ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ THÀNH PHỐ FUGUI SANG TRỌNG
Thành phố Fugui là thủ đô của vương quốc có tên là Chonka, và là một trong 9 miền của lãnh thổ Mangi. Trong thành phố này, việc buôn bán sầm uất và có những nghề quan trọng, ở đây có một số lớn quân lính của Đại Hãn trú đóng, để vương quốc được canh phòng cẩn mật, vì thành phố này quen nổi loạn; nhưng mỗi lần một thành phố hoặc thị trấn nào nổi loạn, quân lính liền đi đến đó và tiêu diệt tất cả dân cư. Giữa thành phố này có một con sông lớn, rộng một dặm chảy qua. Thành phố còn sản xuất nhiều đường; người ta còn buôn bán ngọc trai và đá quý, vì có nhiều tàu từ Ấn Độ đến mang theo nhiều mặt hàng hiếm. Gần thành phố này có hải cảng Caiton nằm trên biển Océane, con sông vừa nêu trên cũng chảy đến hải cảng này. Họ cũng có những khu vườn đẹp tuyệt vời. Đây là một thành phố rất đẹp và hết sức ngăn nắp. Ở đày, người ta tìm thấy có đủ những thứ nhu yếu phẩm.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ THÀNH PHỐ CAITON
Từ Fugui, vượt qua sông và đi ngựa mất năm ngày qua một xứ sở rất đẹp, chúng ta gặp thành phố Caiton (Thsiouan Tchéou, đối diện đảo Formose và không có gì giống với Canton) rất lớn và sang trọng, nó trực thuộc Fugui và thần phục Đại Hãn. Trong thành phố này có hải cảng Caiton, tất cả các tàu từ Ấn Độ đến đây đều mang theo những thứ gia vị và các hàng hóa quý giá khác; đó là hải cảng mà các nhà buôn Mangi đều ghé đến, vì vậy ở đây, có rất nhiều hàng hóa, đá quý, ngọc trai; từ hải cảng này, hàng hóa tràn vào trong toàn xứ Mangi. Tôi cho các bạn biết rằng, đến Alexandrie hoặc nơi nào khác, chỉ cần một con tàu chở tiêu cũng đủ để mang đến đất của những người Ki tô giáo, nhưng có đến một trăm hoặc hơn nữa loại tàu này đến hải cảng Caiton. Điều này có nghĩa là Đại Hãn thu được những số tiền thuế đáng kể từ hải cảng này. Vì tất, cả các hàng hóa đến đó đều phải nộp cho Đại Hãn 10% số tiền thuế quan, tiền này đóng trên đá quý, ngọc trai và các loại hàng hóa dễ vỡ; nhưng đối với tiêu, đó là 44%, đối với gỗ aloes, đàn hương và các loại hàng hóa khác là 50%.
Gần thành phố Caiton này, có một thành phố khác tên là Tinugui, nơi người ta sản xuất những chiếc bát sứ rất đẹp. Người ta không làm đồ sứ này trong bất cứ hải cảng nào khác ngoài hải cảng này; đồ sứ có rất nhiều, nên rẻ đến nỗi với một đồng lớn Venise, người ta có thể mua được ba cái bát đẹp đến mức người ta không thể muốn thứ gì tốt hơn nữa.
Bây giờ các bạn đã nghe nói đến toàn bộ sinh hoạt của Catay, Mangi và nhiều vùng khác cũng như những thói quen của người dân về việc buôn bán vàng bạc và tất cả những thứ khác có ở đó. Nhưng quyển sách của chúng tôi chưa chứa tất cả điều mà chúng tôi muốn viết ra, vì còn có toàn bộ hoạt động của những người Ấn Độ và những việc quan trọng của Ấn Độ đáng được kể lại, vì chúng rất kỳ diệu, có thật và không chút dối trá nào. Chúng tôi viết ra đây theo như lời Ngài Marco Polo kể lại: ông biết những điều đó một cách đầy đủ vì ông đã ở Ấn Độ rất lâu, ông điều tra và hỏi han về những phong tục, những điều kiện sống của dân cư đến nỗi tôi có thể nói với các bạn là chưa bao giờ người nào biết nhiều và nhìn thấy nhiều như ông ta.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ NHỮNG ĐlỀU KỲ LẠ Ở NƯỚC ẤN ĐỘ VÀ VỀ NHỮNG CHIẾC TÀU Ở ĐÓ
Sau khi đã nói với các bạn về những vùng đất trên đây, chúng tôi sẽ nói về nước Ấn Độ và những điều kỳ diệu ở nước đó. Trước hết, chúng tôi nói đến những chiếc tàu, nhờ chúng mà các nhà buôn đi đến các đảo của Ấn Độ. Các con tàu đều được làm bằng gỗ thông và chỉ có một thượng tầng. Mỗi tàu có từ 50 đến 60 phòng để các thương nhân ăn ở thoải mái. Chúng có một bánh lái và bốn cột buồm; đôi khi chúng còn có hai cột buồm khác được gắn thêm vào và cất đi tùy ý. Chúng được đóng bằng đinh sắt tốt, nẹp tôn bên trong và bên ngoài nhưng không trét nhựa dính, vì họ không có thứ đó, nhưng người ta trét cho chúng một thứ mà tôi sẽ cho các bạn biết; nó cũng tương đương hoặc hơn cả nhựa dính nữa; người ta lấy vôi sống và đay giã nhỏ, rồi trộn với nhựa thông, vật liệu này giữ cho chúng rất bền. Các bạn nên biết rằng mỗi một con tàu lớn có thể chứa đến 200 thủy thủ, vì chúng rất lớn và có thể chở từ 05 đến 06 ngàn đơn vị trọng tải tiêu. Chúng chạy bằng mái chèo khi không có gió, các mái chèo lớn đến mức bốn thủy thủ mới thao tác được một mái. Mỗi một con tàu lớn có ở phía sau nó hai xà lan chứa từ 40 đến 50 thủy thủ trên mỗi chiếc, chúng vận hành bằng mái chèo và giúp lai tàu lớn theo dây cáp; hơn nữa có 10 tàu nhỏ làm công việc phục vụ cho tàu lớn như bó neo, bắt cá và cung cấp những thứ cần thiết. Khi tàu vận hành bằng buồm, những con tàu nhỏ được buộc vào tàu lớn, chiếc này sau chiếc nọ. Nó kéo chúng theo phía sau; nhưng hai chiếc xà lan cũng có buồm để lướt đi và điều khiển giống như con tàu lớn. Những con tàu này được sửa chữa mỗi năm một lần: người ta gia cố cho nó bằng một lớp ván được bào nhẵn và rất ăn khớp được bố trí trên những tấm ván khác theo cách như những tấm này đã được lắp ghép lúc ban đầu. Người ta cũng làm như thế đối với những chiếc xà lan. Và bạn nên biết rằng, sự gia cố hàng năm này có thể đạt đến sáu lớp ván. Sau đó, người ta sẽ ngừng gia cố; khi chúng có được sáu lớp chất chồng lên nhau, người ta không cho chúng ra khơi nữa, nhưng chỉ sử dụng trong những vùng nước ven bờ càng lâu càng tốt; sau đó người ta mới rã chúng ra.
Tôi đã nói với các bạn về những con tàu lớn đi biển Océane và các đảo Ấn Độ, bây giờ chúng ta sẽ nói đến những điều kỳ diệu về đất nước Ấn Độ.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ ĐẢO CINPINGU
Cinpingu (Cypangou hoặc Cipango, đó là Nhật Bản) là một đảo nằm ở ngoài khơi về phía Đông cách xa đất liền 1500 dặm. Đây là một hòn đảo rất lớn. Dân cư đều là người da trắng có phong cách lịch sự. Họ thờ ngẫu tượng và sống độc lập. Họ có vàng nhiều vô kể, vì họ tìm thấy nó trên các đảo của họ. Ít có nhà buôn nào đến đó vì nó ở quá xa đất liền, chính vì vậy mà vàng ở đó nhiều vô kể. Tôi sẽ kể cho các bạn nghe một chuyện hết sức kỳ diệu về cung điện của vị chúa đảo này. Nên biết rằng không có cung điện lớn nào được hoàn toàn dát bằng vàng ròng, giống như các nhà thờ của chúng ta được bọc bằng chì.
Tất cả những mặt lát và các phòng của cung diện đều lát bằng những tấm lát vàng dày bằng hai ngón tay; các cửa sổ cũng bằng vàng ròng, nên cung điện đắt giá đến mức không ai có thể tin được. Ở đó người ta cũng thấy nhiều loại đá quý và nhiều gà mái đỏ thịt ăn rất ngon.
Người ta báo cho Cublay khan về sự giàu có quá mức ở trên đảo này, ông liền nghĩ cách chiếm đoạt nó. Ông phái đến đó hai đại thần với nhiều tàu và một số lớn lính ngựa và lính bộ. Một vị đại thần có tên là Abacan và vị kia là Vonsanicin. Cả hai đều là những người khôn ngoan và dũng cảm. Và tôi sẽ nói gì nữa đây? Họ lên tàu ra khơi cùng với toàn bộ quân lính từ các cảng Caiton và Quinsay. Không bao lâu họ đến đảo và đổ bộ lên đảo, chiếm lấy đất đai làng mạc nhưng không có một thành phố hoặc thị trấn nào. Một sự rủi ro chợt xảy đến cho họ như tôi sẽ nói sau đây. Ở đây, gió bấc thổi rất mạnh và gây thiệt hại lớn trên đảo này. Vì có ít hải cảng, các chiến thuyền của Đại Hãn không thể chống cự lại những cơn gió quá mạnh. Vì vậy họ nghĩ rằng, nếu họ ở lại đó, đội tàu của họ sẽ bị đắm. Họ lên tàu căng buồm và bỏ đi khỏi đảo. Khi đi được một lúc, họ gặp một hòn đảo nhỏ và bị gió đẩy vào đảo trái với ý muốn của họ. Đội tàu của họ bị vỡ và phần lớn quân lính bị chết đuối, đến nỗi chỉ còn lại có 30 ngàn người thoát chết đành phải trốn lên đảo. Họ được xem như chết, vì không có lương thực. Họ hết sức cay đắng vì họ thấy nhiều tàu lớn còn lành lặn thoát khỏi cơn đắm tàu vội đi về nước thật nhanh mà không muốn quay lại giúp đỡ họ; điều này là do hai vị đại thần, những người chỉ huy đội quân rất ganh ghét nhau; do đó vị chỉ huy thoát khỏi trận bão giả vờ không thể quay lại với người bạn đồng hành đang mắc kẹt trên đảo, vì ông ta có thể làm điều này, khi gió không kéo dài bao lâu đã lắng xuống. Nhưng ông ta lại không làm và đi thẳng về nước mình. Nên biết rằng hòn đảo mà những người đắm tàu sống sót đổ bộ lên không thể ở được, vì ở đó không có bất cứ sinh vật nào ngoài họ.