← Quay lại trang sách

- 2 -

Lúc tôi tỉnh dậy, trời đã muốn về trưa. Dì Năm từ phòng bên đem sang cho tôi ly sữa nóng và mấy viên thuốc màu đỏ. Dì bảo tôi bị trúng gió, cảm lạnh, nhưng không sao. Tôi hỏi Chất đâu và nhìn ra ngoài trời. Mưa vẫn đều hạt dù không gian có vẻ hanh vắng. Dì Năm bảo chàng mới đi ra ngoài.

Tôi nói:

-Mưa thế này sao dì để Chất đi?

Dì Năm chép miệng:

-Ừ, dì có cản đó chứ. Mà Chất nó cứ đòi đi. Nó nói ra ngoài một chút thôi nó sẽ về ngay.

-Con sợ Chất đi lạc đường mất.

-Không có đâu. Chắc nó cũng chả đi đâu xa. Lần đầu tiên nó lên đây đấy hả?

-Không lần thứ ba rồi. Nhưng là lần đầu tiên Chất ra khỏi thị trấn!

-Sao nó biết con ở đây mà đến kiếm vậy?

-Con cũng không biết nữa dì.

-A mà tôi xin cô. Nói gì thì nói cô uống giùm cho tôi mấy viên thuốc này đi đã. Dì Năm bỗng đổi giọng.

Tôi cười cười đỡ lấy ly sữa. Những dòng sữa ngọt chảy nhanh trong cuống họng tôi. Tôi tỉnh dần cùng những diễn biến chiều hôm trước phục sinh, và nỗi lo lắng cồn cào về chàng. Tôi không thể nghĩ được nơi chàng đang đến. Tôi không thể đoán được lối chàng đang đi trong cơn mưa và trong cái giá rét tái thâm thịt da này.

Nhìn theo bóng dáng còm cõi của dì Năm với chiếc ly sữa cạn trên tay, tôi lại liên tưởng tới hình ảnh người mẹ còn trẻ nhưng đã sớm già nua với những âu lo, những dằn vặt, những chịu đựng âm thầm từ một người chồng khó tính, lặng lẽ ít biểu lộ tình cảm, và hai đứa con. Một đứa đi lính mấy năm bị thương ba bốn lần, được giải ngũ, trở về với một người vợ nhố nhăng, kết cuộc là trở về sống với cha mẹ ruột, và đứa con thứ hai, là tôi, trên tám năm nay, kể như, đã không còn là của người.

Nếu người con gái dễ đem cảm tưởng gần gũi, an ủi lại cho người mẹ nhất thì cũng lại người ngắt hái đi những tình cảm đó mau chóng nhất và sạch cạn nhất. Tôi không tin có thể xẩy ra một trường hợp, mà trong đó tình mẫu tử giết chết tình yêu, nếu quả thực tình yêu đó là tình yêu. Chỉ có sự ngang bằng. Đó là mức tối đa và hiếm hoi mà tình mẫu tử có thể đạt được trong tâm hồn của một người con gái đang yêu. Tôi ở trường hợp này. Và chính trạng thái lơ lửng kia đã xẻ đôi tôi trong những mâu thuẫn trùng điệp của những khoảng khắc tiếp nối.

Tôi nghe đầu óc mình khô rang, thân thể nhẹ bổng như được tắm gội, được chiếu rọi bởi những đọt nắng sớm mai nào xa tắp, thứ nắng sớm không mọc lên từ một chân trời – thứ nắng sớm không được chiếu tới một phía mắt nhìn – Thứ nắng sớm phải được đón nhận bằng hồn, phải được hứng lấy bằng tim, phải được giữ nuôi bằng sự tĩnh lặng hoàn toàn của mọi giác quan, mọi cảm tính. Thứ nắng sớm căng mỏng ta, rộng ra trên giường nằm, thứ nắng sớm có thể chia cắt ta thành những ô vuông cho những gót chân son lò cò nhảy mê tới khi có thể “ăn” được một thửa ruộng, “vạch” được một ao cá. Thứ nắng tinh khôi. Thứ nắng của bắt đầu. Một bắt đầu ngượng ngùng, e thẹn.

Tôi nhổm dậy, tựa lưng vào vách tường lạnh.

Trời vẫn mưa, bên ngoài, thấp thoáng những hàng cây rũ lá, như những thiếu nữ lướt thướt trong tấm áo dài xanh mướt, lụng thụng và những mái tóc xuôi, chảy xuống thẳng, không được đỡ nâng bởi những gờ vai dù yếu ớt. Những hạt mưa cho tôi cảm giác thêm một ngày đã đi sâu, đã vào tới cõi mênh mang của nỗi muộn phiền vô cớ (Những vực thẳm luôn luôn cho ta bơi lội nhẹ nhàng nhưng vẫn kịp nghe được ở bên tai, văng vẳng một điệu nhạc buồn bã lạ lạ, xa xa. Một điệu nhạc gợi nhớ tới một dĩ vãng nào đó, mặc dù, sự thực, có thể cả quãng đời đã qua của ta, chưa dễ gì đủ giúp ta nhặt gom thành một dĩ vãng).

Những hạt mưa, rơi bên ngoài khoảng trống vắng êm đềm của trí óc, không còn cho tôi cái ngậm ngùi của một “ đèo thưa, quán chặt”, nó đã biến thể. Nó đã khiến tôi mơ ước trở về nhỏ dại, dưới những dòng mưa xối đều ở một mái hiên, những lọn tóc cũn cỡn ép xuống, và mắt nhắm và mặt ngửa. Và mưa. Mưa đầm đìa. Mưa mát ngọt trên thân thể chưa phải nghĩ tới những phủ che cần thiết.

Mưa. Mưa mãi. Như tiếng cười của em rơi vỡ trong suốt của đêm trên hàng hiên hai hè phố.

… Nhưng tất cả đã quá muộn rồi phải không anh? Dù sự muộn màng hay quá sớm không ở nơi sự kiện mà ở chính tâm hồn ta, một phút giây sau, một giờ khắc trước không có gì được mang tên hay định tính nếu chúng ta không khoác mặc hay gắn gán cho nó.

Nhưng mà anh, dẫu sao thì, em cũng không thể làm khác hơn. Sự có mặt của P. luôn nhắc nhở em, một phản bội tồi tệ và trắng trợn. Không. Chẳng bao giờ có thể, nhưng… (lại nhưng), em vẫn không thể quên rằng P. vẫn còn đấy, cho dù P. có chết, cho dù P. không còn ở bên anh. Em có thể làm gì và phải làm gì, trước người đàn bà hiền lành vô tội đó. Trong khi, sự thực, họ cũng chỉ là một thứ nạn nhân, như em, chỉ khác nhau, cách thế của sự trở thành và ý nghĩa cuối cùng mang đến của cái phải gọi là nạn nhân đó mà thôi. Hơn nữa, xét cho cùng, đã chắc đâu, anh chưa phải là nạn nhân của chính anh. Có lẽ đó cũng là lý do cho tình yêu tồn tại, vì chỉ có tình yêu mới giải thích được cái mâu thuẫn mắt xích này.

Tôi đứng dậy, người loạng choạng muốn ngã. Tôi phải vịn tay vào bờ tường một lát trước khi xuống bếp.

Dì Năm ngừng tay giặt quần áo, ngước nhìn tôi cười âu yếm. Tôi cũng cười.

Dì nói:

- Bằng lòng nhá!

Tôi hiểu điều Dì muốn nói, nhưng vẫn làm bộ:

- Bằng lòng cái gì cơ ạ?

-Còn cái gì nữa. Mấy hôm nay con bần thần bứt rứt hết ra lại vào, như người cuồng căng? Làm Dì vừa lo ngại vừa tội nghiệp con.

Tôi né tránh:

-Dì thấy con hay không?

-Hay. Dì Năm nói giọng bỡn cợt.

-Hay thiệt đó chớ Dì. Con có linh tính đúng lắm. Con biết mà.

-Ừ. Con tài thiệt. Mai mốt chắc nắng to à nghe

Tôi nghe bừng nóng ở hai mang tai.

-Dì cứ chọc con không à.

Dì Năm cười lớn:

-Nào bây giờ tính sao?

-Con thực tình không hiểu thưa Dì.

-Con tiếp tục ở đây với Dì hay về Saigon với Chất.

-Về Saigon! (Tôi gằn giọng). Không, chẳng đời nào.

Tôi ngồi xuống bên cạnh Dì Năm, nói tiếp:

-Có bao giờ Dì phải chạy trốn ngay cả niềm mơ ước của mình chưa Dì?

-Ra sao mới được chứ. Chuyện chi đến đổi phải chạy trốn chính mơ ước của mình một khi nó đến. Con cứ quá đáng hoài.

Dì Năm nói giọng thở ra muốn gạt đi.

Tôi lắc đầu:

-Nào có phải con muốn vậy đâu. Ai đời muốn vậy bao giờ. Tại hoàn cảnh mà.

Tôi nói và thấy nước mắt đã lại ròng ròng chảy xuống.

Dì Năm nhăn mặt:

-Con cứ vậy hoài Chất nó buồn. Con phải biết vậy chứ. Nó lặn lội đến đây tìm con. Lẽ ra con phải vui vẻ, mừng rỡ mới đúng. Đằng này con cứ khóc không.

-Vâng. Con cũng vui lắm. Con cũng mừng lắm chứ Dì. Mà con cũng không hiểu sao con lại khóc nữa.

-Hai đứa có chuyện gì hả?

-Không Dì. Không có chuyện chi hết. Có lẽ tại lâu ngày con không được khóc nên con thèm và lúc khóc được thì khóc luôn, dù chẳng có chuyện gì.

Giữa lúc đó, Chất trở về. Chàng đi rót cho tôi một ly nước trà. Đặt lên mặt table de nuit, Chất nói:

-Em uống một chút cho nó khỏe.

Tôi nhìn chàng cười.

Dì Năm cũng cười:

-Điệu này sắp hết mưa đây. Mai nắng to rồi.

-Con cũng mong vậy. Chất ngay tình.

Dì Năm lắc đầu.

-Không. Dì muốn nói khóc hoài thế này thì trời còn nước đâu nữa mà mưa.

Chàng cười lớn. Tôi mắc cỡ nắm lấy tay Dì Năm.

Mưa vẫn không có một dấu hiệu đổi khác nào.

Dì Năm đứng lên:

-Thôi cho Dì xuống bếp, còn làm cơm ăn chứ. Tôi e ngại nhìn theo Dì rồi cúi xuống.

Dì Năm nói tiếp:

-Không được nghĩ vơ vẩn nữa à nghe. Để Dì xuống bếp dọn cơm lên cho mà ăn.

Ăn xong bữa cơm thì trời bỗng nhiên như hừng nắng và mưa thưa hạt, như muốn dứt. Chúng tôi cũng mừng rỡ và mong mỏi như nỗi mong mỏi của người ngồi tù được trả lại tự do.

Tôi cảm thấy khỏe khoắn trong người mặc dù suốt bữa tôi không ăn được hơn một thìa cơm.

Tôi phụ với Dì Năm dọn dẹp trong lúc chàng ra nhà ngoài hút thuốc.

Lúc thấy tôi dưới bếp lên, chàng ngước nhìn tôi cười. Không bảo, chúng tôi cùng ra hiên.

Ngồi thõng chân nơi bậc thềm, tôi nói:

-Anh ở đây được bao lâu?

-Hai hay ba ngày.

-Không thể lâu hơn?

-Có những việc người ta không thể giải quyết trong một vài ngày.

-Em có đòi gì đâu. Thế này, đã là quá đủ. Em chỉ muốn nói là làm gì có xe cho anh về thành phố.

-Có. Xe nó sẽ trở lại, trong vòng hai ngày nữa và nó sẽ dừng ở chỗ anh đã xuống.

-Anh có dặn trước?

-Tất nhiên.

-P. sao?

-Em muốn nói gì?

-Sức khỏe. Sự liên hệ giữa anh và P. thí dụ.

-À. P. vẫn thường.

-Không có gì đổi khác.

-Làm sao không. Bao nhiêu năm qua. Quá nhiều đổi thay và biến cố. Hãy tạm dùng chữ đó. Nhưng…

-Nhưng sao?

-Nhưng đó là những điều mà anh nghĩ rằng em không muốn nghe.

-Đúng thế. Em không muốn nghe.

-Dù nó là sự thực?

-Vâng. Dù nó là sự thực. Bởi hai lý do. Một là có những sự thực làm mình choáng váng. Hai là cũng có những sự thực anh sẽ không đủ can đảm nói ra với em. Em không muốn dồn anh tới chỗ phải nói dối.

-Em mang nhiều mặc cảm quá.

-Có thể anh nói đúng. Tuy nhiên, nếu anh muốn lừa dối một người như em, đó là điều quá dễ dàng. Cho đến bây giờ em vẫn không hề biết ai khác hơn anh. Nói một cách khác thì em đã chọn nơi chốn cho sự chết của mình. Nếu anh làm nên những giấc mơ trong em, thì anh cũng là một mộ địa, nơi chôn vùi những giấc mơ kia và ngay chính cả thân xác em.

-Chúng ta không thể làm gì khác hơn cho nhau sao?

-Có chứ. Nhưng với em thì không.

-Sao không?

-Không sao hết.

-Mà thôi. Không nói chuyện đó nữa. Anh muốn hỏi em tại sao bỗng dưng em biệt tăm mấy năm vừa qua?

-Anh muốn tìm hiểu lý sự đau đớn cùng cực của một người khác?

-Cũng không hẳn. Anh tìm em khắp nơi.

-Ai chỉ anh đến đây.

-Một tình cờ. Một may mắn.

Chất cầm lấy tay tôi. Bàn tay chàng hâm hấp.

Tôi run rẩy muốn rút tay về:

-Anh.

-Anh vẫn lắng nghe đây.

-Bỏ em ra. Em sợ lắm. Đừng làm vậy.

-Có gì đâu. Em có vẻ khó chịu?

-Không, em sợ. Em run quá. Anh không thấy sao?

-Hy vọng chiều nay hay ngày mai trời có nắng.

Chàng nói. Tôi nhìn ra ngoài trời. Mưa vẫn mưa, nhưng trên những cánh lá xòe thấp đã thấy ánh lên một chút nắng yếu ớt.

Tôi thì không mong mưa hay nắng. Vì mưa hay nắng thì chỉ trong vài ngày nữa, chàng lại rời khỏi nơi này. Bao nhiêu năm bặt chết tin nhau, được gặp trong khoảng khắc rồi lại chia tay. Chất đi là hết. Chất yên lòng. Nhưng Chất đâu có hiểu là sự tìm đến của Chất, đã làm sống dậy trong tôi những tủi hờn đã lắng, những khát khao đã nguội, những mơ ước đã tàn. Trước sau gì, tôi cũng chỉ là một người đàn bà. Nghĩa là tôi cũng có đầy đủ mọi tật xấu. Tôi cũng ích kỷ, cũng tham lam, cũng mưu mô tính toán, liều lĩnh, nếu cần. Chất đã cố tình không để cho tôi yên. Tôi muốn làm người, làm một người cao thượng, dù là để được như vậy, tôi phải tự cải dạng, tôi phải biến thân thành một pho tượng gỗ, thành một khúc cây rỗng ruột. Nhưng Chất đã không muốn để tôi yên bề làm một pho tượng gỗ. Chất muốn tôi khác hơn thế. Chắc rồi tôi cũng phải khác. Những đầu rắn, những nọc độc trong người tôi lúc nào cũng chỉ chờ đợi, âm thầm chờ đợi cơ hội tốt. Phải thế không? Tôi muốn nhìn rõ mặt mình một lần. Cũng nên lắm. Tôi chưa từng nhìn rõ tôi, tám năm qua. Tám năm qua, tôi chỉ thấy cái bóng mình, cái bóng của một hồn xác đã chết. Nhưng liệu rồi tôi có dám vào cuộc chăng? Tôi còn nhiều ràng buộc quá. Tôi còn quá nhút nhát e dè. Tôi chưa hề tự quyết định lấy một việc gì cho đời mình, ngoài việc chạy trốn chính tôi, chạy trốn chính mình, hình như tôi sinh ra để luôn luôn từ chối; lắc đầu chứ không phải để đón nhận, để gật đầu, để mắt mở, ngực căng, tiến tới. Tôi thèm cái cương quyết đến độ gần như quyết liệt của Hòa trong tình yêu với Sinh. Và kết quả là họ đã lấy được nhau. Tôi cũng thèm cả cái lạnh nhạt ơ thờ đến bất nhẫn của Ngọc trước sự khẩn cầu của người mà Ngọc đã từng yêu, sau khi đã chấm dứt. Tôi thèm cả cái liều lĩnh trong dối trá của những người con gái mới lớn trốn nhà, bằng mọi cách để đến được chỗ hẹn với người mình tưởng nhớ. Tôi cho hành động này là một thứ lãng mạn tuyệt vời. Thứ hạnh phúc ngạt ngào nhất, thứ báu vật thiêng liêng của một thời mà trời đã dành riêng cho những người con gái. Vì qua tuổi đó khi đã hết những bước chân run, những bàn tay víu bám, họ sẽ phải chịu biết bao cực nhọc mà số kiếp đã dành sẵn cho những đời đàn bà. Tôi không được hưởng tôi không có được những giây phút của tình yêu thánh thiện trẻ thơ đó. Tôi không có đến cả những nhỏ nhoi nhất mà một người con gái mới lớn, đến với tình yêu, được hưởng. Tôi đã già nua, đã lụ khụ, ngay tự phút đầu của sự sống mở ra, chập chững. Tôi đã đau vùi, đã nghẹn xót, ngay từ những mắt nhìn đầu tiên. Buổi sáng tinh khôi đầu đời mình tôi đã không được nói những lời của chim chóc. Tôi cũng không được nghe những dạt dào của nắng ấm xô đuổi trên cành lá còn đẫm sương mù. Buổi sáng tinh khôi, với tôi đã là một buổi chiều chết. Một buổi chiều của những cơn bão lớn. Một buổi chiều của điềm ứng báo trước cho một tương lai tận cùng khổ nhục, cạn cuối thương đau. Một buổi chiều kinh hoàng trong một chớp mắt, và buổi chiều, ác nghiệt thay đã ở lại trong tôi, mãi mãi cho đến giờ này, khi tôi đã cam đành thất chí.

Tôi giật mình bừng tỉnh như người vừa qua một cơn mơ ngắn lúc bàn tay Chất, quờ quạng trước mặt. Tôi rúm người khi nhận ra, Chất đã quàng tay qua vai tôi từ lúc nào. Tôi lẩy bẩy gỡ tay Chất.

Nhưng hình như trong hành động của tôi thiếu phần cương quyết. Cái ngập ngừng run rẩy thấy rõ, nhận ngay khi tôi chạm vào tay chàng. Một đụng chạm ngây ngất đầu đời. Một đụng chạm như luồng điện mạnh chạy suốt qua cùng khắp thân thể làm tôi cứng tê trong một cảm giác lạ lẫm bàng hoàng.

-Anh. Bỏ tay xuống, anh. Em sợ. Đừng làm vậy anh. Em sợ lắm.

Chất như không nghe thấy lời tôi. Chàng tiếp tục bấm sâu những ngón tay thỏi sắt xuống vai tôi. Tôi rùng mình, oằn oại. Cảm giác chìm khuất, tan loãng dìu đưa tôi vào một thế giới mịt mù với những bước hụt hẫng, châng lâng.

Chợt Chất nói.

-Lại kia đi em.

Tôi nhìn theo tay chỉ của chàng.

-Lâu đài?

-Ừ. Lâu đài.

-Anh muốn vào đó?

Chất không trả lời câu hỏi của tôi. Chàng nói:

-Ai giữ chìa khóa?

-Dì Năm.

-Nói với Dì Năm cho anh mượn.

-Nói sao?

-Nói anh muốn thăm tòa lâu đài.

- Có gì đầu mà thăm. Căn nhà cũ có nhiều phòng và đồ đạc.

- Chính vì cái cũ kỹ đó.

Chất đứng dậy. Đi xuống bếp.

Tôi ngồi lại một mình trên bậc thềm

Mưa đã nhỏ nhưng vẫn còn đều đều hạt.

Hạnh phúc phải chăng chỉ đến trong những giây phút bất ngờ. Và những bất ngờ này, làm nên đời sống. Có lẽ vì thế. Vì những bất ngờ ngắn ngủi đó, mà người ta có thể sống để chờ đợi nó. Tôi không thích mọi bất ngờ xảy tới, dù là bất ngờ của hạnh phúc. Tôi là đứa con gái muốn xây dựng đời mình, tất cả, mọi sự, trên một căn ván vững chắc.

Tôi bằng lòng một đau khổ triền miên trùng điệp hơn thứ hạnh phúc thoáng qua, chập chờn, ẩn hiện ở ngoài mình. Ai bảo là trong sự cưng dưỡng đau đớn, nuôi nấng tuyệt vọng âm thầm không có những hạnh phúc riêng? Tất cả là thói quen. Tôi đã tập được cho mình cái thói quen sống ẩn nhẫn, lẩn lút như một con vật bị bỏ quên trong một xó góc tăm tối nhất của đời sống. Tôi sợ ánh sáng. Đã bao năm, tôi quen nhìn bóng tối. Bóng tối, thực sự gần gũi với tôi hơn. Trong bóng lối, tôi có thể mở mắt, mở hết kẽ, nhìn trừng trừng vào tất cả mọi sự vật mù mờ, vào ngay cả khát khao, vào những mơ ước thầm kín, cùng những hận thù, những mâu thuẫn giữa lẽ sống riêng và bổn phận chung, giữa tình cảm và lý trí. Tôi đã chọn lựa thế đứng treo thân, dốc ngược đầu xuống, để làm vừa lòng tất cả. Nếu tôi không ép buộc được ba mẹ tôi, tôi phải chiều theo ý muốn riêng của tôi, để tôi có thể sống những phút tận cùng, thở những hơi thở căng nứt ngực chứa, tắm đẫm thân thể mình những cảm xúc thần kỳ của mùi hơi chàng, của những vòng tay siết, của những cánh môi hôn của… của… Nói gọn là tình yêu, thì tôi cũng không thể, đúng hơn là không muốn ép buộc chàng phải nhượng bộ gia đinh tôi. Tôi không muốn chàng phải khuất phục trước bất cứ cái gì – ai – dù cho kẻ đó là đấng sinh thành ra tôi. Bởi tôi yêu chàng bằng tình yêu, lẫn với niềm tôn kính chân thực.

Chàng có thể ở dưới thấp, có thể ngang với bùn nhơ, nhưng với tôi, trong tôi, chàng vẫn là một ngọn tháp cao vòi vọi, một ngọn hải đăng, soi cho một con tầu đi về ngàn dặm biển khơi, một cánh buồm, thấp thoáng trong những đêm sương trong những chiều gió nổi, trong những đêm bão lớn, mưa dầm.

Chàng phải ở trên chóp đỉnh đó. Vì chàng mang giữ trong người, tình yêu của tôi. Tôi nói. Tình yêu của tôi. Bởi có thể chàng đã không còn yêu tôi. Hay chưa từng yêu tôi.

Ôi manh cờ buồn bã trên ngọn cao tuyệt vọng. Manh cờ rách nát những tháng ngày lầm lũi, âm thầm. Manh cờ, biểu trưng cho một quốc gia, hay cho một tình yêu thì cũng thế. Nó đã trên ngọn trời. Nó đã rách nát. Nó đã đầy mình thương tích. Và tôi, kẻ đứng dưới chân kỳ đài, không còn hy vọng gì kéo xuống, trong tầm tay mình để vá chắp lại những mảnh tả tơi kia. Không. Không bao giờ nữa. Gió đã nổi. Cánh mây đã bay đi. Một trời vẫn mênh mông nỗi chết. Tôi không còn gì. Dù một chút nghị lực. Tôi thiếu thốn. Tôi yếu mềm. Tôi yếu mềm lắm. Tôi không thể tự tranh giành lấy một chút ánh sáng, một lượng không khí để thở.

Chất trở lại đem theo một xâu chìa khóa. Chàng lắc lắc, những chiếc chìa khóa va vào nhau, kêu lên, nghe lạnh nổi da gà.

Chàng hất hàm:

-Hướng dẫn viên, hoạt động lên chớ.

-Anh nhất định đòi vào đó?

-Nhất định thế. Chàng gật đầu.

-Anh đi một mình đi. Em không đi đâu.

-Sao vậy?

Tôi loay hoay tìm chưa ra lý lẽ để biện bác thì dì Năm xuất hiện.

Giọng dì thật tự nhiên:

-Con đưa Chất đi sang nhà bên đó chơi. Mưa thế này đâu có đi chơi đâu được. Qua đó một lát đi rồi về ăn cơm.

Tôi đành phải đứng dậy vì không muốn dì Năm nghi ngờ hay thắc mắc.

Những cơn sóng lạ lẫm, ngại ngùng lại lùa chạy giạt rì rào khắp thân thể tôi. Cùng mùi hơi chàng, mùi thuốc lá lẫn trên tóc, lẫn trên vai, những bước chân lâng lâng ngây ngất như một kẻ đi trong cơn say váng vất. Chàng huýt sáo miệng, nho nhỏ, một bản nhạc tình cũ. Khuôn mặt chàng lắng xuống, một miền xa vắng chua xót, nổi lên ở những nếp nhăn trên vầng trán và đôi gò má cao. Nghĩ tới lúc chàng sẽ rời khỏi đây và không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau một lần nữa, tôi buột miệng:

-Em nghĩ thà anh đừng tìm kiếm và chúng mình đừng gặp gỡ nhau.

-Em muốn thế? Chàng ngừng bước, nhìn vào mặt tôi.

Tôi cúi xuống đáp nhỏ:

-Vâng.

-Nhưng anh đã đến. Chúng ta đã thấy nhau. Một lần. Một lần có thể là vĩnh viễn xa nhau, và cũng có thể là đánh dấu cho một cuộc đổi đời. Em ân hận chăng nếu sự thể sẽ diễn ra như vậy?

- Em sợ không được như vậy, chứ không phải là ân hận. Em nghĩ lúc chúng mình lại xa nhau. Chúng mình lại bắt đầu nữa, cho tám chín năm sẽ tới. Lần này, chắc em sẽ không còn đủ nghị lực chịu đựng. Em kiệt sức rồi.

- Nhưng cũng vẫn phải sống.

- Sống. Có nhiều cách lắm. Sống như chết rồi hay còn hơn chết rồi cũng là sống.

- Em lại nói bậy rồi đó.

Tôi không trả lời chàng.

Chúng tôi bước vào vòm cửa của tòa lâu đài. Con đường giữa, mở ra, mờ mờ sau hai cánh cửa lớn chạm trổ và lồng kính, sâu hút như con đường tưởng tượng dẫn tới địa ngục. Mùi mốc ẩm xông lên. Cái mốc ẩm của những ngôi nhà sau nhiều năm tháng không có người ở.

Chúng tôi cũng ngại ngần không dám bước tới. Chàng loay hoay lần mò tìm nút bật điện trên hai cột xi măng vuông.

-Em biết chỗ bật điện không?

-Không, anh.

-Em chưa vào đây bao giờ?

-Vâng chưa. Chỉ có Dì Năm vào, mỗi khi ông giáo sư Pháp tới ở mà thôi.

-Ông ta đâu?

-Ông ta về Pháp rồi.

-Cái nhà này trả lại?

-Không, thuộc ngôi trường trung học Pháp ở thị xã. Họ thuê dài hạn của một người chủ Việt Nam.

Chợt chàng reo lên:

-Đây rồi.

Cùng với tiếng reo của chàng ánh sáng lóa lên trong khoảnh khắc của chùm đèn lồng treo lủng lẳng ở giữa lối đi.

Mấy con dơi chắc cũng bị chói mắt, bay chập choạng từ góc này, chui vào một góc khác. Tôi nhìn thấy chiếc cầu thang bên tay trái. Chiếc cầu thang dẫn lên tầng lầu thứ nhất. Nơi tôi biết, có một phòng bỏ hoang, không có người ở. Nghe đâu căn phòng, ngày xưa của cô con gái người chủ lâu đài. Cô ta chết trong đó cùng người yêu của cô ta, một thanh niên thuộc giai cấp khác. Có lẽ đó là lý do chính khiến cha cô ta bỏ tòa lâu đài dời gia đình xuống miệt dưới.

Tôi bảo chàng:

-Anh muốn lên trên này không?

-Đi. Anh muốn xem hết ngôi nhà.

-Không. Em muốn anh đưa em lên căn phòng số 5.

-Phòng số 5.

Chàng lặp lại giọng ngạc nhiên.

Tôi vội đáp.

-Em nghe dì Năm nói.

-Nói sao?

-Phòng số 5. Trong đó, có hai người đã chết, cùng lúc.

-Thuộc gia đình này?

-Một người thôi. Con gái. Họ còn để nguyên đồ đạc của cô ta, không thay đổi gì hết.

-Thất vọng vì tình?

-Sao anh đoán vậy?

-Dễ hiểu. Thường chỉ có những thất vọng vì tình yêu mới hay đưa người ta đến chỗ ấy.

-Người ta còn có thể thất vọng, quẩn trí về nhiều cái khác nữa chứ. Tôi cãi.

-Đồng ý. Nhưng hiếm hoi lắm. Những trường hợp tự tử. Người ta có từng thời kỳ, từng hạn tuổi để dễ chết cho một cái gì đó. Người ta có thể chết vì danh vọng tiền bạc, nhưng thường chỉ ở những năm bốn mươi trở đi. Tuy nhiên…

-Sao?

-Bây giờ thì ngoài những phân định tạm thời đó, chúng ta có chung một cái để mà chết. Cũng bất đắc kỳ tử. Cũng tức tưởi. Dù không tự tìm đến.

-Cái gì?

-Chiến tranh.

Tôi bật cười nhỏ.

Chất nắm tay tôi trên những bậc thang gỗ có lót thảm bằng cói. Tấm thảm dài liền chảy xuống như một giải lụa mềm mầu sẫm, đã bạc màu và có nhiều chỗ rách nát.

Chúng tôi lên hết cầu thang thì nhìn thấy khoảng trời mưa ở bên ngoài, dưới thấp, qua một cửa sổ kính đục.

Hành lang lại mở ra với hai dãy phòng im lìm.

Trên cao mùi ẩm mốc ít hơn, nhưng tôi lại nghe thấy lạnh và tanh tanh trong những lượng không khí hít vào.

Tự nhiên tôi nép sát bên chàng như cảm thấy mình đang bị một đe dọa kỳ dị. Chung quanh tôi như đang có nhiều con mắt âm thầm, bí mật theo dõi.

Tôi bắt đầu thấy ân hận vì sự liều lĩnh của mình.

Gió từ cuối hành lang, chỗ nhìn ra một cái ban-công ngó chếch vào một lòng đường, thông thốc thổi tới. Tôi đứng ở đầu này mà còn thấy run rẩy, muốn ngã.

Chất chừng đoán được tâm trạng tôi giao động. Chàng nắm chặt tay tôi, thận trọng bước từng bước ngắn.

Không khí nặng nề, im lặng chập chờn giữa hai chúng tôi. Chất ngừng lại ở căn phòng tôi nói có hai người đã chết ở đó. Chàng tìm chìa khóa và tra vào ổ. Tiếng tách tách của thỏi sắt trong ổ khóa bật trở lại nghe lạnh buốt từng đốt xương. Tôi muốn đưa tay cản chàng, nhưng không được gì toàn thân tôi đang muốn cứng chết.

Chất đẩy cửa. Căn phòng mở ra mờ mờ với ánh sáng yếu ớt. Nhưng nó cũng không đến nỗi như trí tưởng tượng của tôi. Khi căn phòng được sáng soi bởi những ngọn đèn gắn dính hai bên tường với những cái chụp kiểu cổ, trông xa như bằng xà cừ mầu gụ cũ, nó đã không ghê rợn đến như tôi tưởng tượng.

Chất bước vào. Tôi còn tần ngần ở ngưỡng cửa. Chàng quay lại, thấy vậy, kéo tôi vào luôn.

Chàng nói:

-Tay em lạnh quá.

-Vâng.

-Em sợ?

-Không hẳn. Nhưng em buồn.

-Vì nghĩ tới chuyện mình?

-Tại sao?

-Tại thấy người ta!

-Em vẫn chưa nói rõ với anh về người đàn ông đã chết trong căn phòng này.

-Đó là một người mắc bệnh nan y.

-Hủi.

- Không. Lao.

-Đó là lý do của tuyệt vọng?

-Thêm một điều nữa, người thanh niên đó có gia đình.

-Cô gái kia biết rõ?

-Biết.

-Mà vẫn sống?

-Vâng, vẫn sống cho đời cô.

-Sao cô ấy dại vậy?

-Còn em thì khôn?

-Em dễ mủi lòng quá.

-Mà không đúng vậy sao?

-Không. Chuyện mình khác.

-Em vẫn tự dối mình như vậy.

-Đúng, em phải nghĩ thế.

-Anh biết em nghĩ gì mà nói đúng.

-Em nghĩ về chuyện chúng mình.

-Mơ hồ quá. Lúc nào em chẳng nghĩ đến chuyện mình.

-Thế em nghĩ gì?

-Em nghĩ em không được như cô ấy.

-Là sao?

-Sống hết, sống trọn với sự “ngu dại” của mình. Rồi.

-Rồi sao?

-Rồi chết.

-Em nghĩ bậy hoài.

-Không, em nói thật. Thà như vậy, để không ân hận. Không hối tiếc gì hết. Nhưng suốt đời, suốt cuộc tình mình, em chưa một lần dám sống. Khi tuyệt vọng, người ta thường hành động theo cách thế tuyệt vọng của mình. Nhưng em thì không. Em không làm được cả việc đó. Em chìm lần-chìm lần trong đó.

-Còn anh.

-Anh là hòn đá nặng. Anh không là cái phao. Em không thể nổi lên với tảng đá nặng đeo trên cổ mình. Chất thở dài. Chàng ngồi vào chiếc ghế salon, kê góc trái, phía cửa sổ, có tấm màn vải tím rũ xuống. Trên chiếc bàn nhỏ, người ta còn để nguyên những cuốn sách, những vật dụng của hai người đã dùng, trước khi chết. Một bao thuốc không. Một chiếc kẹp tóc nhỏ. Vung vãi ở quanh đó, những mảnh nhỏ của tấm ảnh bị xé vụn.

Trên tường, ngước cao, đối diện với tủ, tấm ảnh người thiếu nữ, còn trẻ, rất trẻ. Có thể ảnh chụp trước khi chết nhiều năm. Khoảng mười sáu tuổi? Mắt lớn. Nhìn thẳng. Tóc xõa tự nhiên. Miệng hơi chúm. Sống mũi thanh, hai cánh ở một cách ngây thơ mà nghịch ngợm. Vầng trán lòa xòa những sợi tóc mảnh. Nghĩa là trong ảnh, dù nước thuốc đã mờ, người ta không thể nghĩ là người con gái dễ thương và nhu mì chết yểu. Càng không thể nói, cô ta đã có những ngày đầu đời, giông bão-những ngày cuối kiếp, khép nhanh-gọn-sắc như một nhát dao. Một chớp sáng lóe nhanh và tắt phụt.

Chất cũng nhìn lên. Tôi có cảm tưởng như cô ta muốn cười với tôi. Gượng cười thôi, không thành nụ cười. Vô tình, chúng tôi cùng quay lại, nhìn nhau sau đó.

Đôi mắt chàng tối sâu, u uẩn. Tôi buông tay. Một xúc động lạ lùng, chợt lùa dạt tới tâm hồn, làm thân thể tôi mềm nhũn, tinh thần tôi trùng lại. Trí óc thênh thang một nỗi hờn tủi xót xa -Không rõ thương mình hay thương người -Không rõ thương chàng, hay thương chính tình yêu của mình và như thế, nước mắt tôi, tự nhiên, thật tự nhiên, nhỏ xuống.

Tôi đứng trước chàng và chỉ nhận ra, tất cả những sự kiện trên khi chàng nắm tay, kéo tôi ngã xuống.

Dầu sao thì ngay khi gặp lại chàng, tôi đã linh cảm rằng những gì tôi muốn giữ, đã đến lúc không thể giữ, những gì tôi muốn giấu, đã đến lúc không thể giấu. Đến lúc. Tôi muốn nói đến sự yếu đuối, sự kiệt lực hoàn toàn của mình trước những dồn dập của một thiết tha, thèm khát sự sống. Tôi muốn nói tới những ngọn lửa âm ỉ trong tôi bao năm -Phút giây bừng cháy. Tôi muốn -Không phải nữa. Tôi không thể chối từ, không thể cương quyết mãi trước tình yêu, trước sự sống. Tôi không còn đứng vững giữa những cái muốn dành riêng cho Chất. Không vội vàng, không gấp gáp, không chóng mặt, không tối tăm, trong sự rơi ngã của mình. Tôi biết, tôi đang từ từ lăn xuống một vực sâu, từ lưng chừng một con dốc thẳng. Tôi biết, tôi đang trở về bằng những chân thật nhất, của trái tim tôi -Không mặt nạ không phấn son. Những bước chân đã vượt khỏi mọi kiểm soát của lý trí -tư tưởng -tự ái -gia đình -danh dự -tương lai. Trước tình yêu, mọi sự đều vô nghĩa, Nó là tất cả. Dù tất cả, được hiểu như một thiên đàng hay một địa ngục.

Tôi ngã rơi xuống vùng hơi thở chàng ngái ngát. Tôi lăn đi, nhiều vòng trong tay chàng xa lạ, buồn bã. Tôi nhắm mắt, trong lúc mắt chàng cháy lửa hận thù, cừu oán. Tôi chết đi. Tôi ngất đi. Tôi vô tri, vô giác trong thân thể chàng thảm hại, phản trắc.

Tôi ở đâu? Tôi đã xa lạ tôi rồi. Chàng ở đâu? Chàng đã ở ngoài tôi, từ bao lâu rồi.

Nếu em có giết được anh, thì cũng chỉ là sự day cứa hay đâm rạch trên một cái xác, đã chết. Sự giết chết, không còn nghĩa gì, khi đó là sự giết chết lần thứ hai, một cái xác đã chết.

Nhưng mà anh. Chính anh. Anh đã giết em -Một lần nữa. Một lần nữa, trên cái phần hồn mong manh còn lại của một quá khứ xa xăm.

Tôi vịn tay vào vai ghế, nhỏm người ngồi dậy. Tôi gọi vọng Kiệm ở trong bếp. Kiệm là con nhỏ giúp việc cho Ngọc, mẹ Kiệm ngày xưa làm cho gia đình Ngọc. Sau khi Ngọc xin đổi ra ngoài này, mẹ Kiệm cho Kiệm đi theo Ngọc và nhờ Ngọc trông nom giùm. Kiệm giúp việc vặt trong nhà cho Ngọc, chiều Kiệm đi học và tối về Ngọc chỉ thêm. Tuy là người giúp việc nhưng tôi biết Ngọc thương Kiệm như em ruột của mình, ngược lại Kiệm cũng quyến luyến Ngọc lắm.

Nghe tôi gọi, từ dưới bếp Kiệm vội vàng chạy lên ra ngoài hàng hiên:

-Cô gọi cháu?

-Ừ. Kiệm có bận gì không?

-Không, thưa cô. Cháu lặt rau rồi, gạo cũng vừa vo xong.

Tôi quờ quờ tay, tìm tay nó.

Kiệm đưa tay cho tôi nắm. Bàn tay nó nhỏ, mảnh, mỏng và mát rượi như một miếng lá chuối còn non. Tôi đứng dậy.

-Kiệm cho cô ra bãi nha.

-Dạ. Để con đưa cô đi. Nhưng trời nắng rồi đó cô.

-Ừ. Cô biết. Nắng nhiều không Kiệm?

-Đầy cả vườn. Đầy cả đường. Đầy cả những ngọn cây.

-Thế hả Kiệm. Còn trời.

-Trời sao cô?

-Trời có nhiều mây không?

Kiệm im lặng một lát, chắc nó ngó lên bầu trời:

-Không cô. Trời trong lắm. Xanh mầu xanh ve chai đó cô.

-Có mầu trắng chứ?

-Dạ có, ít thôi cô. Từng đám nhỏ.

Tôi sửa lại gọng kính đen:

-Thôi mình đi, Kiệm.

Đi bên Kiệm với những hình ảnh của một buổi sáng có nắng lớn, bầu trời cao, xanh thẳm, một vài cụm mây trắng, tôi nghe lòng mình buồn. Cái buồn thảm lắng chìm trong sự tối tăm của bóng đêm trùng trùng, lớp lớp.

Kiệm cầm tay tôi. Chúng tôi bước xuống lòng đường. Tiếng xe ngựa lóc cóc đến từ xa. Nghe và nhận được, nhưng tôi vẫn hỏi Kiệm:

-Xe ngựa phải không Kiệm?

-Dạ xe ngựa. Một con ngựa.

-Bãi sao Kiệm?

-Dạ bãi vắng, cô.

Chợt giọng Kiệm khác đi. Nó nói ngập ngừng:

-Cô. Cô à?

-Gì Kiệm?

-Cháu thấy cô đẹp lắm, da cô trắng, mặt cô đầy đặn, phúc hậu. Mà sao…

-Mà sao cô mù phải không?

-Dạ… Dạ… cháu xin lỗi cô cháu không dám nói vậy.

Tôi mỉm cười, nắm chặt hơn bàn tay nhỏ bé của Kiệm, mà nước mắt tự dưng ứa ra.

-Cô à.

Tôi giữ giọng bình thường:

-Gì Kiệm?

-Cô có giận cháu không?

Tôi buông tay đặt trên vai Kiệm. Tay tôi chạm vào mái tóc ngắn của Kiệm. Những sợi tóc tôi nghĩ rằng mềm và mượt óng:

-Không Kiệm à. Cô thương Kiệm lắm. Kiệm biết chứ. Cô đâu có ai. Ngoài cô Ngọc và Kiệm. Tôi cảm tưởng dường như vai Kiệm rung rinh. Chắc Kiệm xúc động với lời nói của tôi.

Chúng tôi bước lên hè, vào bãi cát. Trời mát. Chắc là chúng tôi đang đi trong bóng rợp của những hàng cây sum suê cành lá cổ thụ.

Tôi bảo Kiệm đưa tôi tới băng ghế đá mà hàng ngày tôi vẫn ngồi.

-Kiệm ngồi đây với cô một lát rồi hãy về nhà nhá Kiệm.

-Dạ

Kiệm ngoan ngoãn ngồi xuống. Tôi bảo Kiệm xích gần tôi hơn nữa. Mái tóc Kiệm ngang mặt tôi, mùi tóc ngái và hương thơm của tuổi nhỏ còn nguyên vẹn làm tôi bùi ngùi nhớ đến những ngày ấu thơ của mình. Thôi, tất cả đã hết. Đã xa rồi. Xa quá rồi. Hỡi mẹ. Mẹ dấu yêu của con. Xa quá rồi. Đã hết rồi. Hỡi Chất của em. Những giây phút cuối đời này cũng không có anh. Anh yêu dấu. Anh còn sống hay đã chết? Anh đang ở một chốn nào? Một nơi nào? Anh biết không? Em sắp sửa giã từ cuộc đời này. Em đã chọn một lần. Đằng nào cũng một lần về địa ngục.

Kiệm cầm tay tôi lay nhẹ.

-Cô ơi.

-Ừ. Cô đây.

-Cháu về làm cơm nha cô.

Tôi muốn giữ Kiệm. Tôi muốn có một ai đó, bất cứ kẻ nào, ở bên cạnh tôi, trong những giây phút cuối còn sót lại này, vì tôi đã quyết định… Nhưng mặt khác, tôi lại không dám, sợ Kiệm nó sinh nghi. Tôi xoa đầu Kiệm:

-Ừ. Thôi Kiệm về đi. Lát nữa đừng ra đón cô nha.

-Sao vậy cô?

Tôi nói dối:

-Hôm nay cô mệt trong người. Chắc cô không ăn cơm đâu.

-Nhưng cô cũng phải về nhà nghỉ chứ. Ngồi hoài ở đây sao?

-Ừ. Cô phải về chứ. Làm sao ngồi hoài đây được.

Chữ “phải về” dội lại trong óc tôi, như một hồi chuông báo tử thống thiết, ngân dài.

-Thế nào cháu cũng phải đón cô. Một mình cô làm sao qua đường được.

-Được Kiệm à. Cô nhớ đường mà.

Kiệm đứng dậy. Nó vẫn còn nắm tay tôi. Chợt nó kêu khẽ:

-Trời. Sao, sao cô khóc?

Tôi đưa tay quệt ngang má, cười:

-Đâu có. Cô đâu có khóc. Cô chỉ hơi mệt thôi.

-Không. Cô khóc thiệt mà. Cháu thấy. Cháu thấy nước mắt cô.

Tôi vẫn ngượng cười, lắc đầu:

-Không phải đâu. Chắc tại gió làm cô chảy nước mắt đó.

Kiệm nói đúng. Tôi khóc, từ phút nào, nhưng chính tôi không biết. Tôi chỉ nhận ra những giọt lệ lăn trên má khi Kiệm kêu lên mà thôi.

Kiệm dùng dằng. Chắc nó không thể tin rằng gió có thể làm cho tôi chảy nước mắt.

Tôi phải trấn tĩnh Kiệm:

-Thôi, Kiệm, Kiệm về đi. Cô không buồn đâu. Cô đang vui. Cô vui vì lúc nãy Kiệm khen cô đẹp. Kiệm nói Kiệm thương cô mà Kiệm có thương cô thiệt tình không?

Kiệm ngồi quỳ gối dưới chân tôi. In là nó ngả đầu vào lòng tôi:

-Cháu thương cô lắm, thương thiệt mà cô. Cô không tin cháu sao?

-Tin chứ. Cô cũng thương Kiệm lắm. Mà, kìa Kiệm về đi. Muộn rồi.

Kiệm vẫn ngập ngừng:

-Cháu phải về làm cơm nhưng lát nữa cô cho cháu ra đón cô về nhà.

Tôi gật đầu cho qua chuyện:

-Ừ. Lát Kiệm đón cô về. Mà trễ trễ đó nghe Kiệm.

-Vâng, cháu sẽ ra trễ.

Kiệm buông tay tôi ra. Tất nhiên tôi không nhìn thấy Kiệm, nhưng nghe được tiếng chân rời xa của nó. Tiếng chân xa đi, như những gần gũi cuối cùng của đời tôi đang từ từ chấm dứt. Tôi cố xóa bỏ những ý nghĩ lộn xộn trong đầu, để bình thản chờ đợi quyết định. Tôi lần tay trên ngực mình để thấy lưỡi lam mà tôi đã giấu được từ mấy hôm nay. Cái lưỡi lam tôi đã nhờ Kiệm mua ngoài phố để gọt ổi. Cái lý do cần một chiếc lưỡi lam để gọt mấy trái ổi hay dăm quả cóc không đủ vững, đối với một người đã mù lòa như tôi. Nhưng Kiệm quá nhỏ. Nó không thể nghĩ xa hơn cũng như không thể suy luận được rằng tôi sẽ dùng lưỡi dao ấy cho một việc khác. Kiệm tin rằng tuy không thấy đường, tôi vẫn có thể sử dụng lưỡi dao mỏng kia trong việc gọt bỏ cái vỏ ngoài của một loại trái cây nào đó, tôi làm được việc ấy.

Tôi nghe nắng ấm ở hai má nhưng con gió chạy qua những cành lá bàng rì rào. Sóng chừng đã dịu cùng với mặt trời cao.

Tâm hồn tôi chĩu nặng như chất chứa tầng tầng những lớp mây ẩm đầy hơi nước. Những tầng mây đủ đầy cho một cơn mưa dầm dề. Những cơn mưa tầm tã, muộn phiền không nguôi của những ngày nào trên cao nguyên.