MARCO POLO DU KÝ
Khi Marco Polo nói về chuyến du lịch của mình cho Rusta thành Pise trong nhà tù ở Gênes, ông không đặt nhan đề cho nó. Đó là phong tục đương thời. Các tác giả thời kỳ này không quan tâm bao nhiêu đến việc ghi tựa đề cho các tác phẩm của họ. Đó là công việc của nhà ghi chép, sau này là của nhà in. Thông thường cùng một quyển sách vào thời kỳ này không thuộc văn học giả mạo thường có những tựa đề hoàn toàn khác nhau, tùy theo người viết văn bản hoặc người phát hành bản in. Những tựa đề mà chúng ta ngày nay gán cho phần lớn các sách La Mã và Hy Lạp không được ghi bởi các tác giả của chúng nhưng bởi những người ghi chép đầu tiên, thậm chí có lúc bởi các viên thư lại thời Trung cổ, ví dụ như Plutarque, ông không bao giờ đặt tựa đề cho hai tuyệt tác “Những con người nổi tiếng và Moralia”: đây là cách gọi tên tập thể được định hình ngay sau đó. Những nhân vật vĩ đại trong quá khứ không tỏ ra tự ái như những con người vô danh tiểu tốt hiện nay trong những điều nhỏ mọn như thế. Thậm chí họ thường không muốn ký tên vào các tác phẩm của họ: con cháu sau này sẽ đảm trách công việc đó.
Từ lúc đầu Marco Polo du ký không mang bất cứ tựa đề nào, các nhà ghi chép đã dành cho nó những tựa đề phù hợp với sở thích của thời đại hoặc với xu hướng của họ mà không cần quan tâm đến chất liệu của tác phẩm, ngoại trừ trong một trường hợp duy nhất. Họ đặt tên sách hoặc là “Cuộc nói chuyện thân mật về Thế giới” hoặc “Cuốn sách về những kỳ quan của Thế giới” (trong tiếng Ý Delle Maravegliose del Mondo, trong tiếng La tinh, De Mirabilibus Mundi), hoặc: Marci Pauli de persis hominum generibus et persitatibus regionum mundanarum, v.v. Một bản viết tay duy nhất ghi tựa đề tóm tắt gần đúng bản chất của tác phẩm: Quyển sách của Marco Polo và những kỳ quan của Châu Á. Về phía người ghi chép, nó chỉ rõ tinh thần phê phán hoặc khoa học mà những quyển sách không có hoặc chúng không muốn có, trong khi tìm cách kích thích sự tò mò của độc giả.
Marco Polo du ký là một tác phẩm mô tả về địa lý lịch sử, dân tộc học, chính trị và khoa học (động vật học, thực vật học và khoáng vật học) của Châu Á thời Trung cổ, vì nếu như chúng ta loại trừ toàn bộ các chương cuối viết về Madagascar và Abyssinie ngày nay, phần còn lại đều dành riêng cho Châu Á và các đảo trực thuộc về mặt địa lý.
Vì vậy, vấn đề không phải là những kỳ quan của thế giới, ngay cả của thế giới được biết đến vào thế kỷ XIII - vì trong đó không nói đến Châu Âu hoặc Châu Phi - nhưng hoàn toàn về những kỳ quan của Châu Á, từ Biển Đen đến tận Thái Bình Dương, từ biên giới Xibêri đến Ấn Độ và Java. Marco Polo mô tả phần đất đai này chứ không phải thế giới. Ngược lại, đối với những người đương thời, phần đất này được mô tả lần đầu tiên do một người đã từng đi qua và nghiên cứu đến tận chân tơ kẻ tóc.
Thực ra ông không phải là người đầu tiên đi tham quan và mô tả nó. Cosmas Indicopleustes đã làm việc đó vào thế kỷ thứ VI; Arculphe vào thế kỷ VII, và Willibald, thế kỷ VIII (hai người sau không đi xa hơn Palestine); Soleyman và Abou zeyd Hassan. Cả hai đều theo đạo Hồi, vào thế kỷ IX; Benjamin de Tulède, thế kỷ XII: Jean du Plan de Carpin, khoảng năm 1245; Rubruquis, khoảng 1253 đã đi qua một vài phần lãnh thổ Châu Á và cũng đã để lại cho chúng ta những bài mô tả. Jean du Plan và Rubruquis thậm chí đã sinh sống giữa những người Tacta thuộc Mông Cổ và tham quan Trung Hoa. Nhưng tất cả những nhà du lịch châu Á đã không hoặc ít được như những người cùng thời với Marco biết đến. Một vài bản viết tay của Jean du Plan và của Rubruquis vẫn còn nằm ngủ trong các thư viện. Số khác chỉ được phát hiện rất lâu sau này, và cuốn sách lạ lùng của hai người tín hữu đạo Hồi chỉ được dịch từ tiếng Ả Rập vào năm 1718.
Những người cùng thời với Marco Polo chỉ biết đến Châu Âu qua Pline l’Ancien và người sao chép của ông là Solinus. Tất cả những điều họ biết được tóm tắt trong Les Livres du Trésor, viết bằng tiếng Pháp giữa thế kỷ XVIII, do Brunetto Latini, thầy của Dante, con người mà Nhà thơ Thần thánh trong bài hát thứ mười lăm của tác phẩm L'Inferno xếp vào số những người bị nguyền rủa vì thói giao hợp hậu môn. Cái Châu Á đó không vượt ra xa hơn sông Ấn và đảo Obropaine từ đó Marco sẽ cho chúng ta tên đích thực: Ceylan. Bên kia, về hướng đông, không chỉ có hoang mạc của những dân ăn thịt người như Brunetto đã nói. Trái lại, chính Marco đả bày tỏ cho chúng ta biết một nền văn minh tiến bộ đến nỗi Châu Âu chỉ được xem như là một mảnh đất đang trong tình trạng dã man, sau khi tác phẩm “Chuyện trò thân mật về Thế giới” ra đời; ông còn cho thấy những vùng đất giàu có đến nỗi chúng kích thích sự thèm muốn của các vua chúa phương Tây trong hàng thế kỷ.
Nói đúng ra, ông có một sự hiểu biết mơ hồ về những vùng đất xa xôi đó. Các nhà buôn Châu Âu đang định cư ở Alexandrie, ở Constantinople và thậm chí như chú của Marco, cùng các nhà buôn thành phố Gênes mà Marco nói đến, trên bờ phía đông của Biển Đen, và trên các bờ biển Caspienne, cũng có thể có mối liên hệ thường xuyên với những người đến từ Ấn Độ và Trung Hoa, nơi sản xuất các thứ gia vị và vải lụa. Hơn nữa, trước các nhà khám phá vĩ đại, trước những người đã viết nên những quyển sách, vẫn luôn luôn có một số đông những người lang thang vô danh và thất học, họ đã không để lại thứ gì cho chúng ta từ những chuyến đi lang thang của họ.
Không phải là người ta không biết Châu Mỹ đã được khám phá ba hoặc bốn lần trước Colomb. Châu Á cũng đã được khám phá hàng trăm lần trước Marco Polo. Vào thời đại của nhân loại tràn đầy nhựa sống và sức mạnh, không thiếu những kẻ phiêu lưu bị thôi thúc bởi lợi lộc, sự khao khát vàng, họ tự nguyện vượt qua những cuộc giao tranh của các dân tộc, những trận dịch hạch, dịch tả, hòa mình vào các cuộc di cư của các chủng tộc, liều mình trước hoàn cảnh nô lệ và chết chóc để bán những hàng hóa và mua những mặt hàng khác. Giống như những người tiên phong ở các thuộc địa của chúng ta, phần đông đã không viết điều gì trước tiên, có thể họ không biết viết, sau đó bởi vì họ phải làm những việc khác, cuối cùng vì họ chỉ quan tâm đến các sản phẩm trao đổi mà thôi và thậm chí không nhìn thấy các quốc gia, các thành phố và những con người họ gặp gỡ trên đường đi. Riêng tôi, tôi đã biết một đám thủy thủ và buôn lậu đã chu du khắp thế giới và chỉ tường thuật lại những kỷ niệm về các chi nhánh thương mại, những quán cà phê và những nhà thổ.
Những người của thế kỷ XIII là những người tham vọng, tò mò, dốt nát không hơn không kém những người của thế kỷ XX. Chúng ta sẽ không bao giờ biết gì về điều mà Guillaume Boucher, người thợ kim hoàn ở Paris đã thấy, không biết đến vùng Lorraine, còn có tên là Pâquette. Chúng ta cũng sẽ không bao giờ biết đến hai nhân vật mà Rubruquis đã gặp nãm 1253 ở Kara Koroum, cực bắc của nước Mông cổ, nơi Đại Hãn đang cai trị thời bấy giờ. Một người Đức, người đã từng xây dựng các công sự chiến tranh, trước Saìanfou, năm 1292, đã không viết gì về chuyến đi của mình. Nếu Jean du Plan và Rubruquis đã để lại cho chúng ta một chuyện kể về những chuyến du lịch của họ, còn biết bao nhiêu tu sĩ dòng Đa Minh giống như họ được sai đi cải đạo cho những người Tacta, đã không nói gì về những nước họ đã đi qua, có thể họ không nhìn thấy chúng. Như tôi đã trình bày. Có thể chính Marco Polo cũng không để lại cho chúng ta điều gì về chuyến du lịch tuyệt vời của ông. Những điều bất ngờ khiến ông bị cầm tù và gặp gỡ một người có học thức đã đưa đến việc ra đời của một quyển sách nổi tiếng chứa đựng toàn bộ Châu Á thời Trung cổ. Hầu như chắc chắn là Marco không bao giờ nghĩ đến việc viết ra quyển sách đó. Biết bao nhiêu nhà du lịch khác cùng thời với ông cũng lười nhác hoặc rụt rè như ông. Tuy nhiên, tất cả các nhà buôn mà tôi đã nói, những tu sĩ, những kẻ lang thang vô danh, một khi họ đến chi nhánh thương mại của những người Châu Âu, một khi họ quay về tu viện hoặc thành phố quê hương của họ, họ có thể nhớ rõ một điều gi đó và nói ra cho những người gần gũi với họ, thuật lại những hiểu biết mơ hồ về các nước ở Châu Á, giống như các thủy thủ Xcăngđinavơ, Bồ Đào Nha và Noóc mân, qua những chuyện tầm phào, đã cung cấp cho một Christophe Colomb biết lắng nghe, những kiến thức về những vùng đất bên kia Đại Dương, nơi họ đã đặt chân đến. Từ đó tôi kết luận là Châu Á không thể hoàn toàn xa lạ, ngay cả Trung Phi trước Livingstone cũng thế, vì ông này đã tim thấy những phế tích của các công sự của người Bồ Đào Nha, ngay cả những hồ nước, những nguồn sông Nin trước Speke và Baker cũng vậy, vì những hồ này cũng như các nguồn của sông Nin đều xuất hiện trên một tấm bản đồ in năm 1686 mà tôi đang có trước mặt tôi.
Điều tạo nên công lao hiếm có của Marco Polo, trong số nhiều nhà du lịch khác, nổi tiếng và vô danh đi trước ông, đi cùng ông hoặc sau ông, xuất phát từ những phẩm chất cá nhân của ông, từ tổ chức bộ não của ông. Kích thích bởi tính hiếu kỳ vô hạn, ông có năng khiếu nhìn thấy mọi thứ, lưu lại mọi thứ và biết sắp xếp lại thứ tự mọi thứ tất cả những gì ông đã nhìn thấy và lưu giữ trong đầu.
Trong hai mươi bốn năm, ông đã chu du khắp nơi ở Châu Á và không ngừng góp nhặt thông tin. Ông nghiên cứu những con người từ vị vua chuyên chế đến người thợ thủ công bình thường nhất, từ những thể chế chính trị đến các tín ngưỡng tôn giáo, không những các thành phố, những đền đài và các ngành thủ công mà còn những phong cảnh cây cối, những tài nguyên thiên nhiên cho đến đất đai và khoáng sản. Không có gì vượt ra khỏi tầm nhìn của ông từ lục địa mênh mông, nơi mà các chủng tộc, các niềm tin và các ngôn ngữ chồng chéo vào nhau; từ môi trường thuận lợi phong phú, nơi sản sinh những hoa quả chưa ai biết và những thứ gia vị như đinh hương, hạt tiêu, củ gừng, những thứ đã làm cho những người đi chinh phục phải mơ ước thèm thuồng; từ những lớp đất sâu đang chứa đựng những tài nguyên không sao kể xiết: vàng, bạc, đá quý, than đá, dầu lửa và amiant.
Đó là một bức tranh tuyệt vời vô cùng sống động của châu Á vào thế kỷ XIII, lục địa mà Jean du Plan và Rubruquis chỉ cống hiến cho chúng ta bản phác thảo tẻ nhạt. Khi đi dạo từ biển Caspienne đến các biển Trung Hoa, từ các dãy núi Tây Tạng đến mũi Comorin, Marco Polo mang lại cho chúng ta một bộ sưu tập đồ sộ về một bức tranh đầy màu sắc, trong đó sự tỉ mỉ và sự phong phú của những bức tiểu hoạ xưa trở nên sống động bởi một sự nhộn nhịp rất hiện đại. Đó là những thành phố đông dân sống bên trong những tường thành khoét lỗ châu mai, bị chia ngang cắt dọc bằng những đường phố dài thẳng tấp, nhộn nhịp bởi tiếng ồn ào của các ngành nghề. Những thành phố được xây dựng trên những đầm lầy do sông ngòi bồi đắp với hàng trăm chiếc cầu và hàng ngàn chiếc ghe tam bản ngược xuôi không ngớt trên các kênh đào giống như ngày nay. Đó là những lâu đài và vườn tược, những nhà nghỉ, những hồ và suối, những vườn cây ăn trái và những đồng cỏ, nơi sinh sống của những con thú săn và những con vật làm cảnh, những đồi cây, những bồn hoa. Đó là những hải cảng lớn nhung nhúc tàu buồm chở gạo, mà nhà du lịch đã mô tả với cái nhìn chinh xác của một thủy thủ thực sự hoặc của một người đi biển buôn bán ven bờ lâu năm đến các đảo thuộc quần đảo Mã Lai. Đó là những tu viện rộng mênh mông như các đô thị, giàu có như các công ty đa quốc gia, đầy quyền lực như các vua chúa phong kiến, những nơi hun đúc hàng ngàn tu sĩ Phật giáo được cung phụng bằng đức tin của dân chúng theo truyền thống tu viện thuần tuý nhất trong tất cả các nước. Đó là những đội quân trên các con ngựa ngắn bờm dài phi qua những thảo nguyên bao la và thỉnh thoảng giáp mặt nhau trong các cuộc chiến kiểu Salammbô, ở đó các thớt voi di chuyển những tòa tháp bằng gỗ đầy ắp những xạ thủ bắn cung. Đó là những y phục, những đồ trang sức, những hình xâm, những tập tục của nước Trung Hoa cổ dựa vào truyền thông mà ngày nay chúng ta vẫn còn gặp lại trong những lễ tang và những tục đốt giấy vàng mã từng được Marco miêu tả.
Thỉnh thoảng, câu chuyện của ông trở nên thân mật và thậm chí phóng túng, nhất là khi đề cập đến phụ nữ. Ông trình bày với sự khoan dung và thanh thản những khía cạnh lạ lùng của cuộc sống tình dục, những ý thích ngông cuồng trong hôn nhân của một dân tộc bị chi phối bởi những nguyên tắc của chúng ta. Cambaluc cũng nhung nhúc các gái điếm hầu như không thua gì Paris vào thế kỷ XVIII và Shangai xưa kia, họ kiếm tiền bằng thân xác của họ và tất cả đều nhờ đó mà mưu sinh. Theo Polo kết luận, điều này chứng tỏ cho thấy sự giàu có của dân chúng. Ông nói nhiều về vùng đất mà các thiếu nữ chỉ được tìm kiếm để kết hôn trong phạm vi họ đã từng ngủ với các khách vãng lai; người đàn ông Venise còn nói thêm về xứ sở được chúc phúc, nơi mà các chuẩn kỵ sĩ đau khổ vì những cô gái đẹp phải lên đường sau khi họ đã thỏa thích chán chê và không tiền ứng trước. Trong một tỉnh khác, những ông chồng tự nguyện để cho vợ họ sẵn sàng đi với những du khách và đi dạo ở nông thôn cho đến khi người khách của họ lấy đi chiếc mũ, mà y đã để lại cửa sổ nhằm ra dấu về sự có mặt của mình trên giường vợ chồng, thậm chí người ta còn thấy những ông chồng hài lòng nhường cho vị hoàng đế những thần tượng giàu có nhất và tất cả các tài sản đất đai của họ để giữ được quyền bị cắm sừng. Trái lại, quyển sách được nâng cao bởí tính cao thượng và trân trọng như trong các trang viết về Facfut, vua của Mangi, người cha của dân tộc với nhiều chức vị hơn là nhiều người nào khác, ông là Pausòle nhu nhược chỉ nghĩ đến hạnh phúc và phụ nữ. Ông giàu có và không có quân đội, món mồi ngon dành cho sự thèm khát vô độ của Khoubilai. Vị Facfut này là người sáng lập cơ quan cứu trợ và tiền thân của thánh Vincent de Paul, khi ông cho thu nhận mỗi năm hai mươi ngàn trẻ sơ sinh mà bố mẹ chúng đã ném vào đống rác, ông cho nuôi dưỡng, cưới vợ, gả chồng cho chúng hoặc cho các vợ chồng không con nhận chúng làm con nuôi, vị Facfut này không thể nào cầm lòng trước một căn nhà nghèo nàn và dùng tiền của mình làm cho nó đẹp đẽ hoặc nâng cao lên thêm một tầng.
Có thể là quyển sách đạt đến tính cách thanh thản tột cùng của nó khi bàn đến Đức Phật Sagamoni (Cakya Mouni), như Marco gọi. Theo ý tôi, đó là lần đầu tiên mà giáo lý Ấn Độ được giới thiệu cùng với giáo lý Ki tô giáo. Trong tác phẩm “Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới”, giáo lý được giới thiệu với sự am tường, giọng điệu giống như giáo lý Ki tô giáo khiến có lúc tôi nghĩ rằng Marco Polo có thể cảm thấy bị thôi thúc hướng đến tôn giáo có tính chất khổ hạnh này. Tôi chỉ muốn ghi lại một câu hỏi hơi lạc giáo: “Nếu Ngài là Ki tô hữu, vì cuộc đời tốt đẹp và trung thực của Ngài, có thể Ngài sẽ là một Đấng thánh giống như Đức Giêsu Ki tô Chúa chúng ta”.
Sau cùng tôi nhận thấy trong “Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới”, có hai chuyện hoang đường đã gây ảo tưởng cho thời Trung cổ và duy trì huyền hoặc cho đến thời kỳ hiện đại: chuyện hoang đường về Vua kha hãn Jean, vị vua hoặc Khan Ki tô giáo của Á châu với vương quốc chỉ có trong tưởng tượng đến nỗi người ta không ngừng tìm kiếm ông ta trong hàng thế kỷ; và chuyện hoang đường về vị Sơn Thần Già được các độc giả của Théophile Gautier, Quincey và Baudelaire biết rõ hơn là số quá ít độc giả của Marco Polo, vị phù thủy lạ lùng này làm đắm say bằng tình yêu, âm nhạc và cây gai dầu ở các khu vườn có những con suối, rượu và mật, những chàng trai xinh đẹp và sau đó sai họ đi giết các vị vua và hoàng tử. Họ được gọi là Haschischin (nguồn gốc của từ “Assassin” của chúng ta hiện nay, bởi vì ông ta làm cho họ nghiện chất Haschisch (ma túy). Chuyện hoang đường giàu chất thơ Đông phương đến nỗi nó xuất hiện cả trăm lần trong nền văn học của tất cả các dân tộc và tìm được một vị trí gần đây trong một câu lạc bộ của những người Haschischins. Ở đó, không xa nơi tôi ở, trong một phòng của khách sạn Lauzun, phố Anjou, chúng ta nhìn thấy Baudelaire, Gautier, nhà điêu khắc Feuchères và những cô gái xinh đẹp khao khát những thiên đàng nhân tạo tập hợp quanh Fernand Boissard, người chủ của ngôi nhà.
Trung tâm của bức tranh nhộn nhịp mà Marco Polo mô tả chính là gương mặt vĩ đại của vị Khoubilai, hoàng đế của tất cả những người Tácta trên thế giới, ngườì đàn ông thành Venise gọi ông là Đại hãn hoặc lãnh chúa. Sự miêu tả vị vua chuyên chế, chuyện kể về việc lên ngôi của ông, việc mô tả các cung điện do ông xây dựng, những đô thị do ông thiết lập, những buổi lễ do ông tổ chức, những chuyến đi săn, những bài tường trình về việc điều hành chính trị, tài chính, kinh tế đã chiếm hàng năm mươi chương sách. Tóm lại toàn bộ quyển sách chỉ là một bài biện hộ cho uy quyền tối thượng của Đại Hãn, vì tất cả các nước mà Marco miêu tả đều nằm dưới sự thống trị của Đại Hãn hoặc nộp thuế cho ông hoặc bị tham vọng của ông đe dọa.
Đó là một nhân vật rất độc đáo, hậu duệ của Genghis Khan nổi tiếng, kẻ sáng lập ra triều đại Mông Cổ; vị vua chuyên chế tuyệt đối xem toàn bộ Châu Á như là tài sản hiện tại hoặc tương lai của mình. Ông vơ vét mọi tài nguyên thuộc lãnh thổ rộng mênh mông của ông, ông là chủ của mạng sống và của cải của mỗi thần dân của ông. Tuy nhiên, ông lại có đầu óc cởi mở đối với tất cả những điều mới lạ, khao khát kiến thức, chuộng tính cách ngoại lai, niềm nở với tất cả những ai đem đến cho ông những hiểu biết về người nước ngoài và về những phong tục tập quán của những tỉnh xa xôi trong đế quốc của ông. Ông là người sáng chế ra tiền giấy, thường được bắt chước bởi các vị vua và các nước Cộng hòa nào không biết dùng tiền bạc của các nước khác, ông phát minh ra các trạm đưa thư, ông là người thiết kế vĩ đại các đường xá, người thiết lập điều mà sau này người ta gọi là nền kinh tế đóng kín. Ông cũng là nhà sưu tập cuồng nhiệt và tập hợp trong bảo tàng của mình tất cả các đồ vật mà ông có thể với tới được miễn là chúng hiếm có và đến từ phương xa. Khoan dung, giống như tất cả những người Mông cổ, kể cả những người Turc, ông để cho mỗi người được tự do hành đạo và chỉ cần phải nộp thuế; quần thần của ông gồm những người Hồi giáo, Do Thái giáo, tín đồ Nestorius. Công giáo như ba anh em nhà Polo và những người khác mà chúng ta chỉ phỏng đoán; tôi đã trình bày việc ông đã sẵn sàng tổ chức một cuộc tranh biện giữa những tu sĩ Phật giáo và các đặc sứ của Đức Giáo hoàng, và chắc chắn là ông ta hết sức khoái trá về việc này. Vị hoàng đế này còn hiếu chiến và xa hoa phóng túng, điều độ nhưng hưởng lạc, tham vọng và thích tiêu tiền. Ông còn là hình ảnh sống động nhất mà Marco Polo đã giới thiệu cho chúng ta.
Chúng ta không thể nói rằng quyển sách của ông được đón nhận với tính cả tin phổ biến. Nếu những độc giả trung bình tìm được lợi lộc cho mình trong chuyện kể về những điều kỳ thú này, những người có học thức đương thời lại tỏ ra hoài nghi về giọng nói của người kể chuyện cũng như các số liệu được nêu ra. Vị lái buôn này, người từng nắm trong tay biết bao nhiêu là vàng, hàng triệu tiền giấy và đá quý, có thể là kẻ đáng ngờ đối với những người không bao giờ thấy nhiều như thế và thuộc về những đất nước dè xẻn. Không có triều đình nào ngay cả triều đình của nước Pháp, triều đình giàu có nhất lúc bấy giờ lại có sẵn một phần ngàn, nếu không muốn nói là một phần trăm ngàn lợi nhuận của Đại Hãn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những người đồng hương Venise đã gán cho ông ta biệt hiệu Ser Milioni với chút châm biếm và không có gì ngạc nhiên khi các nhà địa lý thời bấy giờ, chẳng hạn như d’Ailly lại trở nên thận trọng trước lối khoa trương hơi quá đáng của Marco, vì họ không tin là có thể chấp nhận những thông tin mà họ không thể nào kiểm chứng được.
Nếu chúng ta tin Jacop d’Aqui, có thể người đàn ông Venise đã khẳng định, ở mục nói về sự chết, rằng không những tất cả các chi tiết của quyển sách là hoàn toàn đúng đắn mà thậm chí ông đã không nói được một nửa điều ông chứng kiến. (“Et quia ibi magna et quasi incredi bilia, reperiuntur, rogatus fuita ab amicis, in morte, quod librum suum corrigeret et quoe superfluoe revocaret. Qui respondit: Non scripsi mediantem de iis quoe vidi”).
Tuy nhiên đôi lúc Marco Polo có thể hơi phóng đại phần nào. Những kỷ niệm lâu lơ lâu lắc của ông dần dần đã tô điểm cho thực tại một cách vô thức. Đó là một hiện tượng hơi khá phổ biến ở các nhà du lịch. Tôi không muốn đưa ra những ví dụ khác mà Colomb đã từng nêu ra trong các lá thư từ Hispaniola, và gần với chúng ta hơn, Pierre Loti, khi giới thiệu một Polynésie không khác gì một ảo ảnh.
Sự hăng say của người Ý và nhất là của người Venise, nơi Marco Polo đôi khi đưa ông đến lối ngoa dụ. Những kỷ niệm của ông, được khuếch đại bởi một cuộc sống tĩnh tại, đã đưa ông đến việc tô vẽ thêm và gây thừa thãi. Chính vì phương diện này mà tôi có thể gọi ông là Casanova của chuyến du lịch. Người Venise này và người Venise kia tùy tiện làm biến đổi những điều mô tả do luyến tiếc khi kể chuyện, người đầu tiên luyến tiếc những thành phố mà y đã biết, người thứ hai những phụ nữ mà y đã chiếm đoạt. Những thành phố của Marco quá phong phú, quá lớn lao và quá đông dân; những phụ nữ của Casanova quá trẻ trung và quá tuyệt vời. Vì vậy, không cần có một nghìn lẻ ba nhân tình mới chú ý đến điều mà tất cả các phụ nữ đều có bộ ngực quyến rũ, “giống như những quả cầu”, nhà hiệp sĩ đã nói như thế về tính cách thống nhất trong các cuộc chinh phục của mình.
Giống như phần đông các nhà bình chú, tôi cũng không muốn bào chữa cho những điều khẳng định nhỏ nhặt nhất của Marco Polo. Chúng ta không thể tránh việc bắt quả tang ông phóng đại ở nhiều chỗ trong sách, chẳng hạn khi ông nói với chúng ta về 12700 đảo của Ấn Độ Dương, về Yangtsé và việc giao thông trên sông, về sáu nghìn chiếc cầu bằng đá của thành phố Singui và rất nhiều điều khác nữa mà tôi muốn để cho độc giả đánh giá. Các tính từ “grand”, “grandissime” và thậm chí “moult grandissime” trở đi trở lại thường xuyên gây ra tính cách đơn điệu trong phóng đại. Những số liệu thường khiến cho Mallarmé gọi là “sự chóng mặt Đông phương về các số liệu” trong bài tựa của tác phẩm Vathek. Thỉnh thoảng, tác giả tự phủ nhận ngay tức khắc, như trong việc mô tả lều săn của Đại Hãn, ông cho biết mỗi bộ da lông chồn Zibeline “giá hơn hai nghìn đồng livrơ vàng hoặc ít ra là một ngàn”. Trong khi nói về vàng, ông lại tỏ ra cuồng nhiệt. Ông nhìn thấy nó ở khắp nơi trong các mặt lát, trên các tòa tháp, trên các mái nhà. Thường người ta có cảm giác đó chỉ là đồ mạ vàng, những thứ vàng phổ biến và dồi dào đó không phải không làm cho một vài độc giả bị thôi miên và không chỉ có những người kém nhất, chẳng hạn như anh chàng Chistophe Colomb, hai trăm năm sau ông đã biến quyển “Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới” thành sách gối đầu giường của ông. Thực ra người đàn ông Venise và người đàn ông Gênes cũng bị ám ảnh tương tự. Chủ đề quán xuyến về vàng, trước lá thư Tétralogie des Nibelungen chứa đầy nhật ký của Colomb và phần quan trọng nhất trong các chú thích bên lề quyển sách của Marco Polo. Ảnh ảo do mặt trời chứ không phải bất cứ điều gì khác như tôi đã có dịp chứng minh, đã lôi kéo nhà hàng hải trên các lộ trình xa lạ của Đại Tây Dương, về hướng Cipangu có cung điện, theo lời Marco, “toàn bộ được lát bằng vàng ròng giống như các nhà thờ của chúng ta được lát chì” và có nhiều phòng “tất cả đều lát vàng, bằng những tấm lát dài hơn hai ngón tay”. Cũng có nhiều đoạn miêu tả khác của người đàn ông Venise mà chúng ta không thể kiểm tra, không phải là lời nói dối, nhưng là điều ảo tưởng. Giống như phần đông các nhà văn cùng thời, chẳng hạn như Aristotle, Pline l’Ancien, ông ta có sở thích đối với điều huyền diệu. Ông chịu trách nhiệm về những truyền thống Châu Á, chẳng hạn như chim thần mà chúng ta bắt gặp trong chuyện “Ngàn lẻ một đêm” và ngay cả trong bài tường thuật về chuyến du lịch của Magellan, được viết lại hai trăm năm sau bởi Pigafetta. Trí tưởng tượng của Marco Polo trong lĩnh vực động vật học và thực vật học, được gặp lại nơi Claude Duret và Claude Champier vào thế kỷ XV, XVI; thậm chí sau này, cha Lobo và Vincent Le Blanc, trong các chuyện kể của họ về chuyến du lịch, cũng xác nhận sự tồn tại của con kỳ lân thân thiết với Marco. André Thévet cũng đã nói mình săn kỳ lân cùng với cha ở xứ Monomotapa. Vào thế kỷ XIX, cha Hue, trong tác phẩm “Tây Tạng du kí” của mình (1842-1844), cũng dành nhiều trang cho con kỳ lân mà ngài gọi là Tchiron hoặc linh dương Hodgsonii. Ngài đã mô tả nó thật tỉ mỉ, không phải đã nhìn thấy nó, nhưng dựa theo các tư liệu hết sức chính xác về mặt khoa học. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên về sự say mê buồn cười của Marco dành cho voi, về những con sư tử mà ông cho định cư ở Châu Á vì nhầm lẫn nó với con hổ. Ngoài ra ông còn đưa ra nhiều đoạn mô tả chính xác và tỉ mỉ các động vật và thảo mộc của Trung Hoa và Ấn Độ, chúng ta có thể bỏ qua cho ông đôi lúc đã sa đà vào chuyện ngụ ngôn hoặc tưởng tượng.
Sau cùng trong “Cuộc chuyện trò thân mật về Thế giới”, có một lỗ hổng lạ lùng mà không nhà bình chú nào lấp đầy. Người đàn ông thành Venise mô tả chi tiết các công trình nghệ thuật có tầm quan trọng tương đối, như chiếc cầu Pulisanghin, lại không nhắc một từ nào về một di tích vĩ đại của nước Trung Hoa cổ: Vạn lý trường thành. Tuy nhiên đi theo các lộ trình của ông, chúng ta biết ông đã vượt qua nó nhiều lần. Sự im lặng của ông đối với một “kỳ quan” gây ấn tượng như Wan ly tchâng tching (Bức thành mười ngàn dặm) vẫn làm chúng ta hơi bối rối và khiến chúng ta nghĩ rằng Marco đã không bao giờ vượt qua biên giới Mông cổ giữa Bắc Kinh và Kan Tchéou.
Ngoại trừ những lối nói phóng đại, sắp xếp bố cục và sơ suất của Marco Polo. Điều kỳ lạ là ông không một lần nhắc đến trà, nước giải khát phổ biến của người Trung Quốc và Tartarie từ thế kỷ XI, trong khi Soleyman, nhà du lịch thế kỷ thứ IX lại nhắc đến rất nhiều. Chúng ta có thể thán phục tính cách xác thực của những phần còn lại. Càng đi sâu vào việc tìm hiểu những vùng đất mà ông mô tả, về địa lý, lịch sử, phong tục, tôn giáo, hệ động thực vật, đất đai, chúng ta có thể cảm nhận rằng nhà du lịch vĩ đại ít khi nhầm lẫn, ông đã thu nhập tin tức rất tỉ mỉ và đã chuyển cho chúng ta những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Trên các tỉnh, thành phố, sông ngòi, hơi biến đổi như đã nêu do cách phát âm hoặc do các nhà ghi chép, tất cả những địa danh đó vẫn còn xa lạ cho đến lúc bây giờ, đã được thẩm định là chính xác. Những hoang mạc mà ông đã từng vượt qua trong tình trạng khát nước vẫn luôn bị khô hạn như thế. Sơ đồ của ông về các thành phố có thể trùng khớp với các sơ đồ trước kia và thậm chí với các sơ đồ hiện nay. Những biến cố mà ông nêu ra đã được xác nhận bởi các sử gia của nước Trung Hoa cổ ngoại trừ một vài chi tiết.
Các phong tục được mô tả một cách hết sức đúng đắn, ngày nay chúng ta còn bắt gặp lại rất nhiều phong tục truyền thống đó.
Những sản phẩm thiên nhiên hoặc công nghiệp của từng nước được nhà du lịch thành Venise liệt kê là những sản phẩm có trước kia và ngày nay chúng vẫn còn tồn tại.
“Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới” là một tài liệu vô giá về Châu Á thế kỷ XIII, một bức tranh trung thực và đáng chú ý của những vùng vẫn còn khép kín cho đến lúc đó trong vòng bí mật đến nỗi các nhà địa lý chỉ nói đến chúng như là những hoang mạc vô tận chỉ có những dân ăn thịt người sinh sống. Nhờ Marco Polo với kinh nghiệm, tính hiếu kỳ, lương tri, lòng trung thực của ông, những vùng đất vượt qua không gian và thời gian đã trở nên sống động bởi một cuộc sống diệu kỳ, ngày nay chúng đã dâng hiến cho chúng ta hình ảnh của một nhân loại trù phú trong những cảnh trí rộng lớn như những bức bích họa và chính xác như những bức tiểu họa.