← Quay lại trang sách

ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ CUNG ĐIỆN CỦA CON TRAI ĐẠI HÃN, NGƯỜI KẾ VỊ ÔNG

Các bạn nên biết rằng gần cung điện này, Chúa thượng đã cho xây dựng một cung điện khác giống như cung điện của ông và không thiếu thứ gì. Ông truyền xây dựng nó cho con trai ông, khi nó lên ngôi Đại Hãn. Vì thế, ông cho xây hoàn toàn giống hệt cung điện của ông, để sau khi ông qua đời con trai ông có thể có tất cả những lối sống và thói quen của ông. Con trai này có ấn tín của vương quốc, nhưng không đầy đủ, khi nào Đại Hãn vẫn còn trị vì.

Tôi đã kể với các bạn về các cung điện của Chúa thượng và con trai ông, bây giờ tôi muốn nói với các bạn về thành phố lớn Catay nơi xây dựng các cung điện này, và tại sao chúng được xây dựng và xây dựng như thế nào. Thành phố được gọi là Canbaluc. Nói đúng hơn, xưa kia, ở đó có một thành phố to lớn và sang trọng có tên là Canbaluc, trong ngôn ngữ của chúng ta từ này có nghĩa là thành phố của Chúa thượng. Nhưng theo các nhà chiêm tinh, thành phố này có thể nổi loạn và gây nguy hại lớn cho vương quốc, nên Đại Hãn cho xây một thành phố Canbaluc mới gần thành phố cũ với một con sông chảy qua ở giữa. Ông ra lệnh buộc dân cư của thành phố cũ dời qua ở thành phố mà ông đã cho xây. Thành phố được gọi là Taidu (Tatou, tên nguyên thủy của Bắc Kinh). Nó to lớn như tôi sẽ nói với các bạn sau. Chu vi của nó là hai mươi bốn dặm. Mỗi mặt có sáu dặm, vì nó rất vuông vắn từ bên này cũng như bên kia. Nó được bao bọc hoàn toàn bằng những bức tường bằng đất phình ra dưới chân đến mười bước, nhưng trên cao hẹp lại, vì chúng co hẹp lại nên trên cao chỉ còn có ba bước. Toàn bộ bức thành được bố trí những lỗ châu mai màu trắng và cao hơn mười bước. Thành phố có mười hai cửa ra vào, và trên mỗi cửa có một dinh thự lớn rất đẹp, mỗi phía có ba cửa ra vào và năm dinh thự, bởi vì có một dinh thự rất lớn và rất đẹp ở mỗi góc. Các dinh này có những phòng rất lớn trong đó cất giữ vũ khí của những người canh gác thành. Các đường phố thẳng tắp đến nỗi người ta nhìn thấy chúng từ đầu đến cuối và cửa này nhìn thấy cửa kia ở hai đầu đường phố. Trong thành phố còn có những dinh thự rất lớn và đẹp, nhiều nhà trọ xinh xắn cũng như nhiều nhà ở. Giữa thành phố là một dinh thự rất lớn có một chiếc chuông to gióng lên ban đêm, để không ai được đi qua thành phố sau khi chuông điểm ba lần, không ai dám đi ra ngoài vào giờ đó ngoài phụ nữ đang đau đẻ hoặc người bệnh; hơn nữa, những người đi ngoài phố phải mang đèn theo. Như tôi đã nói với các bạn, mỗi cửa thành được lệnh canh gác bởi một nghìn người mang vũ khí, bạn đừng tưởng rằng họ canh gác bởi vì họ sợ một ai đó, họ chỉ làm việc đó nhằm để làm vinh danh và canh gác cho Chúa thượng đang ở trong thành phố này, và thứ đến họ không muốn các quan chỉ huy gây ra bất cứ tổn hại nào cho thành phố.

Tôi đã nói với các bạn về thành phố, bây giờ tôi sẽ nói cho các bạn biết Chúa thượng cai quản triều đình ra sao và về những việc làm khác của ông.

ĐẠI HÃN ĐƯỢC CANH GÁC BỞI 12 NGÀN LÍNH NGỰA NHƯ THẾ NÀO?

Bạn nên biết rằng Đại Hãn được canh gác, vì sự cao trọng của ông, bởi 12 ngàn lính ngựa, những người này được gọi là Quesitans (tiếng Mông Cổ là Kesietou, những con người hạnh phúc), từ này trong tiếng Pháp có nghĩa là: kỵ sĩ trung thành với Chúa thượng. Ông được canh gác không phải vì sợ bất cứ người nào, nhưng vì sự cao sang vĩ đại của ông. Mười hai ngàn người này nằm dưới quyền chỉ huy của bốn vị quan, mỗi vị quan chỉ huy ba ngàn người, và ba ngàn người này ở cung điện của Chúa thượng ba ngày và ba đêm, ăn uống luôn trong cung. Sau đó họ ra đi và ba ngàn quân khác đến thay thế cùng lúc, rồi ra đi để cho những người khác trở lại, sao cho đội canh gác luôn luôn có ba ngàn lính ngựa.

Khi Đại Hãn ngồi vào bàn để chủ trì một cuộc hội họp nào đó, ông ngồi theo cách như sau. Bàn của ông được đặt cao hơn các bàn khác rất nhiều. Ông ngồi ở phía Bắc, sao cho khuôn mặt quay về hướng Nam, người vợ đầu của ông ngồi bên cạnh ông bên tay trái. Bên tay phải, thấp hơn một chút, có các con cháu, họ hàng và những người thuộc hoàng tộc ngồi. Họ ngồi thấp đến mức đầu của họ chỉ đến ngang chân của Chúa thượng.

Các quan đại thần khác ngồi thấp hơn nữa ở những bàn khác. Tiếp theo là các bà vợ, vì tất cả các bà vợ của con Đại Hãn, của các cháu và các bà con khác của ông đều ngồi bên tay trái, thấp hơn nữa. Vì mỗi người ngồi ở nơi do Chúa thượng bố trí, các bàn phải được sắp xếp sao cho Chúa thượng có thể nhìn thấy tất cả từ đầu đến cuối, cho dù số lượng bàn nhiều đến đâu đi nữa. Bên ngoài căn phòng này, có hơn bốn mươi ngàn người đang túc trực, và có nhiều người mang quà tặng, những người từ các nước ngoài mang những vật xa lạ đến dâng cho Chúa thượng. Trong một nơi của căn phòng mà Đại Hãn đang ngồi, có đặt một chiếc vò bằng vàng ròng đựng rượu nhiều bằng một thùng rượu thông thường, mỗi góc của vò rượu lớn này, đều có một vò nhỏ hơn, sao cho rượu của vò lớn chảy vào trong các vò rượu nhỏ bao quanh; tất cả đều đầy thức uống ngon có nêm gia vị hảo hạng chất lượng cao. Người ta rót rượu vào những chiếc cốc lớn bằng vàng ròng, lớn đến nỗi mười người uống cũng đủ. Người ta đặt chiếc cốc này giữa hai người, với hai cốc hanap nhỏ bằng vàng, có vai để họ có thể rót rượu ổ chiếc cốc đặt ở giữa. Các bà vợ cũng có những chiếc cốc riêng. Những chiếc cốc lớn và những chiếc cốc hanap này giá trị bằng cả một kho tàng lớn, vì Đại Hãn có một số lượng cốc chén này và những thứ khác bằng vàng bạc lớn đến nỗi bất kỳ ai không nghe nói và không nhìn thấy cũng không thể nào tin được.

Các bạn cũng nên biết rằng những người dâng thức ăn, thịt và đồ uống cho Đại Hãn đều là các cận thần. Miệng và mũi của họ được che lại bằng những tấm vải nạm vàng và lụa để hơi thở hoặc mùi vị của họ không thấm vào trong thịt và trong đồ uống của Chúa thượng. Khi Chúa sắp uống, tất cả các nhạc khí với số lượng nhiều và đủ loại bắt đầu trỗi lên. Khi ông cầm cốc trên tay, tất cả các cận thần và tất cả những người hiện diện đều quỳ gối và tỏ dấu thần phục; bấy giờ Chúa thượng mới uống; mỗi lần ông uống, mọi người đều làm như các bạn đã nghe nói.

Tôi sẽ không nói với các bạn nhiều về các món ăn, bởi vì mọi người đều có thể tin là số lượng thức ăn rất nhiều và đủ thứ. Những bà vợ của các cận thần và của các kỵ sĩ cũng ăn chung với các phu nhân khác. Sau khi ăn, các bàn ăn được dọn dẹp, một số lớn các nghệ sĩ tung hứng và nhảy múa điêu luyện bước vào phòng, trước mặt Chúa thượng và tất cả những người khác, tất cả mọi thứ đều tạo nên không khí lễ hội trước mặt mọi người, đến nỗi ai nấy cũng đều hân hoan vui sướng. Khi mọi việc hoàn tất, mọi người lui ra và trở về nhà.

ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ CUỘC LỄ MÀ ĐẠI HÃN TỔ CHỨC NHÂN NGÀY SINH CỦA ÔNG

Tất cả những người Tácta đều mừng ngày sinh của mình mỗi năm. Đại Hãn sinh vào ngày 28 âm lịch của tháng Chín. Vào ngày này, người ta tổ chức ngày lễ lớn nhất của cả năm, ngoại trừ lễ mà họ tổ chức vào ngày đầu năm như tôi sẽ kể cho các bạn sau.

Vào ngày sinh của mình, Đại Hãn mặc những bộ y phục nạm vàng. Ngày hôm đó, mười hai ngàn cận thần và kỵ sĩ cùng ăn mặc rất đẹp, cùng màu sắc, cùng kiểu giống như của Chúa thượng, không phải là y phục của họ cũng đắt, nhưng đó là những y phục bằng lụa dát vàng và một chiếc thắt lưng bằng vàng; những thứ y phục này đều do Chúa thượng ban cho họ. Những bộ y phục này có đính nhiều ngọc trai và đá quý nên giá trị của chúng là hơn mười ngàn đồng vàng Byzance (một đồng vàng Byzance bằng 12 franc vàng, tổng cộng là 120.000 franc vàng trước năm 1914 và 24 triệu vào thời đại nhôm). Nên biết rằng, mỗi năm 13 lần, Đại Hãn ban cho mỗi một trong số 12 ngàn cận thần và kỵ sĩ những bộ y phục như tôi đã nói. Mỗi lần ông đều mặc bộ y phục cùng màu với họ, và mỗi lần màu y phục đều khác nhau. Qua đó, các bạn có thể thấy đó là một điều cực kỳ vĩ đại mà không một vị vua nào trên thế gian này có thể làm hoặc duy trì nó, ngoại trừ Đại Hãn ra.

Cũng trong ngày sinh này, tất cả những người Tácta trên thế giới và tất cả các miền, tỉnh dưới quyền cai trị của ông đều dâng lên cho ông những món quà đắt giá, mỗi người tùy theo sự giàu có của mình. Ngoài ra còn có nhiều người khác đến với những quà tặng to lớn để xin ông ban cho những ân huệ. Chúa thượng bổ nhiệm mười hai cận thần để phụ trách việc ban cho từng người ơn gì thích hợp với họ. Hơn nữa, vào ngày hôm đó, tất cả những tín đồ ngẫu tượng, những người Sarrasin, những người Ki tô giáo, những dân tộc khác nữa đều đọc kinh cầu nguyện, mỗi người cầu nguyện thần linh của mình, bằng những tiếng hát rộn ràng dưới ánh nến tỏa sáng và hương thơm ngào ngạt để thần linh che chở bảo vệ cho Chúa thượng và ban cho ông sống lâu, vui vẻ và tràn đầy sức khỏe.

Bầy giờ chúng tôi sẽ nói với các bạn về một đại lễ khác mà họ mừng vào ngày đầu năm và được gọi là Lễ Trắng.