buồn thấm thía như khi ông than rằng các vua chúa muốn ông bỏ cái sở học của ông hồi trẻ (tức đạo lí) để giúp họ thì làm sao ông theo được. Khi biện luận, “ông vừa dùng tâm lí, tình cảm, vừa dùng phương pháp lí luận, hoặc đi thẳng ngay vào vấn đề như bài thuyết Lương Huệ vương về nhân nghĩa, ở đầu bộ; hoặc vén lần lần để ta thấy cảnh ở xa, như bài thuyết Tề Tuyên vương về vương đạo (bài 7 - Lương Huệ vương, thượng); có lúc từ chỗ hư mà dựng lên cái thực, có lúc từ cái thực mà dẫn ra thành hư; có khi lại dùng lối tỉ dụ và ngụ ngôn để gây một ấn tượng mạnh trong óc ta, bắt ta phải suy nghĩ mà nhận lời của ông là đúng, như trong những đoạn ông kể chuyện người nước Tống nhớm mạ lên cho mau lớn, và chuyện người nước Tề có hai vợ (bài 33 - Li Lâu, hạ).

Bản dịch bộ Mạnh Tử lúc này chắc còn dễ kiếm, mà trong bộ Cổ văn Trung Quốc tôi đã trích dịch bốn bài để giới thiệu ít đặc điểm của văn Mạnh tử[2], nên ở đây tôi không dẫn thêm nữa, chỉ xin thưa rằng hầu hết các văn sĩ từ thời Đường trở đi, như Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Tam Tô (ba cha con Tô Tuân)... đều coi ông là bực thầy, và mỗi khi nhà nào chủ trương “phục cổ” để chống lại phong khí ủy mị, duy mĩ trên văn đàn, thì luôn luôn lấy văn ông làm mẫu mực.

Tuy nhiên, bảo văn Mạnh Tử vô cùng hay hơn văn Luận ngữ, thì chỉ là ý kiến riêng của Lâm Ngữ Đường (trong cuốn La sagesse de Confucius - Victor Attinger 1949). Lâm chủ trương văn xuôi phải tự nhiên, có góc có cạnh như lời đàm đạo giữa những nhà trí thức thì mới là hay cho nên không ưa lối văn ôn nhuận, cô đọng mà hàm súc trong Luận ngữ. Sự thực, không thể so sánh được: người nào hồi trẻ cũng thích văn Mạnh Tử, vui, dễ đọc, lôi cuốn; nhưng về già thì lại thích văn Luận ngữ, thâm thúy hơn, ý vị hơn: những bài kể tình thầy trò Khổng tử khi gặp cơn nguy cấp, hoặc khi ngồi nhàn, tỏ chí hướng của nhau, kể tâm sự với nhau, như những bài tôi đã giới thiệu trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo thơm - 1973), nhất là bài 25, chương Tiên tiến thì thú vô cùng, có cái thi vị mà Mạnh Tử tuyệt nhiên thiếu.

Khổng tử là một đại triết gia, một triết nhân, kiêm một nghệ sĩ đa cảm và nhiều khi dí dỏm, có thể là bạn thân của Lão tử nếu sống cùng thời; còn Mạnh tử là một triết gia, một chính trị gia, nhất là một chiến sĩ, không thể ngồi chung với Trang tử.

Mà chính Mạnh tử cũng vô cùng ngưỡng mộ Khổng tử, luôn luôn lấy Khổng tử làm tiêu chuẩn, bảo Khổng tử là “thánh chi thời giả dã”, là “tập đại thành” nghĩa là có đủ những đức của các bậc thánh khác mà xử sự luôn luôn hợp thời. (Vạn Chương, hạ - bài l), “từ khi có nhân loại tới nay, chưa ai bằng Không tử).

Tư cách, tài năng của Mạnh tử không bằng Khổng Tử, cho nên giá trị bộ Mạnh Tử không bằng giá trị bộ Luận ngữ. Tuy nhiên, Mạnh tử cũng xứng với danh hiệu á thánh mà đời sau tặng ông.

Mạnh tử

(372-289 trước CN.)[3]

Chú thích:

[1] Sách in là “lớn lần; tôi tạm sửa lại là “lấn lờn” theo cuốn Hàn Phi Tử (bản đăng trên Vnthuquan). Nguyên văn là 狎 (hiệp). (Goldfish).

[2] Hay nhất là bài 7 – Lương Huệ vương, thượng.

[3] Hình và lời chú có lẽ là của Nhà xuất bản vì cụ Nguyễn Hiến Lê thường viết “trước T.L.”. (Goldfish).