CUỘC ĐỜI CỦA MARCO POLO
Chúng ta chỉ biết về cuộc đời của Marco Polo qua những gì ông ta đã nói trong quyển sách của ông và những gì Ramusio đưa thêm vào tác phẩm Navigationi e Viaggi (Venise 1574) và Jacopo d’Aqui viết trong Chronica libri imaginis mundi. Cần lưu ý là các chi tiết do Ramusio nêu lên có thể có những điều hoang đường hoặc viển vông nhất là trong câu chuyện cuộc trở về của ba anh em Polo ở Venise. Cuộc đời của những nhà du lịch vĩ đại thường được thêm thắt vào bằng những điều tưởng tượng có tính cách hoang đường. Riêng tôi, tôi có khuynh hướng nghĩ rằng việc trở về của Marco Polo và gia đình của ông được diễn ra trong không khí giản dị phù hợp với các tâm lý của các nhân vật hơn.
Dòng họ Polo gốc gác từ Chibenik (Sebenico) ở Dalmatie. Vì thế dòng họ ông thuộc chủng tộc Slave, giống như phần đông các dòng họ lâu đời ở Dalmatie và tên Polo mang tính cách Venise xuất phát từ một tên khác trong ngôn ngữ Dalmatie, nó có nghĩa là con quạ, ý nghĩa mà người ta có thể gán cho từ pola trong tiếng Ý, mặc dầu từ này cũng như từ đồng nghĩa mulacchia có liên quan đến từ freux (quạ mỏ hẹp) hơn là từ corneille (con quạ) (Dictionnaire d’Alberti, 1772). Đôi khi từ nguyên này được khẳng định bởi câu nói của dòng họ Polo: ba con quạ cát trên cánh đồng xanh ánh bạc.
Cho dù dòng họ Polo có nguồn gốc Slave hay không, điều chắc chắn là họ đã đến lập nghiệp ở Venise vào năm 1033 và thiết lập ở đó một dòng họ của các đại thương gia với nhiều công việc thương mại giống như đã từng có rất nhiều trong nước Cộng hòa đang làm bá chủ vùng biển Adriatique. Cho đến cuộc chinh phục Ấn Độ của Vasco de Gama, Venise là một chi nhánh thương mại bán các sản phẩm từ phương Đông; đối với giai cấp quý tộc trong vùng, lao vào việc buôn bán không có gì là mất tư cách.
Vào đầu thế kỷ XIII, một người có tên là Marco Polo, sau này có biệt danh là Il Vecchio (Người Ông), để khỏi lẫn lộn với nhà du lịch vĩ đại, sinh được ba người con trai; con cả là Andréa; tiếp theo là Nicolo hoặc Nicolao, theo những văn bản đầu tiên; và Maffeo hoặc đúng hơn là Matteo; Maffeo chỉ là do sự nhầm lẫn của các nhà ghi chép đối với chữ “t” trong các bản viết tay theo lối chữ gô tíc, chữ “t” có thể đọc thành “f’ cũng như “t”. Hơn nữa, trong tiếng Ý không bao giờ có từ Maffeo, chỉ có từ Matteo phải đọc là Matthieu. Người con cả Polo đã đi lập nghiệp ở Constantinople để giao thương với phương Đông tại đó. Để tiếp cận với các thị trường lớn của người Tacta và Ba Tư, ông đã dựng nên một chi nhánh thương mại ở Soldaya hoặc Soudak trên bờ biển phía nam Crimée hiện nay. Sự đoàn kết trong thương mại cũng như tinh thần gia tộc là nét đặc trưng của dân tộc Ý, nó khiến ông luôn liên kết với nhà mẹ ở Venise điều rất quan trọng trong lịch sử của dòng họ Polo, vì chính người con cả Polo sẽ tổ chức chuyến du lịch lần đầu tiên với hai em trai và vì thế ông sẽ là người chủ xướng những chuyến viễn du cũng như việc biên tập quyển sách vĩ đại của cháu ông là Marco.
Chính Polo ở Constantinople, bằng sự nhìn xa thấy rộng của một nhà doanh nhân Venise, đã hiểu được toàn bộ quyết định thương mại cần tận dụng từ cuộc chinh phục của người Mông cổ ở miền Tây Á. Những người mới đến Ba Tư và nước Đại Turquie (Turkestan ngày nay) đón nhận một thị trường thương mại có lợi, vì vậy họ cần phải vơ vét tối đa và càng sớm càng tốt. Vì thế ông cầu cứu đến hai người em trai là Nicolao và Matteo, những người này đã lao vào cuộc phiêu lưu với lòng gan dạ tỉnh táo và khát vọng vô song của những người đàn ông vào thời kỳ đó.
Họ khởi hành từ Venise vào năm 1250, như các bản viết tay về Marco Polo đã ghi. Năm 1255, theo niên đại lịch sử, họ đã đến Constantinople mang theo nhiều hàng hóa Venise để cho lưu hành tại chỗ, vì như chúng ta thấy, họ làm nghề buôn kim hoàn và đá quý gia công, đó là mặt hàng xuất khẩu chính của các lái buôn châu Âu đến phương Đông, cho đến thời kỳ của Tavernier và Chardin: chúng rất dễ mang và trở nên lạ lùng đối với các vị vua độc đoán của Tácta hoặc Ấn Độ, những vị vua tò mò về những thứ mới lạ xa hoa và những kẻ tích trữ không hề biết chán.
Được cung ứng mặt hàng chọn lọc không mấy giá trị, họ đến chi nhánh thương mại của anh trai ở Solđaya, nhưng chỉ lưu lại đó thời gian cần thiết để giong buồm ra khơi. Những thông tin được cung cấp cho họ khiến họ quyết định đến Saray trên sông Volga (không xa Stalingrad hiện nay bao nhiêu), nơi trú ngụ của Abarca Khan hoặc Barbai Khan, thủ lĩnh của những người Tacta ở miền Ponent, ở đó họ đã thanh toán toàn bộ vốn liếng kim hoàn với hơn một trăm phần trăm lợi nhuận (hai lần hơn giá trị thật, theo văn bản).
Có thể họ không dừng lại ở công việc làm ăn này và họ đã theo đuổi một khuynh hướng hoạt động thương nghiệp riêng của mình, vì chúng ta bắt gặp họ ở Saray từ một năm tròn khi nổ ra cuộc chiến tranh giữa Barkai và em trai là Alaou hoặc Houlagou, thủ lĩnh của người Tácta ở Levant. Cuộc xích mích đang hoành hành ở phía tây nam, tức là giữa sông Don và miền núi Caucase, và hai anh em Polo bị cản trở lúc quay về Soudad và Venise. Dĩ nhiên họ có thể ở lại Saray một cách yên ổn, nhưng sở thích phiêu lưu và bản năng thương mại dẫn họ đến cuộc hành trình mới; “không thể quay lui, bản văn ghi lại một cách giản dị lạ lùng, hình như tiến lên phía trước là điều tốt cho họ”.
Vậy là họ đi về phía đông nam đến tận Boukhara trong nước Turkestan hiện nay, nơi họ đã bị kẹt trong ba năm do cuộc chiến tranh. Chắc họ không nhớ nhiều đến tổ quốc và gia đình của họ (Nicolao có vợ và con), vì khi những sứ giả từ Houlagou đến với Đại Hãn vượt qua Boukhara và đề nghị những người Venise tháp tùng họ đến nhà vua Mông cổ, những người này tin tưởng vào sao chiếu mệnh của mình, vội chuẩn bị hành lý và đi ngựa đến tận khu nghỉ mát của Khoubilai, vị Đại Hãn, tại biên giới Mông Cổ và Trung Hoa, họ phải dành trọn một năm để hoàn thành chuyến đi. Họ gặp ở đó vị vua chuyên chế Mông Cổ mà tôi sẽ mô tả tâm tính kỳ lạ sau này. Ông không chỉ dừng lại ở việc tiếp đón họ “với sự kính trọng to lớn” hỏi han họ về những phong tục tập quán của người châu Âu, về các vị vua và Đức Giáo hoàng; ông còn giao cho họ trọng trách chuyển thư cho Đức Giáo hoàng, yêu cầu Người gửi cho ông đến 100 nhà hiền triết Ki tô giáo để tranh luận về thần học với các tu sĩ Phật Giáo trong nước, thậm chí còn cam kết cải đạo của Người chứng minh cho ông biết rằng Ki tô giáo là tốt đẹp hơn. Vị Đại Hãn có thể khá bình thản về kết quả của cuộc tranh luận này: phải có toàn bộ tính cả tin của thời Trung cổ để có thể tin tưởng là vị Đại Hãn một mức nào đó lại nghĩ đến việc từ bỏ những tín ngưỡng đang bảo đảm cho chế độ chuyên chế của ông. Vị vua đam mê những điều lạ lùng quốc tế này cũng yêu cầu hai anh em mang đến cho ông dầu thắp đèn tại Mộ Thánh.
Chúng ta có thể phỏng đoán là cả hai nhà buôn Venise không ra đi với hai bàn tay trắng. Họ đi từng chặng đường ngắn, buôn lậu dọc theo cuộc hành trình và vì vậy phải mất ba năm mới đến được Layas, gần Alexandrie, từ đó họ hướng đến Saint Jean d’Acre và biết tin là Đức Giáo hoàng vừa qua đời.
Trong thời kỳ đó, một vị Giáo hoàng không phải được bầu lên chỉ trong một tháng trời. Các Hồng y đến từ rất xa, những mánh khóe của các triều đình khiến cho những cuộc họp kín bầu Giáo hoàng kéo dài. Anh em nhà Polo quyết định chờ đợi việc bầu vị Giáo hoàng mới ở gia đình họ tại Venise. Họ đến nơi vào năm 1269 sau 14 tháng vắng mặt. Nicolao biết tin vợ mình qua đời, có thể là vì buồn chán lo lắng quá lâu và không hay tin tức gì về chồng. Nhưng đứa con mà ông đã có trước lúc khởi hành vẫn còn sống. Nó tên là Marco. Nó trạc 15 tuổi chứ không phải 12 như một vài văn bản viết tay đã ghi (điều này sẽ biến đứa trẻ thành đứa con ngoại hôn), và không phải 19 tuổi như Ramusio nói khi căn cứ vào ngày khởi hành bị tính sai (1250). Cậu bé đó chính là Marco Polo của chúng ta.
Hai anh em chờ đợi ở Veniso. Việc bầu cử Giáo hoàng kéo dài trong vòng hai năm. Vào lúc này, tiếng gọi phiêu lưu và lợi lộc một lần nữa lại vang vọng bên tai họ. Không cần quan tâm đến thư gửi cho Giáo hoàng, họ quyết định quay lại Đại Hãn và đem Marco đi theo, lúc này cậu đã 17 tuổi. Chúng ta gặp họ ở Saint Jean d’Acre, từ đây cả ba người đến Jerusalem để xin dầu Mộ Thánh. Sau đó họ lên đường hướng về Trung Hoa. Nhưng ở Layas, họ hay tin Giáo hoàng Grégoire X vừa mới được bầu chọn (ngày 1 tháng 9 năm 1271). Đó là vị sứ thần tại Syrie mà họ đã quen biết Saint Jean D’Acre. Họ vội vàng quay lại thành phố này, họ đến bái kiến thần phục trước vị Giáo hoàng mới. Thay vì 100 nhà hiền triết như Đại Hãn yêu cầu, Đức Giáo hoàng gửi cho họ hai tu sĩ dòng Đa Minh không thích phiêu lưu, chẳng có lòng nhiệt huyết tông đồ và ngay cả lòng khát khao tử vì đạo; vì vậy từ lúc nguy hiểm đầu tiên, cả hai vị quy đạo cho người khác liền bỏ rơi anh em Polo bằng cách nhường cho họ những thư ủy nhiệm và những đặc ân mà Đức Giáo hoàng đã ban cho họ.
Cả ba người dân thành Venise tiếp tục đi ngựa đến Trung Hoa. Họ đã đi đường mất ba năm. Cuối cùng họ gặp lại vị Đại Hãn ở Kai Ping Fou, gần Bắc Kinh. Khoubilai tiếp đón họ “hết sức trọng hậu” và “hoan hỉ” nhận lấy các pháp điển của Giáo hoàng và dầu thắp từ Mộ Thánh. Ông đặt tất cả vào trong bộ sưu tập riêng bên cạnh viên đá đỏ đảo Ceylan của Đức Phật: “Ông ta hài lòng đến nỗi không cho ba người La tinh ra đi nữa. Ông phong cho họ làm những quan cao cấp ở đó. Họ được mọi người phục vụ và tôn kính”.
Chúng ta không đề cập bao nhiêu đến Nicolao và Matteo. Ngài Marco. Như chúng ta sẽ gọi từ đây về sau, bây giờ đang nắm giữ một vị trí quan trọng. Chàng trai tháo vát, rất có khiếu về các ngôn ngữ và thổ ngữ, rất hiếu kì. Hơn nữa còn là quần thần tinh tế, cậu sớm được bổ nhiệm làm “cố vấn riêng và ủy viên hoàng gia”, nếu chúng ta tin Pauthier, ít ra cậu ta cũng được giao cho những sứ mạng hết sức tế nhị. Ở đây, sự phóng khoáng hoặc nhiệt tình của các nhà chú giải tha hồ được bộc lộ.
Chắc chắn Marco Polo thấy mình được giao phó cho những quyền hành quan trọng nhất, ông có thể đi xuyên qua nước Trung Hoa bằng mệnh lệnh để phục vụ cho Đại Hãn. Nhưng ông không nói nhiều về các lộ trình cũng như lý do các cuộc di chuyển của ông, các sử gia Trung Hoa ít nói hơn ông về những chuyện đó, nghĩa là không nói gì hết. Thật đáng tiếc là ông không kể cho chúng ta về các chuyến đi của ông, ông chỉ mô tả các xứ sở và các thành phố ông đã nhìn thấy và nghe nói đến. Thậm chí chúng ta cũng không xác định được vị trí những điều ông mô tả. Việc định hướng của ông được chăng hay chớ, hoặc thậm chí sai lầm, việc tính toán khoảng cách bằng những đoạn đường khó tham khảo trên bản đồ.
Việc thiếu chính xác này đã cho phép các nhà chú giải đưa ra những giả thuyết hết sức táo bạo. Nếu tin vào họ, những chặng đường mà người đàn ông thành Venise đã đi xuyên suốt qua nước Trung Hoa tăm tối và phức tạp của thời Trung cổ. Sự việc phải diễn ra như vậy. Marco Polo đã cho chúng ta biết rõ hướng phải theo, khoảng đường từ thành phố này đến thành phố khác, nhưng ông không bao giờ nói cho chúng ta là ông có theo đúng con đường đó hay không. Những lộ trình mà họ đã vạch vẫn còn đang được tranh cãi sôi nổi đến mức các nhà bình giải cổ văn hầu như không bao giờ đồng ý với nhau. Từ tất cả các mối quan hệ của chuyến đi, tôi không nghĩ rằng có một bản văn duy nhất được mọi người yêu cầu. Một vài người nghiên cứu về Polo, chẳng hạn như Percy Sykes, không do dự khi thêm vào văn bản gốc những câu hoàn toàn do họ nghĩ ra.
Điều chắc chắn, đó là trong 17 năm trời, Ngài Marco, bố và chú của ông vẫn ở lại phục vụ cho Đại Hãn. Việc hoạt động của hai anh em vẫn ở trong bóng tối. Nếu hiểu biết họ, người ta tưởng tượng họ không hoàn toàn từ bỏ những ước mơ buôn bán của họ. Họ có quá nhiều cơ hội làm giàu, và thực tế họ quá giàu lúc trở về nhà vì không từ bỏ ước mơ đó.
Chuyện kể của Marco Polo không nói cho chúng ta biết những lý do nào mà ba người đàn ông tìm cách quay về Venise sau 17 năm trời. Nhớ quê hương ư? Ít có khả năng; tình cảm này không bộc lộ bao nhiêu trong tập tục đương thời. Nói đúng hơn, tôi thấy ở đây có khát vọng tự do và quản lý theo ý mình những của cải mà họ tích cóp được: điều này là điều rất khó trước mắt một nhà tài chính chuyên chế như Khoubilai.
Văn bản sẽ cho chúng ta biết lý do họ được nghỉ việc và sứ mạng mà họ đã được giao trên đường trở về. Sau mười tám tháng lênh đênh trên Ấn Độ Dương, họ đến Ba Tư nơi họ đã làm xong việc ủy thác. Sau đó họ dùng đường bộ đi đến tận Trébizonde nằm trên bờ biển Đen, từ đó họ có thể đi bằng đường biển đến Constantinople rồi Négrepont, đảo Eubée, và cuối cùng đến Venise. Họ đến đó vào năm 1295, sau hai mươi bốn năm vắng mặt (chứ không phải hai mươi sáu như lời của Marco Polo và hầu như tất cả các nhà bình chú đã nói, do tính toán sai). Theo niên đại đã nêu, trong năm đó Marco phải trạc bốn mươi mốt tuổi, về phần tiếp theo trong tiểu sử của ông, chúng ta có sẵn ba văn bản: một của Ramusio, được biên soạn hai thế kỷ rưỡi sau khi anh em Polo về lại Venise, một đoạn văn của Zacopo d’Aqui liên quan tới việc tù đày của Marco và di chúc của ông, bản gốc của di chúc này được lưu trữ ở thư viện Venise.
Biệt thự của dòng họ Polo, nơi các nhà du lịch tìm lại lúc quay về, nằm không xa Rialto và San Giovanni Crisostomo, cuối một quảng trường nhỏ, quảng trường La Corte Salbionera, nơi người ta đến bằng một trong những đường phố hẹp âm u giống như các đường phố có rất nhiều ở Venise, đường La Solto Portico del Forno.
Về việc trở về này, Ramusio kể cho chúng ta một câu chuyện rất thú vị xuất phát từ truyện cổ phương Đông, nhưng như chúng tôi đã nói, hình như nó ít phù hợp với thực tế về tâm lý. Hình như ba nhà du lịch khi đến nhà với những bộ quần áo tơi tả (không hiểu vì sao) rất khó nhận diện bởi những người bà con đang chiếm giữ căn nhà của họ. Vì vậy có lẽ họ dùng đến một chiến thuật của các nhà đóng kịch. Họ mời tất cả các bà con đến dự một bữa tiệc lớn, họ xuất hiện trong bộ áo bằng xa tanh đỏ sậm và sớm cởi bỏ chúng để tặng cho các đầy tớ của họ.
Sau đó họ mặc những chiếc áo dài khác lần này bằng vải hoa nổi và hành động hệt như lần trước, để rồi cuối cùng mặc lại những bộ đồ bằng da thô mà họ đã mặc lúc trở về. Khi tháo lớp vải lót ra, người ta thấy một lượng lớn đồ trang sức đắt giá như: đá rubi, xa phia, hồng ngọc, kim cương và ngọc lục bảo. Chúng ta có thể nghĩ rằng trước một sự giàu có như thế, gia đình không còn phải do dự để nhận ra các nhà du lịch là những người thuộc dòng họ và tỏ ra hết sức quý mến và kính trọng họ. Tất cả các gia đình trên thế giới này không phải luôn luôn hành động như thế đối với những thành viên của mình lúc họ trở về với những chiếc túi đầy tràn hay sao?
Phần tiếp theo của câu chuyện do Ramusio kể có vẻ thực hơn và rất phù hợp với những điều mô tả hơi phóng đại của Marco Polo trong sách của ông. Ông tỏ ra thỏa mãn biết bao khi kể lại những chuyến du lịch. Khi mô tả những xứ ông đã đi qua, ông không ngừng nói về sự giàu có của chúng và luôn tính ra bằng triệu tiền vàng. Người ta sớm gán cho ông là Ngài Milioni (một vài nhà bình chú có lẽ không biết tiếng La tinh, lại viết thành Millioni), và quảng trường nhỏ mở ra trước ngôi nhà của họ được gọi là Corte del Milioni. Đó là tính cách châm biếm của những người Venise, điều đó cho chúng ta biết là những người cùng thời đó với ông ít tin tưởng vào câu chuyện kể của ông.
Tuy nhiên, không có gì phải nghi ngờ về việc ba anh em nhà Polo trở về quê nhà sau chuyến du lịch của họ qua nước Trung Hoa. Chúng ta đã thấy Marco đã dùng tiền của mình để trang bị một chiếc thuyền ga le và nắm quyền chỉ huy nó. Ngày 8 tháng 9 năm 1296, các đội tàu của hai thành phố chạm trán với nhau trong vịnh Laya, và đội tàu của Venise bị thất trận. Marco bị bắt làm tù binh, bị đưa đến Gênes và bị nhốt trong thành phố cho đến năm 1299.
Chính trong thời gian cầm tù này mà chúng ta có được quyển Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới. Nếu không có sự kiện đó, Marco Polo, con người do bản năng hoạt động lôi cuốn, bận tâm hoàn thành những công việc được giao chắc không bao giờ viết thậm chí đọc cho người khác viết sách của mình, ngay cả nhiều nhà du lịch mà chúng ta không bao giờ biết đến, như Colomb, Magellan, Gama Pizarre, cũng không tự viết ra câu chuyện kể về chuyến thám hiểm của họ. Đó là điều rất tốt, khám phá ra thế giới và sử dụng ngòi bút là hai việc khác nhau. Người đi chinh phục các kinh tuyến không bận tâm đến việc nghiêng mình trên bàn viết. Thám hiểm thật tuyệt vời biết bao.
Khi trở về Venise vào năm 1299, Marco rất hạnh phúc vì tìm lại được bố ông là Nicolao; nhưng ông đã qua đời một thời gian sau đó. Ông lão lang thang, người đã từng lôi kéo con trai trên các nẻo đường ở Châu Á, người mà chúng ta còn mắc nợ quyển “Cuộc chuyện trò thân mật về Thế giới” đã được an táng dưới cửa vào nhà thờ San Lorenzo, trong một quan tài bằng đá có khắc ba con quạ của dòng họ Polo.
Cuộc đời của Marco tiếp tục trong vinh quang và sự bình lặng của gia đình. Ông được chọn làm thành viên của Hội đồng thành phố. Vợ ông, Donata, đã sinh cho ông ba cô con gái rất đáng yêu như ông đã viết trong di chúc: Fantina, Bellela và Moretta. Người ta cho rằng ông mất vào năm 1323, vào độ tuổi sáu mươi chín. ít ra đi chúc của ông đề ngày 9 tháng 1 năm 1323 có nói đến tình trạng suy nhược cơ thể khiến ông lo sợ cái chết đến gần. Những ý muốn cuối cùng cũng như hầu hết các ước muốn đương thời thấm nhuần phẩm giá và sự cam chịu Ki tô giáo. Ông dành một phần tài sản cho các bệnh viện và các dòng tu, chọn nơi an táng là nhà thờ San Lorenzo nơi cha ông đã được yên nghỉ, ông còn tuyên bố giải phóng cho một nô lệ người Tacta, tên là Pierre, người mà ông đã mang về sau chuyến đi, sau cùng ông để lại phần lớn của cải cho vợ và các con gái ông.
Mộ của ông và bố Nicolao của ông biến mất vào năm 1590, khi Simeon Sorella mở rộng nhà thờ. Người ta không biết hài cốt của hai nhà du lịch trở nên như thế nào. Chúng được trả về cho mảnh đất dưỡng nuôi chúng.