← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHẤT

Tôi buộc phải yêu cầu bạn đọc trở lại quãng đời mà lần đầu tiên tôi gặp hiệp sĩ đơ Griơ. Đó là vào khoảng sáu tháng trước khi tôi khởi hành đi Tây Ban Nha. Tuy ít khi ra khỏi cuộc sống cô độc của mình, đôi khi chiều theo ý con gái, tôi cũng có những chuyến đi nho nhỏ mà tôi cố rút ngắn chừng nào tốt chừng ấy.

Một hôm tôi từ Ruăng [6] trở về. Con gái tôi nhờ tôi đến đấy để xin hội đồng xử Normandie giải quyết việc thừa kế một số ruộng đất của phía ông ngoại tôi mà tôi có ý định nhượng lại cho nó. Đêm đầu, tôi nghỉ lại ở Evơrơ [7] , hôm sau tôi đến ăn trưa ở Pacy, một thị trấn cách Evơrơ khoảng năm, sáu dặm. Bước vào cái thị trấn nhỏ này, tôi ngạc nhiên thấy dân chúng hết sức nhốn nháo. Họ đổ xô ra khỏi nhà, lũ lượt kéo đến cửa một lữ điếm tồi tàn; trước cửa lữ điếm có hai chiếc xe ngựa mui bịt kín. Mấy con ngựa kéo xe, chưa được tháo ách, thở hổn hển vì mệt và nóng, chứng tỏ hai chiếc xe kia vừa mới đến. Tôi dừng lại một lát để dò hỏi do đâu có sự huyên náo đó; nhưng đám dân chúng tò mò, không chú ý gì đến các câu hỏi của tôi, lại cứ xô đẩy nhau kẻo đến trước khách sạn, chẳng làm sáng tỏ chút ít gì cho tôi cả. Cuối cùng, một viên cảnh sát, súng quàng vai, xuất hiện ở cửa. Tôi lấy tay ra hiệu cho anh ta lại gần và yêu cầu anh ta nói cho biết nguyên nhân của sự lộn xộn đó. Anh ta bảo:

– “Không có gì đâu ông ạ, đấy chỉ là một tá điếm mà tôi và các đồng sự có phận sự đưa đến cảng Lơ Havarơ đơ Graxơ [8] rồi đưa sang Mỹ. Có một vài ả khả xinh, chắc vì thế mà các bác nhà quê nhà ta mới tò mò như vậy.”

Sau lời giải thích đó, chắc là tôi đã bỏ đi nếu những lời than vãn của một bà lão từ khách sạn bước ra không buộc tôi dừng lại. Và vừa chắp tay vừa kêu lên rằng đó là một sự dã man, một điều khiến người ta ghê tởm và thương hại. Tôi hỏi bà:

- Có việc gì thế? Bà lão đáp:

- Chao ôi! Xin ông cứ vào xem rồi sẽ thấy cảnh tượng ấy thương tâm đến chừng nào!

Vì tò mò, tôi xuống ngựa, trao ngựa cho tên giám mã. Khó khăn lắm tôi mới lách qua đám đông, chen vào trong. Quả nhiên tôi nom thấy một cảnh rất xúc động. Trong số mười hai cô gái bị xích ở ngang thắt lưng, thành từng nhóm sáu cô, có một cô mà phong thái và gương mặt không phù hợp với cảnh ngộ của mình, đến mức ở vào bất cứ một hoàn cảnh nào khác, tôi sẽ cho đó là một bà mệnh phụ. Nỗi buồn và quần áo bẩn thỉu chỉ làm cô ta xấu đi chút ít thôi. Nhìn cô ta, tôi thấy kính nể và thương cảm. Dù vậy, cô ta vẫn cố tình quay mặt đi, trong chừng mực mà sợi dây xiềng cho phép, để tránh cái nhìn của đám người xem. Sự cố gắng của cô ta để giấu mình hết sức tự nhiên, dường như đó là do một tình cảm khiêm nhường nào đó. Vì cả sáu người lính áp giải đoàn người khốn khổ này đều ở cả trong phòng, nên tôi gọi riêng viên đội trưởng ra hỏi đôi điều về số phận của cô gái xinh đẹp kia. Anh ta cũng chỉ cho tôi biết một vài điều khá chung chung. Anh ta nói:

- “Chúng tôi đã lôi cô ta ra từ Nhà trừng giới [9] theo lệnh của ngài cảnh sát trưởng Paris. Không có vẻ gì là cô ta bị bắt giam nhầm vào đấy. Dọc đường, tôi đã nhiều lần hỏi cô ta về chuyện này, nhưng cô ta một mực không chịu trả lời. Nhưng dù không được lệnh nương nhẹ cô ta so với các cô kia, tôi vẫn quan tâm đôi chút đến cô ta, vì tôi thấy hình như so với các người bạn đồng hành, cô ta có giá trị hơn một tí. À đây rồi, chàng thanh niên kia có thể nói để ông hiểu rõ hơn nguyên nhân sự sa đọa của cô ta. Anh chàng đã đi theo cô ta từ Paris và lúc nào cũng khóc sướt mướt. Chắc anh ta là anh em ruột hoặc là người yêu của cô nàng”.

Tôi quay lại nhìn vào góc phòng, nơi chàng thanh niên đang ngồi. Anh chàng dường như chìm đắm trong cơn mộng. Tôi chưa hề nhìn thấy một hình ảnh sinh động hơn về nỗi khổ đau. Anh ta ăn mặc hết sức giản dị, nhưng chỉ thoáng nhìn, người ta cũng thấy ngay đó là một người có gia phong và học vấn. Tôi lại gần anh ta. Anh ta đứng dậy; từ đôi mắt, khuôn mặt và từ các cử động của anh ta, toát ra một vẻ tao nhã và cao quý đến nỗi tự nhiên tôi cảm thấy mình chỉ muốn những điều tốt lành cho anh ta. Ngồi xuống cạnh anh ta, tôi bảo:

- “Tôi không làm gì phiền hà anh đâu. Mong anh thỏa mãn sự tò mò của tôi muốn biết rõ về cô gái xinh đẹp mà tôi cho là hoàn toàn không đáng phải chịu đựng cái tình cảnh hiện nay của cô ta”.

Anh chàng thật thà trả lời rằng anh ta không thể cho tôi biết rõ cô ta mà không để lộ mình là ai, và anh ta có những lý do xác đáng để mong muốn được mai danh ẩn tích. Rồi chỉ vào những tên cảnh sát áp giải, anh ta nói tiếp:

- “Tuy nhiên, tôi xin thưa với ông rằng những thằng khốn nạn đó thừa biết rằng tôi yêu nàng với một đam mê mãnh liệt khiến tôi trở thành một kẻ khốn khổ nhất trần gian. Ở Paris, tôi đã làm mọi thứ để cho nàng được tự do. Cầu xin, mưu mẹo, rồi vũ lực đều vô ích, tôi đành chọn lấy con đường là đi theo nàng, dù cho phải đi đến cùng trời cuối đất. Tôi sẽ cùng xuống tàu với nàng, tôi sẽ sang Mỹ. Nhưng, cái điều tàn nhẫn nhất là – anh ta nói thêm về những tên áp giải – những thằng vô lại hèn nhát đó lại không cho tôi đến gần nàng. Kế hoạch của tôi là công khai tấn công chúng nó, cách Paris vài dặm. Với một món tiền lớn, tôi đã thuê được bốn người, họ hứa giúp tôi trong công cuộc đó. Những tên phản bội ấy đã bỏ tôi lại một mình, mang theo cả số tiền của tôi. Dùng vũ lực không thành, tôi đành phải hạ vũ khí. Tôi đề nghị với bọn cảnh sát áp giải là ít nhất cũng để tôi đi theo và hứa thưởng tiền cho bọn chúng. Vì hám lợi, bọn chúng đồng ý. Cứ mỗi lần cho phép tôi được tự do nói chuyện với người yêu, chúng lại bắt tôi phải trả tiền. Chẳng bao lâu tôi cạn hết tiền và bây giờ, không còn một xu dính túi, cứ mỗi khi tôi bước lại gần nàng, chúng lại dã man đẩy tôi ra. Chỉ vừa mới ban nãy, chỉ vì tôi dám tiến lại gần nàng, bất chấp những đe dọa của chúng, chúng đã ngang ngược chĩa cả súng vào người tôi. Để thỏa mãn trò ti tiện của chúng và cũng để có cái ăn mà tiếp tục đi bộ theo nàng, tôi đã phải bán con ngựa gầy từ trước đến nay tôi vẫn dùng”.

Tuy kể lại với vẻ khá bình tĩnh, anh ta đã để rơi một vài giọt nước mắt khi kết thúc câu chuyện. Đối với tôi đây là câu chuyện kỳ lạ và gây xúc động nhất. Tôi nói với anh:

- “Tôi không ép anh bộc bạch với tôi điều bí mật của anh đâu. Nhưng nếu như tôi có thể làm được điều gì có ích cho anh, tôi sẵn lòng giúp đỡ”. Anh ta nói tiếp:

- Than ôi! Tôi chẳng thấy còn chút ánh sáng hy vọng nào. Tôi đành cam chịu cái số kiếp gian nan của tôi thôi. Tôi sẽ sang Mỹ. ở đấy, ít nhất tôi cũng sẽ được tự do với người tôi yêu. Tôi đã viết thư cho một người bạn của tôi, anh ta sẽ mang đến tại Havơrơ đơ Graxơ một vài sự giúp đỡ cho tôi. Tôi chỉ lúng túng là làm sao có thể đi đến đó và làm sao cho con người tội nghiệp kia, – vừa nói anh ta vừa buồn bã nhìn người tình, – khuây khỏa đôi chút trên đường đi.

Tôi nói với anh ta:

“Thế thì tôi xin giúp anh thoát khỏi cái vòng lúng túng đó. Tôi xin anh nhận một ít tiền. Rất tiếc là không thể có cách nào khác để giúp anh”.

Tôi trao cho anh ta bốn đồng lui [10] vàng mà không cho bọn cảnh sát áp giải trông thấy, bởi vì tôi nghĩ rằng nếu bọn chúng mà biết anh ta có món tiền đó thì chúng sẽ càng bắt chẹt anh ta. Tôi còn nghĩ đến cả việc mặc cả với chúng để cho anh ta luôn được tự do nói chuyện với người tình cho tận khi đến Havơrơ. Tôi ra hiệu cho viên đội trưởng lại gần và đưa ra đề nghị với hắn. Tuy trâng tráo, hắn cũng tỏ ra đôi chút xấu hổ. Hắn lúng túng trả lời:

“Thưa ông, chẳng phải là chúng tôi từ chối không để anh ta nói chuyện với cô gái ấy, nhưng mà anh ta lúc nào cũng muốn ở gần cô ả, điều này thật là bất tiện cho chúng tôi, vì vậy anh ta phải trả giá cho sự bất tiện đó là đúng thôi!” Tôi hỏi hắn:

“Thế thì các chú cần bao nhiêu để khỏi cảm thấy sự bất tiện đó?”

Thằng cha dám đòi tôi đến những hai lui. Tôi đưa cho hắn ngay và bảo:

“Coi chừng, đừng có mà giở trò gian lận đấy, bởi vì ta sẽ để lại địa chỉ của ta cho chàng thanh niên kia để anh ta có thể thông báo lại với ta, và các chú nên biết rằng ta có thể làm cho các chú bị trừng phạt đấy.”

Như thế là tôi đã bỏ ra sáu đồng lui vàng. Sự hoan hỉ và biết ơn nồng hậu mà anh chàng trẻ tuổi chưa quen biết ấy biểu lộ ra với tôi khiến tôi càng tin rằng anh ta là con nhà gia thế và xứng đáng với sự hào phóng của tôi. Tôi nói vài lời với cô tình nhân của anh ta trước khi bước ra. Cô ta trả lời tôi với một vẻ khiêm nhường hiền dịu và duyên dáng đến nỗi khi bước ra, tôi không thể không suy nghĩ rất nhiều về cái tính chất không thể nào hiểu được của đàn bà.

Trở về với tình trạng cô đơn, tôi chẳng được thông báo gì về đoạn tiếp theo của câu chuyện trên. Hai năm trôi qua làm tôi quên bẵng nó đi cho đến khi một sự tình cờ lại làm cho tôi có cơ hội hiểu biết sâu mọi tình tiết của câu chuyện.

Tôi từ Luân Đôn đến Cale [11] cùng với anh học trò của tôi là nam tước... [12] Nếu tôi nhớ không nhầm, chúng tôi đã trọ ở khách sạn Sư tử vàng là nơi vì một vài lý do nào đó, chúng tôi phải qua một ngày và một đêm. Buổi chiều, khi thả bộ trên đường phố, tôi nhận ra chàng thanh niên mà tôi đã làm quen ở Paris. Anh ta ăn mặc khá tồi tàn và xanh xao hơn lúc tôi gặp anh ta lần đầu nhiều. Anh ta xách một cái va-li lớn, chắc là vừa mới đến thành phố này. Vì anh ta có khuôn mặt rất đẹp, rất dễ nhận, nên tôi nhận ra anh ta ngay. Tôi nói với nam tước... – “Chúng ta phải đến gặp chàng thanh niên kia”.

Anh ta mừng khôn xiết khi kịp nhận ra tôi:

- Ôi, thưa ông, – anh ta thốt lên vừa ôm hôn tay tôi. – như vậy là một lần nữa tôi lại có thể bày tỏ với ông lòng biết ơn ngàn đời của tôi.

Tôi hỏi anh ta từ đâu đến. Anh ta trả lời rằng anh ta đến đây bằng đường biển từ Havơrơ đơ Graxơ, là nơi anh ta vừa từ Mỹ về đến, mới cách đây ít lâu thôi. Tôi nói với anh ta:

- Tôi thấy hình như anh chẳng có tiền bạc gì nhiều. Hãy đến “Sư tử vàng” đi. Tôi trọ ở đấy. Một lát nữa, tôi sẽ gặp lại anh.

Tôi trở lại khách sạn ngay, nóng lòng muốn biết chi tiết về sự bất hạnh cùng những tình tiết trong chuyến đi Mỹ của anh ta. Tôi hết sức chiều chuộng anh ta, ra lệnh cho khách sạn không để anh ta thiếu thứ gì. Không chờ tôi ép anh kể cho tôi nghe câu chuyện đời anh. Anh ta nói:

- Thưa ông, ông đã đối xử với tôi cao thượng quá, đến mức tôi tự thấy mình là thằng vong ân bội nghĩa đốn mạt nếu tôi còn giấu giếm điều gì với ông. Tôi muốn kể cho ông rõ không chỉ về những nỗi khổ sở, buồn đau mà cả về những sự buông tuồng, sa ngã đáng hổ thẹn nhất của tôi. Tôi chắc rằng trong khi lên án tôi, ông cũng không thể không tỏ lòng thương xót tôi.

⚝ ✽ ⚝

Tôi xin báo trước với bạn đọc rằng tôi đã viết lại câu chuyện của anh ta ngay sau khi nghe và vì vậy, người ta có thể được đảm bảo rằng không có gì chính xác hơn, trung thực hơn, là câu chuyện kể này. Tôi nói “trung thực” cả đến trong mối quan hệ giữa những suy nghĩ và tình cảm mà chàng trai phiêu bạt đó đã thuật lại một cách có duyên nhất trần đời. Sau đây là câu chuyện của anh ta, trong đó tôi không hề chen vào một điều gì không phải là của anh ta, cho đến khi kết thúc.

⚝ ✽ ⚝

Tôi lên mười bảy tuổi và tốt nghiệp khoa triết ở Amien là nơi bố mẹ tôi, một trong những gia đình, danh giá nhất ở P..., gửi tôi đến học. Tôi sống ngoan ngoan, quy củ đến mức các thầy giáo nêu tôi làm gương cho toàn trường trung học. Không phải tôi đã có những cố gắng phi thường gì để xứng đáng với sự ngợi khen đó mà là do bản tính của tôi vốn dịu dàng và trầm tĩnh; tôi chăm học vì thích học và người ta đã xem một vài biểu hiện ghê tởm của tôi đối với thói hư tật xấu là đức hạnh. Dòng dõi của tôi, những kết quả trong học tập cùng với một vài giao tiếp bên ngoài đã làm cho tất cả những người trung thực trong thành phố biết đến và mến chuộng tôi. Tôi hoàn thành việc thực tập nói chuyện nơi công cộng, được mọi người tán thưởng đến nỗi đức giám mục có đến dự, đã khuyên tôi nên đi học để trở thành giáo phẩm, mà theo Người nói, sẽ đem lại cho tôi nhiều trọng vọng hơn là vào giáo đoàn Malte, là tổ chức mà cha mẹ tôi muốn tôi gia nhập. Hai vị đã cho tôi đeo chữ thập của Giáo đoàn với cái tên là “hiệp sĩ” đơ Griơ [13] .

Sắp đến nghỉ hè, tôi sửa soạn trở về nhà cha tôi và người đã hứa chẳng bao lâu nữa sẽ cho tôi vào đại học. Khi từ giã Amien, niềm luyến tiếc duy nhất của tôi là đã để lại đấy một người bạn mà tôi luôn gắn bó mật thiết. Anh ấy hơn tôi vài tuổi. Chúng tôi cùng lớn lên với nhau, nhưng do nhà quá nghèo nên anh ấy buộc phải vào chủng viện, và do vậy phải ở lại Amien sau tôi để tiếp tục công việc học tập phù hợp với cái nghề đó. Anh ấy có bao nhiêu là đức tốt. Rồi ông sẽ biết rõ anh ấy, qua những đức tính tốt đẹp nhất của anh ấy, trong đoạn sau của câu chuyện của tôi, nhất là qua lòng nhiệt tình và sự hào hiệp của anh ấy trong tình bạn là những thứ vượt hẳn những tấm gương nổi tiếng nhất thời xưa. Nếu như tôi nghe theo lời anh ấy, chắc là tôi sẽ luôn luôn khôn ngoan và hạnh phúc. Nếu như ít nhất, trong cái vực thẳm mà những nỗi si mê cuồng dại đã xô đẩy tôi vào, tôi biết sử dụng những lời quở trách của anh ấy, tôi cũng đã có thể cứu vãn một chút gì đó khi cả tài sản và thanh danh của tôi bị chìm sạch. Nhưng để đáp lại những khuyên răn ân cần của anh ấy, anh ấy chỉ nhận được trở lại nỗi buồn phiền khi thấy chúng đều vô ích. Đôi khi thằng bạn bội bạc là tôi lại “trả ơn” anh một cách thô lỗ, cho là mình bị xúc phạm hoặc là cho những lời khuyên can ấy quấy rầy mình.

Tôi đã quyết định ngày rời Amien. Than ôi! Sao tôi lại không định sớm hơn một ngày! Tôi đã có thể mang về cho cha tôi cả tấm lòng ngây thơ trong trắng của tôi rồi! Vào hôm trước cái ngày mà tôi định rời Amien, trong khi đi dạo với người bạn tôi, tên anh ấy là Tibecgiơ, chúng tôi thấy một đoàn xe ngựa từ Aras [14] đến và chúng tôi đi theo những chiếc xe đó cho đến lữ điếm nơi chúng đỗ lại. Cũng chỉ là do tò mò thôi. Mấy phụ nữ từ trong xe bước ra là quay vào trong ngay. Nhưng còn lại một người rất trẻ, đứng lại trong sân một mình, trong khi một người đàn ông đã đứng tuổi, chắc là người đánh xe cho nàng đang vội vàng lôi hành trang của nàng ra từ những chiếc sọt. Tôi thấy nàng xinh đẹp đến nỗi tôi, một kẻ chưa bao giờ nghĩ đến sự khác nhau giữa hai giới tính, cũng chưa hề chú ý nhìn một cô gái nào, tôi mà mọi người đều khen ngợi về sự khôn ngoan và thận trọng, bỗng thấy bùng cháy trong người một niềm hoan lạc. Tôi vốn có nhược điểm là rụt rè quá mức và dễ bối rối; nhưng không hề bị cái nhược điểm đó ngăn lại, tôi tiến lại gần ý trung nhân của lòng tôi. Tuy còn ít tuổi hơn tôi, nàng nhận những lời chào hỏi của tôi mà chẳng hề lúng túng. Tôi hỏi nàng đến Amien để làm gì và có người quen biết ở đây không? Nàng trả lời tôi với bao vẻ ngây thơ, rằng bố mẹ nàng gọi nàng đến đây là nàng trở thành nữ tu sĩ. Tình yêu chỉ mới len vào tim tôi một lát, đã làm cho tôi đủ sáng suốt để thấy rằng ý đồ đó là một ngọn đòn chí tử đánh vào khát vọng yêu đương của tôi. Tôi tìm cách nói để cho nàng hiểu thấu những tình cảm của tôi, vì nàng có kinh nghiệm hơn tôi nhiều. Dù nàng không muốn, người ta vẫn gửi nàng vào nhà tu kín, chắc là để chặn đứng cái thiên hướng muốn ăn chơi đã bộc lộ ra ở nàng, cái thiên hướng mà về sau đã gây ra bao nhiêu tai họa cho nàng và cả cho tôi. Tôi đả kích kịch liệt ý đồ độc ác của bố mẹ nàng bằng tất cả những lý lẽ mà tình yêu mới chớm và sự hùng biện học ở trường có thể gợi ra cho tôi. Nàng nghe có vẻ thờ ơ. Sau một lát yên lặng, nàng nói với tôi rằng nàng thấy trước rằng nàng sẽ đau khổ, nhưng chắc đấy là do ý Chúa, vì chẳng còn cách nào tránh được.

Vẻ hiền dịu của đôi mắt nàng, một thoáng buồn quyến rũ khi nàng nói những lời đó hay đúng hơn, chính là sự dun rủi của số phận đã khiến tôi không chút do dự khi trả lời nàng. Tôi đảm bảo với nàng rằng nếu nàng tin vào danh dự của tôi và vào tình yêu bao la mà nàng vừa nhen nhóm trong tôi, thì tôi sẽ cống hiến cả cuộc đời tôi để giải thoát nàng khỏi sự độc đoán của bố mẹ nàng và sẽ làm cho nàng sung sướng. Lắm khi nghĩ lại, không biết bao nhiêu lần tôi đã ngạc nhiên không hiểu lúc đó tôi tìm ở đâu ra bao nhiêu dũng khí và hoạt bát để diễn đạt tình cảm của mình dễ dàng đến thế, nhưng người ta đã không xem “tình yêu” là một vị thần nếu nó không tạo ra những phép mầu như vậy. Tôi còn nói thêm nhiều nữa để thúc giục nàng. Và người đẹp còn chưa quen biết ấy thấy rõ rằng ở vào lứa tuổi tôi, người ta không thể là thằng bịp bợm; nàng thổ lộ rằng nếu quả thật tôi có thể đem lại tự do cho nàng thì nàng sẽ mang một món nợ với tôi mà cả sinh mạng nàng cũng không trả được. Tôi nhắc lại với nàng rằng tôi sẵn sàng làm tất cả mọi việc; nhưng vì chưa có kinh nghiệm để có thể một lúc nghĩ ngay ra được những phương sách để giúp nàng, tôi đành phải nói những lời đảm bảo chung chung, không ích lợi gì nhiều cho nàng và cả cho tôi.

Bác xà ích Argus của nàng trở lại chỗ chúng tôi, những hy vọng của tôi cơ hồ sụp đổ nếu như nàng không nhanh trí bổ khuyết cho sự khờ khạo của tôi. Khi thấy bác xà ích vừa đi đến tôi ngạc nhiên thấy nàng gọi tôi là anh họ, và không một chút lúng túng, nàng bảo rằng vì nàng rất sung sướng gặp tôi ở Amien nên nàng hoãn ngày vào tu viện đến mai để có dịp vui được ăn tối với tôi. Tôi hiểu ngay mưu kế của nàng. Tôi đề nghị nàng đến nghỉ tạm lại một lữ điếm mà người chủ trước đây từng là xà ích của cha tôi đã dọn đến Amien và hoàn toàn tuân thủ mệnh lệnh của tôi. Tôi thân hành đưa nàng đến đó trong khi bác xà ích già hình như có ca cẩm chút ít, còn anh bạn Tibecgiơ chẳng hiểu tí gì về cái màn kịch đó, cứ lặng lẽ đi theo tôi. Anh ấy không nghe cuộc chuyện trò của chúng tôi. Trong khi tôi nói chuyện yêu đương với có bạn tình xinh đẹp của tôi thì anh ấy tản bộ ở trong sân. Vì sợ sự khôn ngoan của anh ấy, tôi đã nhờ anh ấy chạy giúp tôi một việc gì để đuổi khéo anh ấy đi. Nhờ vậy khi đến nhà trọ, tôi thú vị được một mình nói chuyện với người đã chiếm được trái tim tôi. Tôi nhận ngay ra rằng, tôi không còn là trẻ con như tôi tưởng. Trái tim tôi chan chứa vô vàn những cảm xúc thú vị mà tôi chưa hề biết. Một làn hơi nóng êm dịu lan tỏa khắp các mạch máu của tôi. Tôi như bị một thứ rung cảm si mê xâm chiếm khiến tôi không nói ra lời và chỉ có thể biểu hiện tình cảm bằng đôi mắt. Tiểu thư Manông Lexcô (nàng cho tôi biết tên nàng là vậy) tỏ ra rất hài lòng về tác động của những nét kiều diễm quyến rũ của nàng đối với tôi. Tôi thấy rằng nàng cũng cảm động chẳng kém gì tôi. Nàng thổ lộ rằng nàng thấy tôi rất dễ mến và rằng nàng sẽ rất vui thích được tôi giúp đỡ để lại được tự do. Nàng muốn biết tôi là ai và khi đã biết rồi, nàng càng tỏ ra trìu mến tôi hơn, bởi vì xuất thân từ một gia đình tầm thường, nàng cảm thấy vui sướng khi đã chinh phục được một người tình như tôi. Chúng tôi bàn với nhau về các phương sách để có thể sống chung với nhau. Sau bao nhiêu suy nghĩ, trù tính, chúng tôi thấy không có con đường nào tốt hơn là bỏ trốn. Phải đánh lừa sự cảnh giác của bác xà ích là người phải nương nhẹ, tuy bác ta chỉ là một gia nhân. Chúng tôi bàn định với nhau rằng tôi hôm ấy tôi sẽ thuê một cỗ xe trạm và sáng tinh mơ hôm sau, tôi sẽ trở lại quán trọ trước khi bác ta thức dậy, rằng chúng tôi sẽ bí mật lẻn ra đi và đến thẳng Paris rồi tại đó, khi đến nơi là chúng tôi làm lễ thành hôn ngay.

Tôi có khoảng năm mươi đồng “êquy” [15] số tiền tôi dè xẻn được, nàng có gần gấp đôi món tiền đó. Như những đứa trẻ không kinh nghiệm, chúng tôi cứ tưởng rằng món tiền đó sẽ không bao giờ cạn và chúng tôi cũng còn tin vào kết quả của những biện pháp khác nữa.

Sau khi ăn tối một cách vô cùng thỏa thích, tôi ra về để thực hiện kế hoạch. Tôi thu xếp khá dễ dàng do đã có ý định trở về nhà cha tôi ngày hôm sau, nên hành trang đã sẵn sàng. Vì vậy tôi sẽ chẳng có khó khăn gì khi sai chuyển cái rương của tôi và thuê một cỗ xe trạm sẵn sàng lên đường vào năm giờ sáng là lúc các cửa thành đã mở, nhưng tôi lại vấp phải một chướng ngại không ngờ và có cơ làm sụp đổ hoàn toàn dự định của tôi.

Anh bạn Tibecgiơ dù chỉ hơn tôi có ba tuổi, là một chàng trai chín chắn và biết cách đối nhân xử thế. Anh ấy yêu tôi với một tình thương mến lạ lùng. Thấy một cô gái xinh đẹp như cô Manông xuất hiện, sự hăng hái của tôi để đưa cô ấy đi và việc tôi cố tìm cách để thoát khỏi anh ấy đã làm anh ấy có đôi chút nghi ngờ về mối tình của tôi. Anh không dám trở lại quán trọ, nơi anh đã để tôi lại một mình vì sợ tôi phật ý; nhưng anh đã đến đợi tôi ở phòng tôi cho đến khi tôi về, lúc mười giờ đêm. Sự có mặt của anh ấy làm tôi ỉu xìu. Anh ấy dễ dàng nhận ra sự bực dọc, của tôi. Anh bảo thẳng tôi:

- Mình chắc rằng cậu đang mưu toan gì đó mà cậu giấu mình. Nhìn vẻ mặt của cậu là mình thấy ngay.

Tôi trả lời khá thô bạo rằng tôi chẳng việc gì phải báo cáo với anh ấy mọi dự định của tôi. Anh ấy bảo:

- Hẳn là thế rồi, nhưng cậu vẫn luôn luôn xem mình là bạn thân của cậu, và với tư cách đó, mình nghĩ cũng cần tin cậy và cởi mở với nhau.

Tibecgiơ thúc ép tôi phải tiết lộ điều bí mật cho anh ấy; anh nói đi nói lại mãi đến nỗi tôi đã thổ lộ với anh niềm tâm sự của tôi, vì tôi chưa hề che giấu bất cứ một điều gì với anh. Tibecgiơ tiếp nhận điều bí mật của tôi với một vẻ bất bình làm tôi run sợ. Tôi hối hận nhất là để lộ ra cho anh ấy biết dự định bỏ trốn của tôi. Anh ấy nói với tôi rằng vì là bạn quá thân thiết của tôi nên anh không thể không kiên quyết chống lại dự định đó của tôi, rằng anh ấy muốn trước hết tôi hình dung những gì mà anh ấy tin là có thể khiến tôi từ bỏ cái ý định đó; rằng sau đó nếu tôi không từ bỏ cái quyết định khốn kiếp đó, anh sẽ thông báo cho những người có khả năng chắc chắn ngăn chặn tôi lại được. Anh ấy lên lớp tôi một cách nghiêm chỉnh trong mười lăm phút, rồi dọa sẽ tố cáo tôi nếu tôi không hứa là sẽ xử sự khôn ngoan hơn, biết điều hơn. Tôi hết sức tuyệt vọng vì đã để lộ bí mật của mình một cách không đúng lúc như vậy. Tuy nhiên, trong hai ba giờ đồng hồ, tình yêu đã làm tôi tinh khôn ra rất nhiều và tôi đã chú ý ngay rằng tôi chưa để lộ với anh ấy là ý đồ của tôi sẽ được thực hiện vào ngày mai. Tôi quyết định đánh lừa anh ấy nhờ lối nói lập lờ. Tôi nói:

- “Này Tibecgiơ, cho đến nay, cậu là bạn thân của mình nên mình muốn chứng minh điều đó bằng cách thổ lộ tâm tình với cậu. Tất nhiên là mình đã yêu, mình chẳng lừa dối cậu làm gì nhưng về cái khoản bỏ trốn ấy mà, đâu phải là chuyện có thể trù tính một cách hời hợt được. Chín giờ sáng mai cậu đến đây, mình sẽ dẫn cậu đến gặp người yêu của mình để cậu thấy cô ấy có xứng đáng được mình tổ chức cuộc trốn đi không”.

Sau bao nhiêu những lời thề thốt về tình bạn, anh ấy để tôi lại một mình. Tôi thức cả đêm để thu xếp mọi thứ và khi vừa tang tảng sáng, lúc tôi đến lữ điếm của tiểu thư Manông thì đã thấy nàng đang chờ tôi. Nàng đúng bên cửa sổ, mở ra phía mặt đường, nên khi thấy tôi nàng đích thân ra mở cửa chờ tôi. Chúng tôi bước ra ngoài không một tiếng động. Nàng chẳng có hành trang gì ngoài một bọc quần áo do tự tôi mang lấy. Cỗ xe trạm đã chờ sẵn, chẳng mấy chốc chúng tôi đã rời xa thành phố Amien.

Sau này, tôi sẽ kể lại Tibecgiơ đã xử sự ra sao khi anh ấy thấy mình bị lừa. Nhiệt tình của anh ấy với tôi không vì thế mà giảm sút. Ông sẽ thấy anh ấy nhiệt tình đến mức nào và tôi phải đổ bao nhiêu là nước mắt khi nghĩ đến anh ấy đã được tôi đền đáp thế nào.

Chúng tôi hối hả đi thật nhanh và đến Xanh Đơni [16] trước khi trời tối. Tôi cỡi ngựa theo xe, nên chỉ có thể trò chuyện với nàng mỗi lần thay ngựa; nhưng khi thấy đã gần đến Paris, nghĩa là hầu như an toàn rồi, chúng tôi giải lao một lát vì chưa được ăn gì từ khi rời Amien. Dù tôi say đắm Manông tột độ, nàng cũng tìm cách thuyết phục tôi rằng nàng cũng đắm say tôi không kém. Chúng tôi không hề è dè trong việc vuốt ve tỏ tình với nhau và không thể kiên trì chờ cho đến lúc chỉ có một mình với nhau. Các bác đánh xe và những người cũng đi kinh ngạc nhìn chúng tôi và tôi nhận thấy rằng họ không hiểu sao hai đứa trẻ vào lứa tuổi chúng tôi lại có vẻ yêu nhau đến điên cuồng như vậy. Ở Xanh Đơni, những dự định về hôn lễ của chúng tôi bị quên lãng; chúng tôi bất chấp phép tắc nhà thờ và đã ăn ở với nhau như vợ chồng mà không hề lo nghĩ gì cả.

Chắc chắn rằng với bản chất hiền dịu và chung thủy của tôi, tôi sẽ sung sướng suốt đời, nếu Manông trung thành với tôi. Tôi càng hiểu rõ nàng, càng thấy nàng có những tính nết dễ thương. Trí tuệ, tâm hồn, sự hiền dịu và sắc đẹp của nàng hợp thành một sợi dây xiềng bền chắc và quyến rũ đến nỗi tôi nghĩ rằng tất cả hạnh phúc của đời tôi không bao giờ thoát khỏi sợi dây xiềng đó. Nhưng sự thay đổi mới khủng khiếp làm sao! Cái điều làm tôi tuyệt vọng lại chính là điều có thể mang hạnh phúc đến cho tôi. Tôi trở nên con người đau khổ nhất trên đời chỉ vì tôi đã kiên trì chờ đợi được hưởng một số phận ngọt ngào nhất và những phần thưởng hoàn hảo nhất của tình yêu!

Chúng tôi thuê một căn phòng có đủ đồ đạc ở Paris. Nó ở đường V... và chẳng may cho tôi, lại ở gần nhà ông M.B. một viên quan thuế vụ nổi tiếng. Ba tuần lễ trôi qua, trong khoảng thời gian đó tôi sống trong đam mê hoan lạc chẳng nghĩ gì đến gia đình, và nỗi phiền muộn của cha tôi do sự vắng mặt của tôi gây ra. Tuy nhiên, tôi không phải là kẻ trác táng và Manông cũng tỏ ra giữ gìn ý tứ; sự yên bình trong cuộc sống của chúng tôi giúp cho tôi dần dần nhớ lại bổn phận của mình. Tôi quyết tâm nếu có thể, hòa giải với cha tôi. Người yêu của tôi đáng yêu đến nỗi tôi tin chắc rằng cha tôi có thể hài lòng, nếu tôi tìm được cách làm cho người biết được sự khôn ngoan và giá trị của nàng; nói tóm lại là tôi cứ tưởng rằng cha tôi sẽ cho phép tôi cưới nàng, vì tôi không còn hy vọng có thể làm được điều đó nếu không có sự đồng ý của người.

Tôi đem ý định đó nói với Manông và làm cho nàng hiểu rằng ngoài những lý do về tình yêu và bổn phận, còn có cả lý do về tình trạng nghèo túng của chúng tôi, bởi vì vốn liếng của chúng tôi hầu như đã cạn và tôi đã bắt đầu từ bỏ cái ý nghĩ rằng món tiền đó là vô tận. Manông lạnh nhạt tiếp nhận đề nghị đó. Tuy vậy, những khó khăn mà nàng nêu lên để không tán thành, lại do là chính tấm lòng yêu thương của nàng, là dù nàng sợ sẽ mất tôi, vì nếu cha tôi không đồng ý với kế hoạch của chúng tôi mà lại biết nơi ẩn náu của chúng tôi, thì chắc chắn người ta sẽ giáng cho chúng tôi một đòn tàn nhẫn. Đối với lời phản bác của tôi về sự túng quẫn, nàng trả lời rằng cũng còn chút ít để sống qua vài tuần nữa và rồi sau đó nàng sẽ tìm ra tiền bằng cách viết thư xin một vài người bà con xưa nay vẫn quý mến nàng ở tỉnh lẻ. Nàng còn làm giảm nhẹ sự từ chối của mình bằng những cử chỉ vuốt ve êm dịu và đắm đuối đến nỗi tôi là kẻ chỉ sống vì nàng, trong nàng, và chẳng có gợn chút nghi ngờ nào đối với tấm lòng nàng, tôi đã hoan nghênh mọi câu trả lời và mọi quyết định của nàng.

Tôi đã giao cho Manông sử dụng món tiền của chúng tôi và nhiệm vụ thanh toán những món chi tiêu thông thường. Sau đó ít lâu, tôi nhận ra rằng trên bàn ăn của chúng tôi có nhiều món ăn hơn và Manông thì có thêm vài thứ trang sức rất đắt tiền. Vì tôi đã biết rõ rằng chúng tôi chỉ còn từ mười hai đến mười lăm pixtôn là nhiều, tôi bày tỏ nỗi ngạc nhiên đối với sự gia tăng rõ rệt đó. Nàng cười bảo tôi là đừng nên thắc mắc. Nàng nói:

- “Em chẳng đã hứa với anh là sẽ tìm ra tiền là gì?”

Tôi yêu nàng hết sức chất phác nên chẳng hề lo sợ tí gì.

Một hôm, tôi đi chơi vào lúc ban chiều và báo trước với nàng rằng tôi sẽ vắng mặt lâu hơn thường lệ; khi trở về, tôi ngạc nhiên vì phải đứng chờ đến hai, ba phút ở cửa. Chúng tôi chỉ có một cô gái nhỏ gần trạc tuổi chúng tôi giúp việc. Khi em nhỏ ra mở cửa, tôi hỏi em sao lại bắt tôi chờ lâu vậy. Em lúng túng trả lời tôi rằng vì không nghe tiếng gõ cửa. Tôi chỉ gõ có một lần, nên tôi nói với em: “Nếu em không nghe, làm sao em lại ra mở cửa?” Câu hỏi đó đã làm em bối rối đến mức không đủ nhanh trí để trả lời, em òa lên khóc và đảm bảo với tôi rằng đó không phải lỗi của em mà là do bà chủ đã cấm em mở cửa chính, cho đến lúc ông M.B. ra thoát theo lối cầu thang kia, thông với phòng chúng tôi. Tôi hoang mang đến nỗi không đủ sức để bước vào phòng. Tôi quyết định quay trở xuống với lý do là có công việc và tôi ra lệnh cho con bé nói lại với bà chủ là tôi sẽ quay về trong giây lát nhưng không được cho bà chủ biết là em đã nói với tôi về ông M.B.

Tôi rụng rời đến mức vừa bước xuống cầu thang vừa khóc, mà không biết do đâu mà mình rơi nước mắt. Tôi vào một quán cà phê gần nhất rồi ngồi xuống cạnh một cái bàn, gục đầu vào hai bàn tay để cố hiểu những gì đang diễn biến trong trái tim mình. Tôi không dám nhắc lại những gì tôi vừa nghe. Tôi muốn sau đó chỉ là ảo giác và đã hai, ba lần tôi định đứng dậy về nhà mà không chú ý đến cử chỉ đó của mình. Tôi thấy không thể nào Manông lại phản bội tôi, và tôi sợ sẽ sỉ nhục nàng nếu tôi nghi ngờ nàng. Tôi tôn thờ nàng, điều này là chắc chắn; tôi không đem lại cho nàng nhiều bằng chứng về tình yêu của tôi hơn là nàng đem lại cho tôi, thế thì tại sao tôi lại buộc tội nàng là không thành thật, kiên trinh bằng tôi? Nàng có lý do nào để lừa dối tôi? Chỉ mới cách đây ba giờ thôi, nàng đã nồng nàn âu yếm vuốt ve tôi và nàng cũng nhận được ở tôi sự âu yếm nồng nàn như vậy; tôi biết rõ trái tim nàng như trái tim tôi. Tôi tự nhủ:

“Không, không, không thể nào Manông lại phản bội mình. Nàng không thể không biết rằng mình chỉ sống vì nàng. Nàng biết rõ rằng mình tôn thờ nàng. Đó đâu phải là một lý do để căm ghét mình.”

Tuy nhiên cuộc viếng thăm và sự ra về lén lút của ông M.B. làm cho tôi bối rối. Tôi cũng nhớ lại những thứ lặt vặt mà Manông đã sắm được, chúng vượt quá số tiền hiện có của chúng tôi. Điều này làm người ta cảm thấy có sự hào phóng của một người tình. Nhưng còn cả lòng tin cậy của nàng đã biểu lộ với tôi về những nguồn tiền nong mà tôi không biết nữa chứ! Tôi khó khăn lắm mới đem lại cho những điều bí hiểm đó một lời giải đáp phù hợp với điều mà trái tim tôi mong đợi. Mặc khác, từ khi chúng tôi ở Paris, tôi hầu như không rời nàng một bước. Làm việc nhà, đi dạo chơi, giải trí, lúc nào chúng tôi cũng kè kè bên nhau; lạy Chúa! Một phút rời nhau có thể làm chúng tôi sầu muộn biết bao! Chúng tôi luôn luôn nói với nhau rằng chúng tôi yêu nhau, rằng không có tình yêu đó, chúng tôi sẽ chết vì khắc khoải. Vì vậy, tôi không thể nào tưởng tượng nổi rằng Manông có thể lại đi chăm sóc một kẻ nào khác, dù là trong chốc lát. Cuối cùng, tôi tưởng tìm ra được lời giải đáp cho điều bí ẩn đó. Tôi tự nhủ: “Ông M.B. là một nhà kinh doanh lớn, giao thiệp rộng; cha mẹ của Manông đã qua ông ta mà cung cấp cho nàng chút ít tiền. Chắc là nàng đã nhận tiền ở ông ta rồi và hôm nay, ông ta lại mang đến thêm. Chắc là nàng bày trò giấu tôi để làm cho tôi bị bất ngờ một cách thú vị. Có thể là nàng sẽ nói thật hết với tôi nếu tôi về nhà như thường lệ, thay vì đến đây để sầu muộn; ít nhất là nàng sẽ không giấu giếm tôi nữa khi tự tôi hỏi thẳng nàng chuyện này”.

Ý kiến đó tràn ngập trong tôi mạnh đến nỗi nó làm tiêu tan gần hết nỗi buồn của tôi. Tôi lập tức trở về nhà. Tôi âu yếm ôm hôn Manông như thường lệ. Nàng tiếp tôi rất đỗi thân thương. Trước tiên, tôi định thổ lộ với nàng những điều tôi phỏng đoán mà hơn bao giờ hết tôi thấy là chắc chắn; nhưng tôi dừng lại, với hy vọng có thể là tự nàng sẽ nói cho tôi rõ hết những gì đã xảy ra.

Bữa ăn tối dọn ra. Tôi vui vẻ ngồi vào bàn ăn nhưng nhờ có ánh sáng của cây nến đặt giữa nàng và tôi, tôi thấy trên mặt và cặp mắt của người yêu thoáng có nét buồn. Ý nghĩ đó cũng làm tôi buồn theo. Tôi nhận thấy nàng nhìn tôi chăm chú khác hơn thường lệ. Tôi không thể phân biệt được đó là tình yêu hay là lòng thương hại, dù tôi cảm thấy đó là một thứ tình cảm dịu dàng, khắc khoải. Tôi cũng chăm chú nhìn nàng như vậy và có thể qua cái nhìn của tôi, nàng cũng chẳng khó khăn gì để nhận ra tâm trạng của tôi. Chúng tôi không nói với nhau lời nào, cũng chẳng ăn uống gì. Rồi tôi thấy từ đôi mắt đẹp của nàng, những giọt nước mắt rơi xuống. Ôi những giọt nước mắt gian dối! Tôi thốt lên:

“Ôi lạy Chúa! Em khóc ư, Manông thân thương của anh! Em buồn đến phải khóc, thế mà em chẳng nói một lời nào với anh về những buồn khổ của em!”

Nàng đáp lại tôi bằng tiếng thở dài càng làm tôi thêm lo lắng. Tôi run run đứng dậy. Với tất cả sự nồng nhiệt của tình yêu, tôi thề thốt với nàng rằng tôi sẽ tìm ra lý do vì sao nàng khóc. Rồi tôi vừa khóc vừa lau nước mắt cho nàng; tôi như kẻ đã chết rồi. Đến một người dã man chắc cũng sẽ mủi lòng trước những biểu lộ của nỗi đau khổ và sợ hãi của tôi. Trong khi tôi đang để hết tâm trí lo lắng cho Manông như vậy, thì nghe tiếng động của nhiều người bước lên cầu thang. Người ta gõ nhẹ vào cửa. Manông hôn tôi, rời khỏi vòng tay tôi đang ôm nàng rồi vội vã bước vào phòng ngủ, đóng chặt cửa lại ngay. Tôi cho rằng vì đang ăn mặc lôi thôi, nàng muốn lánh mặt những người khách lạ vừa gõ cửa. Tự tôi ra mở cửa. Cửa vừa mở, tôi bị ngay bọn người, mà tôi nhận ra ngay là bọn gia nhân của cha tôi tóm lấy. Chúng không ngược đãi gì tôi; nhưng hai thằng thì giữ chặt tay tôi, còn thằng thứ ba thì khám túi áo tôi, lôi ra một con dao con, đó là vật bằng kim khí duy nhất tôi mang trong người. Chúng xin lỗi tôi vì buộc phải đối xử thiếu lễ độ đối với tôi, và đương nhiên chúng nói là chúng hành động theo lệnh của cha tôi, và ông anh cả của tôi đang chờ tôi ở dưới nhà, trong một cỗ xe ngựa. Tôi hoang mang đến nỗi tôi để chúng dẫn đi mà chẳng có chống cự và cũng chẳng nói năng gì. Quả nhiên, ông anh tôi đang chờ tôi thật. Người ta cho tôi lên xe, ngồi gần anh tôi và bác xà ích, theo lệnh anh tôi, phóng nước đại về Xanh Đơni. Anh tôi âu yếm hôn tôi nhưng không nói gì, nhờ vậy tôi tha hồ có thì giờ cần thiết để suy ngẫm đến nỗi bất hạnh của tôi.

Trước tiên, tôi thấy trong đó có bao nhiêu điều mờ ám mà bất cứ điều phỏng đoán nào cũng không rọi cho tôi chút ánh sáng. Tôi đã bị phản bội một cách tàn nhẫn. Nhưng mà kẻ nào đã phản tôi? Tôi nghĩ ngay đến Tibecgiơ. Tôi nhủ thầm: “Thằng phản bội! Mày sẽ hết đời nếu những điều nghi ngờ của tao là đúng”. Tuy vậy, tôi ngẫm ra rằng Tibecgiơ không biết chỗ ở của tôi và do đó, người ta không thể qua anh mà lần ra địa chỉ của tôi được. Buộc tội Manông là điều mà trái tim tôi không cho phép. Nỗi đau buồn kỳ lạ của nàng, những giọt lệ, cái hôn âu yếm của nàng trước khi bỏ vào phòng là một điều bí ẩn đối với tôi; nhưng tôi lại nghiêng về cách giải thích cho rằng đó là do nàng dự cảm được tai họa chung của chúng tôi và trong quãng thời gian tôi tuyệt vọng vì cái sự biến đã tách lìa tôi với nàng, tôi lại ngây thơ tưởng rằng nàng còn đáng thương hơn tôi. Kết quả của sự suy ngẫm như vậy làm cho tôi tin chắc rằng tôi đã bị một ai đó quen biết tôi, nhận ra trên đường phố Paris và đã bảo lại với cha tôi. Ý nghĩ đó an ủi tôi. Tôi tính chỉ còn phải chịu đựng những lời trách mắng hoặc một vài sự đối xử thô bạo của cha tôi nữa thôi. Tôi quyết tâm sẽ kiên trì chịu đựng và sẽ hứa làm mọi thứ mà người ta yêu cầu ở tôi để tạo cho tôi cơ hội nhanh chóng trở về Paris đem lại cho Manông thân yêu của tôi cuộc sống và niềm vui.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đến Xanh Đơni. Ngạc nhiên vì sự im lặng của tôi, anh tôi tưởng đó là do tôi sợ. Anh ấy cố an ủi tôi bằng cách đảm bảo với tôi rằng chẳng có gì phải ngại sự nghiêm khắc của cha tôi, miễn là tôi sẵn sàng trở về với bổn phận của mình và tỏ ra xứng đáng với sự thương yêu của người. Anh tôi cho tôi nghỉ đêm lại ở Xanh Đơni và cẩn thận cho ba tên gia nhân đến ngủ cùng phòng với tôi. Điều làm cho tôi đau khổ nhất là thấy mình ngủ lại ở chính cái lữ điếm mà tôi đã dừng chân cùng với Manông trên đường từ Amien đi Paris. Ông chủ và bọn gia nhân đều nhận ra tôi đồng thời cũng đoán ra sự thật của câu chuyện của tôi. Tôi nghe bọn chúng kháo với ông chủ:

“À, chính là cái anh chàng bảnh trai đã đi qua đây sáu tuần trước với một cô tiểu thư nhỏ nhắn mà anh ta yêu hết mực đó mà! Cô nàng đẹp tuyệt trần! Đôi thiếu niên tội nghiệp ấy, họ âu yếm nhau nồng nhiệt quá đỗi! Chà, chia lìa họ ra thật là đáng tiếc!”

Tôi làm ra vẻ không nghe gì hết và tìm cách lánh mặt mọi người được chừng nào tốt chừng ấy.

Ở Xanh Đơni, anh tôi có một cỗ xe ngựa hai chỗ ngồi, chúng tôi khởi hành từ sáng sớm và về đến nhà tối hôm sau. Anh tôi lên gặp cha tôi trước để thuật lại với người rằng tôi đã để dẫn về êm thấm, ngoan ngoãn như thế nào, nhờ thế tôi được cha tôi tiếp đón ít nghiêm khắc hơn là tôi tưởng. Người chỉ nói với tôi vài lời quở trách chung chung về lỗi lầm của tôi là đã vắng nhà mà không được người cho phép. Còn đối với cô tình nhân của tôi, người bảo rằng tôi xứng với những gì vừa xảy ra vì tôi đã hiến mình cho một đứa con gái chưa hề quen biết, rằng trước đây người có ý kiến tốt hơn đối với sự thận trọng của tôi, nhưng hy vọng cuộc phiêu lưu nho nhỏ này sẽ làm cho tôi khôn ra.

Tôi chỉ hiểu những lời răn dạy đó theo cái nghĩa nó phù hợp với những ý tưởng của tôi thôi. Tôi cảm ơn cha tôi đã có lòng nhân từ tha thứ cho tôi và tôi hứa với người sẽ biết phục tùng và nề nếp hơn. Nhưng từ đáy lòng, tôi thấy là mình thắng lợi bởi vì theo cái cung cách mà mọi sự được dàn xếp, tôi tin chắc rằng tôi sẽ lại được tự do để trốn khỏi nhà, ngay cả khi trời chưa tối.

Cả nhà ngồi vào bàn ăn tối. Người ta chế giễu tôi về “cuộc chinh phục” của tôi ở Amien và về việc tôi bỏ trốn với người tình “chung thủy” của tôi. Tôi vui vẻ đón nhận những lời chế giễu đó. Tôi lại còn thích thú vì được phép tán chuyện về cái điều đang luôn luôn ngự trị trong tâm trí. Nhưng một vài lời do cha tôi buột miệng nói ra đã làm tôi chú ý lắng tai nghe: cha tôi nói đến việc giúp đỡ vụ lợi và nham hiểm của ông M.B... Tôi sửng sốt khi nghe cha tôi nói ra cái tên ấy và tôi khẩn khoản xin người nói rõ hơn. Cha tôi quay lại hỏi anh tôi rằng đã kể tất cả câu chuyện cho tôi chưa? Anh tôi trả lời rằng trên đường đi, tôi tỏ ra bình thản đến nỗi anh không nghĩ rằng tôi cần đến vị thuốc đó để chữa khỏi bệnh điên dại của tôi. Tôi nhận ra rằng cha tôi lưỡng lự không biết có nên giải thích tường tận hay không. Tôi van nài hết sức khẩn khoản nên cha tôi đã thỏa mãn yêu cầu của tôi, hay đúng hơn, đã giết chết tôi một cách tàn nhẫn bằng một câu chuyện ghê tởm nhất.

Trước tiên người hỏi rằng tôi có luôn luôn thật sự tin rằng mình được yêu không? Tôi mạnh dạn đoan chắc không có gì có thể làm tôi nghi ngờ về tình yêu đó. Cha tôi cười phá lên:

“Hà! Hà! Hà! Thật là tuyệt! Anh bị lừa mới đẹp làm sao chứ! Ta thích nhìn thấy anh bị đánh lừa như thế! Ôi, anh chàng hiệp sĩ của ta ơi! Thật đáng tiếc là ta đã cho anh gia nhập giáo đoàn Malte, bởi vì anh tỏ ra có năng khiếu để làm một đức ông chồng kiên trì và dễ tính đấy.”

Cha tôi còn bồi thêm bao nhiêu lời chế giễu theo kiểu như vậy đối với điều mà người gọi là sự khờ dại và tính cả tin của tôi. Cuối cùng, vì tôi im lặng, cha tôi tiếp tục nói với tôi rằng theo sự tính toán của người về quãng thời gian từ khi tôi rời Amien thì Manông chỉ yêu tôi khoảng mười lăm ngày: “Bởi vì, cha tôi nói thêm, ta biết là anh rời Amien ngày 28 tháng trước, hôm nay là ngày 29 của tháng này, cách đây mười một ngày, lão M.B. đã viết thư cho ta, giả thiết rằng lão ta phải mất tám ngày để làm quen thân với người tình của anh, như vậy là trong số ba mươi mốt ngày, tính từ 28 tháng trước đến 29 tháng này, đã mất đi mười một cộng với tám ngày, vị chi còn là chừng mười hai ngày”.

Đến đây những trận cười lại vang lên. Tôi nghe tất cả mà đau nhói trong tim, chỉ sợ rằng mình không thể chịu đựng nổi cho đến lúc màn hài kịch đáng buồn này kết thúc. Cha tôi nói tiếp:

“Vì anh chưa biết nên nói như vậy để anh thấy rõ rằng thằng cha M.B. đã chiếm được trái tim của nàng “công chúa” của anh rồi. Hắn đã xem thường ta khi hắn ngờ đã thuyết phục được ta, tin rằng chính là do nhiệt tình giúp ta một cách vô tư mà hắn đã cuỗm mất người đẹp của anh. Từ những con người vào loại như hắn, vả lại hắn cũng chẳng quen biết gì ta, người ta lại có thể chờ đợi có được những tình cảm cao thượng đến thế sao? Qua cô tình nhân của anh, hắn biết anh là con ta, và để khỏi bị anh quấy nhiễu, hắn viết thư cho ta biết nơi ăn chốn ở cùng cách sống hoang toàng của anh và ngầm cho ta hiểu là phải có sự giúp sức mới bắt được anh. Hắn ta xin được giúp ta để tóm cổ anh một cách dễ dàng, và chính là nhờ sự chỉ dẫn của hắn và của cô tình nhân của anh, mà ông anh của anh đã tìm ra thời gian thích hợp để tóm được anh một cách bất ngờ. Bây giờ thì anh có thể tự hào về cái thời hạn chiến thắng của anh rồi đấy! Anh chàng hiệp sĩ ơi! Anh biết chiến thắng khá nhanh nhưng lại không biết gìn giữ chiến quả của mình!”

Tôi không còn đủ sức để chịu đựng lâu hơn nữa cái bài diễn văn mà mỗi lời là một lưỡi dao xuyên qua tim tôi. Tôi đứng dậy, nhưng chỉ mới bước vài bước để ra khỏi bàn ăn là tôi đã ngã vật ra sàn, ngất đi không còn biết gì nữa. Nhờ cấp cứu, tôi tỉnh lại. Tôi vừa khóc nức nở vừa thốt lên những lời kêu than buồn thảm nhất. Cha tôi vốn luôn luôn yêu tôi một cách trìu mến, ra sức khuyên giải tôi với tất cả tình thương của người. Tôi nghe người nói mà không hiểu người nói gì. Tôi quỳ xuống chắp tay van xin người để cho tôi quay trở lại Paris để đâm chết M.B. Tôi nói:

“Không, hắn không chiếm được trái tim của Manông đâu, mà hắn đã bức bách nàng, hắn đã cám dỗ nàng bằng bùa mê hay độc được, có thể hắn đã cưỡng ép nàng một cách thô bạo, Manông yêu con. Lẽ nào con lại không biết hay sao? Chắc là hắn đã cầm dao găm đe dọa nàng, buộc nàng phải từ bỏ con. Hắn còn từ một điều gì không làm để cướp mất người tình xinh đẹp đến thế của con? Lạy Chúa! Chúa ơi! Có thể nào Manông lại phản bội con và không còn yêu con nữa!”

Vì tôi cứ luôn luôn nói đến chuyện trở lại Paris và chốc chốc tôi lại nhỏm dậy để đòi đi, cha tôi thấy rõ ràng trong tâm trạng xúc động của tôi, không có gì để có thể ngăn tôi lại. Người dẫn tôi đến một căn phòng ở trên cao và cắt hai tên gia nhân canh chừng tôi. Tôi không còn tự chủ được nữa. Tôi sẵn sàng đổi một nghìn mạng sống để có được chỉ mười lăm phút ở Paris. Tôi hiểu rằng vì đã nói lộ ra ý đồ của mình như vậy, người ta sẽ không để tôi ra khỏi phòng một cách dễ dàng. Tôi đưa mắt ước lượng chiều cao từ cửa sổ xuống đất và thấy không có khả năng thoát ra được bằng lối đó, tôi năn nỉ dịu dàng với hai tên đầy tớ. Tôi nặng lời thề thốt với chúng là một ngày nào đó, tôi sẽ làm cho chúng giàu có nếu chúng đồng ý để tôi trốn đi. Tôi thúc ép, mơn trớn, đe dọa chúng, nhưng mưu toan này cũng chẳng đi đến đâu. Thế là tôi tuyệt vọng. Tôi nhất quyết chết và nằm vật ra giường với ý đồ là sẽ nằm lì ở đây cho đến lúc từ giã cõi đời.

Tôi trải qua đêm hôm đó và ngày hôm sau trong một tình trạng như vậy. Tôi từ chối không chịu ăn gì vào ngày hôm sau nữa. Cha tôi đến thăm tôi vào buổi chiều. Người nhân từ cố gắng làm tôi vợi bớt đau khổ bằng những lời khuyên giải dịu dàng nhất. Người ra lệnh cho tôi phải ăn một cái gì, kiên quyết đến nỗi tôi phải ăn chút đỉnh vì kính nể người. Một vài ngày nữa trôi qua, trong đó tôi cũng chỉ ăn qua quýt khi có mặt cha tôi để tỏ ra biết vâng lời người. Cha tôi vẫn tiếp tục cung cấp cho tôi những lý lẽ có thể làm cho tôi trở lại với lương tri và làm cho tôi khinh ghét Manông bội bạc. Quả thật là tôi không còn quý trọng nàng nữa, làm sao tôi còn có thể quý trọng một con người thay lòng đổi dạ, xấu xa đến như vậy được? Nhưng hình ảnh của nàng, những nét quyến rũ của nàng mà tôi mang trong tâm khảm vẫn luôn luôn nằm ở đấy. Tôi lại cảm thấy dễ chịu. Tôi tự nhủ:

“Ta có thể chết, ta thật đáng chết sau bao nhiêu xấu hổ và đau khổ đến vậy, nhưng ta lại có thể nếm trải một nghìn lần cái chết mà không thể nào quên được Manông bội bạc.”

Cha tôi ngạc nhiên khi thấy tôi vẫn cứ bị xúc động mạnh đến như vậy. Người biết rõ là tôi rất coi trọng danh dự và tin chắc rằng sự tráo trở của Manông không thể không làm tôi khinh bỉ nàng; người ngỡ rằng sự chung thủy của tôi trong tình yêu không phải là do sự say mê cá biệt nàng mà là do tính si tình của tôi nói chung. Người khư khư bám chặt lấy ý nghĩ đó, và một hôm, chỉ bằng vào lòng yêu thương hiền dịu của mình, người đến thổ lộ với tôi:

“Này, anh chàng hiệp sĩ, cho đến bây giờ, cha vẫn có ý để cho con gia nhập Giáo đoàn Malte, nhưng cha thấy rõ là ý hướng của con không hề nghiêng về phía ấy. Con thích những phụ nữ đẹp. Cha đồng ý tìm cho con một người mà con vừa ý. Dĩ nhiên là con hãy trình bày với cha con nghĩ thế nào về điều đó.”

Tôi trả lời với người rằng sau cái tai họa vừa đến với tôi, tôi thấy phụ nữ chẳng khác gì nhau cả, tôi đều căm ghét họ như nhau. Cha tôi vừa mỉm cười vừa nói tiếp: “Cha sẽ tìm cho con một cô giống như Manông nhưng chung thủy hơn”.

- Than ôi, nếu cha còn chút nhân từ đối với con, tôi đáp, thì chính là nàng mà con xin cha trả lại cho con. Cha ơi, con tin chắc rằng nàng không phản bội con, nàng không thể nào có thể hèn hạ một cách đen tối độc ác vậy đâu. Chính lão M.B. nham hiểm kia đã lừa dối chúng ta: cả cha, cả nàng và con. Nếu cha biết nàng hiền dịu, thành thật như thế nào, nếu cha biết rõ nàng con chắc thế nào cha cũng sẽ mến nàng.

- Con còn trẻ con lắm, cha tôi bảo, làm sao con lại có thể mù quáng đến mức như vậy sau khi cha đã kể cho con nghe câu chuyện về con nhân tình của con? Chính là nó đã nộp con cho anh con đấy. Con phải quên đến cả tên của con bé đó đi và nếu con khôn ngoan thì nên biết hưởng lấy sự độ lượng của cha.

Tôi thấy quá rõ rằng cha tôi có lý. Chính là tôi đã bênh vực cho người yêu phản trắc của tôi một cách vô ý thức. Sau một lúc im lặng, tôi nói:

“Than ôi! Rõ ràng con là nạn nhân đau khổ của một sự phản bội đê tiện nhất.” Rồi vừa nhỏ những giọt nước mắt buồn đau, tôi nói tiếp: “Vâng! Con thấy rõ con chỉ là đứa trẻ con. Sự ngây thơ cả tin của con đã khiến chúng dễ dàng đánh lừa con. Nhưng con biết rõ con phải làm gì để trả thù”.

Cha tôi muốn biết ý đồ của tôi. Tôi trả lời: “Con sẽ đi Paris, đốt nhà của lão M.B và sẽ thiêu sống hắn và cả con Manông hiểm độc”.

Nỗi giận dữ đã làm cha tôi phì cười và càng khiến người cho canh giữ tôi nghiêm ngặt hơn.

Tôi đã trôi qua sáu tháng ròng rã trong “phòng giam” của cha tôi, và trong tháng đầu tiên, chẳng có mấy thay đổi trong tâm trạng của tôi. Toàn bộ tình cảm của tôi chỉ là sự xen kẽ bất tận giữa căm giận và yêu thương, giữa thất vọng và tuyệt vọng, tùy theo những ý nghĩ của tôi về Manông. Khi thì tôi cho rằng nàng là người con gái dễ thương nhất trên đời và tôi héo hon vì muốn gặp lại nàng; khi thì tôi chỉ thấy ở nàng một con tình nhân đê tiện và nham hiểm và tôi thể là sẽ tìm gặp nàng lại cốt chỉ để trừng phạt nàng. Người ta đem sách đến cho tôi để giúp tôi tìm lại sự bình an trong tâm hồn. Tôi đọc lại tất cả những tác giả quen thuộc, tôi tiếp thu thêm nhiều kiến thức mới, tôi trở lại say mê học tập. Rồi ông sẽ thấy, về sau việc học tập đó có ích cho tôi như thế nào. Những nguồn sáng do tình yêu mang lại đã giúp tôi hiểu được rõ ràng vô khối những đoạn văn của Horaxơ và Viêcgilơ [17] mà trước đây tôi không hiểu được. Tôi viết một luận văn chuyên khảo về tình yêu trong khúc thứ tư của Ênêiđơ [18] , tôi mong nó được xuất bản và tự hào rằng chắc công chúng sẽ hài lòng. Trong khi viết luận văn đó, tôi thường than thở: “Than ôi! Nàng Didon [19] chung thủy cần có một tấm lòng như tấm lòng của ta đền đáp lại”.

Một hôm, Tibecgiơ đến thăm tôi. Tôi ngạc nhiên trước sự hoan hỉ của anh ấy khi anh ấy ôm hôn tôi. Trước đây tôi chưa hề có bằng chứng nào về tình thương của anh ấy với tôi để tôi có thể xem tình thương ấy là cái gì khác hơn thứ tình bè bạn ở trường trung học, thường xảy ra giữa những trang thanh niên gần cùng một lứa tuổi. Tôi thấy trong thời gian năm, sáu tháng qua mà tôi không gặp lại, anh ấy thay đổi và trưởng thành đến mức cả vẻ mặt và lời nói của anh ấy đều khiến tôi kính nể. Anh ấy nói với tôi như là một người cố vấn khôn ngoan hơn là như một người bạn học. Anh trách tôi đã lầm đường lạc lối. Anh khen tôi đã tỉnh ngộ, cuối cùng anh động viên tôi nên từ sai lầm của tuổi trẻ đó, nhìn rõ sự phù phiếm của những lạc thú trên đời.

Tôi ngạc nhiên nhìn anh ấy. Anh nhận ra cái nhìn ấy bèn nói với tôi:

“Chàng hiệp sĩ thân mến ơi! Mình đã nói với cậu những điều tuyệt đối đúng mà mình đã nhận chân được sau khi đã nghiêm túc thẩm tra. Mình cũng có thiên hướng thích khoái lạc không kém gì cậu đâu, nhưng đồng thời Trời lại phú cho mình tính thích đức hạnh. Mình dùng lý trí để so sánh kết quả của hai thứ đó và chẳng lâu la gì, mình đã tìm ra sự khác nhau. Sự cứu giúp của Chúa Trời đã bổ sung cho những điều suy ngẫm của mình. Mình đã chán ghét cái thế giới này không có gì sánh được. Cậu có đoán được điều gì đã giữ mình lại ở cõi trần này, đã ngăn cản mình đi ẩn dật không? Đó chỉ là do mối tình bạn thắm thiết của mình với cậu. Mình biết rõ sự tuyệt vời của trái tim và khối óc của cậu, không có điều tốt lành nào mà cậu không làm được. Chính chất độc của khoái lạc đã làm cậu đi chệch đường. Thật là một sự mất mát to lớn biết bao nhiêu cho đức hạnh! Việc cậu b?