← Quay lại trang sách

- 3 -

Tôi về đây tính ra đã hơn một tháng. Hơn một tháng tôi sống trong sự cắt đứt, đoạn tuyệt với tất cả mọi liên hệ thân tình máu mủ. Hơn một tháng cho một cuộc đi đày, một chạy trốn, một sửa soạn êm ái cho sự nằm xuống. Sống trong đùm bọc thương yêu đến chảy nước mắt của một người bạn gái, tôi linh cảm thấy mình không thể kéo dài thêm nữa sự sống tối tăm này. Không còn gì để tha thiết. Tôi vẫn nghĩ thế. Tôi sống thêm một thời gian ngắn nữa không phải là còn ham tiếc hay trông mong một phép lạ. Không. Tôi còn sống thêm cho đến ngày hôm nay, vì tôi muốn viết cho xong cuốn nhật ký của đời tôi. Cuốn nhật ký mở ra từ ngày tôi gặp chàng. Tôi không thể trả ơn chàng, đã cho tôi một tình yêu, hay nói một cách khác, đúng hơn, đã giúp tôi, nhận thấy, nhìn ra tôi, trong một trái tim rung động, trong tình yêu của chính tôi, bằng sự nằm xuống với nhiều tai tiếng và liên lụy để lại cho chàng. Tôi muốn biện minh, muốn nói một lời nói dài, muốn thở một hơi thở cuối, soi tỏ và giải mở đến tận ngách ngõ những bí ẩn “nếu có thể gọi được như vậy” vây quanh cuộc tình và cái chết của tôi. Tôi muốn nói, muốn nói tiếng nói cuối cùng, và hy vọng rằng tiếng nói cuối cùng của tôi, sẽ giúp cho mọi người tìm ra được tông tích chàng. Tôi vẫn không tin rằng chàng đã chết. Chàng đã mất tích. Tôi vẫn tin, chàng ở đâu đó, một chỗ ẩn nào, trên mảnh đất Việt Nam này. Điều mong mỏi thầm kín nhất của tôi, có lẽ là để L đứa con gái của chàng, có với P. sẽ tìm ra tông tích của bố. Tôi không biết rồi đời L. sẽ ra sao, khi P. đi lấy chồng, khi Chất bị báo cáo là mất tích. Tất cả mọi nỗ lực của tôi, nhắm tìm cho được chàng, hay ít ra có những chi tiết liên quan đến chàng, để từ đó L. có thể tiếp tục công việc tìm kiếm mà tôi đã tạo được những chi tiết làm nền.

Tôi lấy lưỡi lam ra vuốt vuốt hai cạnh mỏng. Thép lạnh làm tôi rùng mình. Cái giây phút cận kề tiếp giáp với sự chết, cho tôi nhiều ý nghĩ lộn xộn, chua chát, bùi ngùi mà cũng thật nhẹ nhàng, thanh thản. Tôi nghĩ đến Ngọc, không biết nó có làm theo đúng ý tôi muốn in bằng mọi cách ngăn chặn sự khai thác của báo chí. Tôi muốn gia đình tôi cũng như mọi người thân, quen không hay biết gì về chuyện này hết. Trong lá thư viết nguệch ngoạc với sự mù lòa của mình, tôi có dặn Ngọc cặn kẽ cách làm thế nào để tránh được báo chí khai thác. Tất nhiên ở một cái tỉnh lỵ nhỏ bé này thì một chuyện cỏn con cũng đã đủ ồn lên, huống hồ chi chuyện một người tự vận. Nhưng tôi chắc mọi người, kể cả nhà hữu trách cũng sẽ nhìn việc tự tử của tôi như hành vi tuyệt vọng chán nản của một kẻ tật nguyền không lối thoát. Điều áy náy duy nhất của tôi là nếu Chất còn sống, khi chàng tìm ra manh mối của tôi, và tôi đã vĩnh viễn tan hòa dưới ba thước đất, chắc chắn chàng sẽ bị cắn rứt, giày vò, mặc dù việc làm của tôi không một ai có thể quy trách nhiệm cho chàng.

Tôi đang miên man với những ý nghĩ mòng mòng quay trong đầu thì một loạt âm vang lạnh, sắc làm tôi nổi da gà bởi đó là những âm vang quen thuộc. Những tiếng động đã khua rền đã dội vang, đã ám ảnh đến cả những giấc mơ trong suốt mấy năm trường đằng đẳng. Tiếng cộc… cộc… lúc đầu còn xa, sau mỗi giây nghe một gần thêm cùng với khoảng cách được thâu ngắn, sự hốt hoảng, ớn lạnh đẩy tôi lên đến cực điểm của sự ghê rợn, hoảng hốt. Vì qua những âm thanh đó, tôi đã nhận ra ai, cái gì. Nhận ra cùng với mường tượng rõ ràng dù mắt tôi đã không thể còn nhìn thấy.

Cả một khúc phim dài, những ngày tôi sống trong trại cùi miệt biên giới, sống lại, thảm thiết trong tôi với hình ảnh ông Trùm, người thanh niên cụt chân và tiếng sáo mỗi chiều của anh ta..

Không hiểu sao bỗng dưng tôi lại giấu lưỡi dao lam ra sau lưng, khi tiếng nạng gỗ của người chân cụt lại gần. Tôi nói lượng khoảng cách giữa tôi và anh ta còn chừng bảy bước. Sáu bước. Năm bước… Bước chân ngập ngừng. Tôi nghe được trong tiếng nạng gỗ xuống mặt xi măng chậm và gượng.

Rồi tiếng chân lại tiếp tục đập nặng sau một giây lát im bặt. Tôi nhận ra là tiếng chân gỗ đó, rõ ràng đang chuyển hướng về phía tôi. Tim tôi thắt lại từng giây, từng phút, tôi muốn ngộp thở. Muốn vỡ bụng, muốn nổ tan từng mảnh vụn tả tơi.

Và việc đến đã phải đến. Người đàn ông chân cụt ngừng lại, tôi đoán ngay trước mặt tôi, nhờ mùi hơi người và tiếng thở. Tôi nghe trời đất quay cuồng. Biển như cũng ngừng tiếng sóng. Gió trên những ngọn bàng cao như cũng ngừng thổi theo với trạng thái bất động của tôi. Tôi bám chặt hai tay vào thành ghế xi măng lạnh giá. Cơn nóng sốt hâm tôi ở một nhiệt độ cao. Mặt tôi hướng thẳng ra biển. Sau cặp kính đen, tôi cố gắng mở đến đứt kẽ, nhưng cũng không thấy gì hơn, một tấm màn đen bao phủ. Chưa bao giờ, bằng lúc này, kể từ ngày bị lòa, tôi thèm nhìn, tôi cố gắng đến nổi gân, đến bật cả tròng con ngươi -để nhìn -Nhìn. Tôi muốn nhìn thấy -Trời ơi -Kẻ đang đứng chắn ngang mặt tôi mà vô ích. Vô ích thôi -Con. Con đã mù lòa -Con đã vĩnh viễn lìa xa vùng ánh sáng. Con chỉ còn bóng tối -Bóng tối chan hòa -Bóng tối khép phủ kín suốt đời con. Bóng tối kia, chính ra nó đã ôm ấp, đã chân thật, đã ủ giữ hồn con, ngay từ ngày con mới sinh ra, mà con không biết đó thôi. Đừng cố gắng. Đừng bao giờ cố gắng để nhìn thấy ánh sáng, nhìn thấy mặt người. Vì có những nỗ lực, những cố gắng, cho dù bền bĩ, cho dù từ khởi đầu cho đến phút chót cuộc đời, cũng vẫn chỉ là những nỗ lực hoài công. Những nỗ lực vô ích. Không khác hơn bao nhiêu, một đam mê vô ích. Văn chương -là một loại nỗ lực vô ích trên của những sử dụng nó.

(Những người mù trong ánh sáng, và sự toàn vẹn của đôi mắt.

Như vậy, con vẫn còn may mắn hơn những kẻ đó vì thực sự con mù lòa, chứ không phải con tỉnh sáng mà vẫn rờ rẫm trong bóng đêm của mặt kia ánh sáng).

Hình như một tiếng nói nào đó, mơ hồ, của một con người thứ hai trong tôi, rất trầm tĩnh, rất dịu dàng khuyên nhủ tôi như vậy.

Và tôi thở hắt ra. Mắt nhắm nghiền vẫn bóng tối. Những sẫm đặc, không còn là thứ tối tăm nhờ nhờ nữa.

Đúng lúc đó, người đàn ông lên tiếng:

-Cô không nhận ra tôi.

Tôi đã bình tĩnh trở lại. Tôi nghe rõ giọng tôi, trong veo, thản nhiên như sóng vỗ từ xa, như tiếng gió, lao xao chạy trên những chùm lá bàng:

-Vâng. Đời sống đã cắt đi của tôi tất cả mọi nhìn lại.

-Cô không còn trí nhớ.

-Còn chứ ông. Nếu mất hẳn đã may mắn.

-Vậy mà cô vẫn không nhận ra tôi sao?

-Cô có cần tôi nhắc?

-Không. Ông đừng nhắc.

-Cô khó hiểu quá. Bao năm mới gặp lại cô. Bao năm nhỉ…?

Người đàn ông bỏ lửng câu nói, như để trí óc kịp nhẩm tính thời gian. Tôi nói giùm anh ta:

-Ba năm.

Người đàn ông reo lên, tiếng nạng xê dịch trên mặt hè, nghe ghê lạnh:

-Cô nhớ giỏi quá.

Tôi cười:

-Thì tôi đã nói với ông, tôi còn trí nhớ.

-Nhưng tôi nghĩ điều quan trọng, cần nhớ, thì cô không nhớ.

-Đúng vậy. Ông nói đúng. Tôi không muốn sống hay đúng hơn không còn thiết sống, nhưng tôi vẫn phải quên, một số điều, lẽ ra không nên quên. Vì sự thực, vẫn không quên.

-Nghĩa là…

-Vâng. Nghĩa là vẫn nhớ, trong một trạng thái nào đó hay giấu đi ở một góc cạnh nào đó của tâm hồn mình.

-Chúng ta sống cho ngày mai, nhưng chết cho ngày đã qua. Cô có nghĩ vậy không?

-Cũng còn tùy. Cái đã qua, cái sẽ tới (trong mơ tưởng) đều mang một kích thước, một trọng lượng riêng.

-Dầu sao thì cũng có một điều chắc chắn là cô chọn cái đã qua. Vì cái đã qua ở cô mới là một bóng lớn đủ trùm phủ suốt một đời cô.

Tôi giật mình trước câu nói của người đàn ông chân cụt vừa gặp lại. Sự sững sờ, sửng sốt làm tôi áy náy không biết có phải y chính là người mà tôi đã gặp ở khu trại cùi miệt biên giới năm xưa, hay kẻ đang đứng trước tôi đây, chính là Chất. Trời ơi. Nếu là Chất, tại sao chàng không nhận ra tôi? Không lẽ tôi đã thay đổi đến đỗi không còn một nét nào cho chàng nhận ra?

Tôi muốn kêu thét lên. Tôi muốn đưa tay rờ rẫm để tìm lại chút hơi hướm nào đó ở người đàn ông này, để tự đó tôi có thể nhận ra chàng. Nhưng tất nhiên là tôi không dám. Tôi lại tiếp tục nhướng mắt. Những giọt nước mắt sống lại lăn đi, nhẹ nhàng êm ái từ hai hốc mắt tôi, như một thứ bóng tối đục vàng hơi nước.

-Sao cô không trả lời tôi.

-Trả lời ông điều gì?

-Sự sống của đời cô.

-Vâng tôi sẽ trả lời ông. Nhưng trước khi trả lời, tôi muốn hỏi ông một vài điều.

-Thí dụ.

-Nghĩa là ông nhận.

-Tôi nhận vì tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở một đích điểm mà chúng ta cùng đeo đuổi và ôm ấp.

-Tôi không hiểu điều ông muốn nói.

Người đàn ông cười. Hình như anh ta ngả nghiêng hay làm một động tác gì đó, bởi tôi thấy chiếc bóng mờ lay động phất phơ như một tấm màn căng sát ngang mắt.

Anh ta nói đột ngột:

-Cô tìm gì trong ba năm qua?

Tiếng nói rời rẽ, lạnh cứng như những chiếc phi tiêu được ném đi từ tay của một thiện nghệ, phập, phập liên tiếp ghim sâu vào da thịt tôi. Những chiếc phi tiêu bần bật rung theo cơn chấn động cuồng đảo trong thân thể. Bất giác tôi nhắm mắt, đưa tay lên đỡ ngực mình như thể lòng ngực tôi trong chốc lát sẽ tách vỡ làm đôi.

Tiếng nạng gỗ lại xê dịch trên nền xi măng.

Tôi chợt nhớ ra là đã để người đàn ông đứng quá lâu.

Tôi nói:

-Xin lỗi. Đã quên mời ông ngồi.

-Không sao. Tôi xin phép cô.

Người đàn ông nói và ngồi xuống. Tiếng nạng gỗ lại khua chạm vào nhau. Chắc ông ta xếp đôi nạng lại. Tôi nghe được hơi thở khoan khoái và tiếng kêu của cử động vương vai.

-Cô Mị.

-Trời.

Tôi không kịp kềm giữ tiếng kêu thảng thốt của mình.

-Xin lỗi cô. Người đàn ông nói.

Tôi lắc đầu, khoát tay.

-Không. Không sao.

-Cô kinh ngạc vì sự biết tên cô của tôi?

Tôi nuốt những ngào nghẹn vừa dâng lên ngang cổ, để cố gắng, với một giọng bình thường, trả lời anh ta:

-Vâng. Thú thật, tôi rất ngạc nhiên. Tôi kinh ngạc.

-Tôi e cô sẽ còn kinh ngạc nhiều hơn nữa, nếu tôi nói tiếp với cô, những điều tôi biết về cô.

Tôi lắc đầu:

-Mừng rỡ hay đau đớn, sẽ đến sau phút giây của những kinh ngạc đó.

-Nghĩa là cô bình tĩnh?

-Vâng tôi đã bình tĩnh trở lại. Và tôi đang lắng chờ nghe ông nói đây.

-Cô muốn tôi nói về vấn đề gì trước?

-Tất cả. Tất cả những điều ông biết về tôi hoặc liên quan đến tôi.

-Nhiều lắm. Và cũng có những điều, tôi không thể nói. Tôi tự không ngăn cấm mình, dù rất muốn.

-Ông dè dặt quá. Dè dặt là một đức tính. Nhưng với tôi, không nên. Không nên và ông cũng chả cần phải giữ kẽ. Bởi tôi không có người thứ hai bên cạnh đời mình để nói lại. Nhưng mà thôi. Khoan đã. Ông hãy cho phép tôi được hỏi một vài câu về ông.

-Xin cô cứ tự nhiên. Chúng ta có nhiều thì giờ.

-Quá nhiều. Quá dư. Nhất là đối với tôi.

-Cô chả nên nói vậy. Kẻ tật nguyền cũng có tương lai, cũng có những hy vọng riêng của họ. Như tôi.

-Ông đã biết..?

-Vâng. Tôi biết. Vừa biết. Khi ngồi xuống.

-Ông không thắc mắc sao?

-Dạ không. Tôi vẫn gần bên cô.. Chỉ bẵng đi mất một thời gian. Thời gian cô ở cao nguyên. Tuy nhiên mọi chuyện tôi đều biết. Có điều tôi không ngờ, sự thể xảy ra thảm thiết thế.

-Tôi thì chưa bao giờ nghĩ nó thảm thiết.

-Tất nhiên. Vì đó là mặt thực của cô. Nhận trách nhiệm -và bằng lòng với tất cả mọi sự việc xảy đến cho mình.

-Khi quá mức đàn bà, người ta sẽ thành đàn ông. Phải thế không thưa ông?

Người đàn ông cười. Tiếng cười. Tiếng cười vỡ trên một khoảng thấp, như dưới tầm một mái hiên mưa. Tôi nghe lòng mình se nhăn giống một mảnh vải cũ không còn cách nào để căng ra cho thẳng.

Một thoáng sượng sùng chạy ngang chúng tôi.

Tôi loay hoay với hai bàn tay đặt hờ trên đầu gối.

Tôi nói trong phút giây không suy nghĩ:

-Ba năm qua, nhiều lần, ông muốn gặp tôi?

-Phải.

Người đàn ông trả lời, giọng y thẳng thắn, cứng, nhọn. Y ngập ngừng một lát, xong tiếp ngay:

-Và cô đã cố tình lẫn tránh, vì chiếc chân cụt của tôi?

-Ông cho đó là lý do chính đáng?

-Tôi không cho thế. Nhưng ở hoàn cảnh tôi, bắt buộc tôi không thể nghĩ khác.

Tôi mỉm cười. (Tôi mỉm cười để y tin chắc thêm là điều đó không đúng).

-Tôi lẩn tránh mọi người. Không riêng gì ông. Ngay cả ba, mẹ tôi và những người thân khác.

-Ích gì việc đó?

-Đàn ông hay có những câu hỏi như vậy. Tôi không thích cái tinh thần luận lý một chiều ấy. Tại sao ông không tự hỏi ích gì khi ông bỏ công tìm kiếm tôi?

Bây giờ đến lượt người đàn ông cười. Hình như anh ta cố gắng cười thành tiếng để tôi biết.

-Có chứ. Tôi có lý do riêng của tôi… À, mà chưa phải lúc để tôi nói với cô về cái lý do đó.

-Tôi cũng không chủ tâm tìm biết. Đó là một cách trả lời. Thế thôi. Mong ông hiểu.

Người đàn ông chân cụt thở dài. Tôi không nhận được vẻ mặt anh ta. Nhưng qua tiếng thở, tôi có thể mường tượng được khuôn mặt héo hắt của anh ta.

Tôi nói:

-Sự tìm kiếm nào cũng làm nên nhiều buồn nản.

-Không đâu cô. Tìm kiếm là một mặt nào đó của hạnh phúc đằm thắm, của thương yêu nồng nàn, nếu nó có cả từ hai phía.

-Đời ông đã bao lần có được phút giây hiếm hoi ấy?

-Chưa một lần. Bởi đời tôi khác. Nhưng cô..

-Tôi? Sao?

-Hạnh phúc đã đến, ít nhất từ hướng mà tôi vừa nói.

-Không hạnh phúc không bao giờ đến với tôi. Hoặc tôi rơi hẫng và chìm nghỉm trong nó. Hoặc nó chụp xuống đời tôi, như một tấm lưới lớn. Và tôi dãy dụa…

-Cô vùng vẫy để thoát?

-Không bao giờ có sự vẫy thoát khỏi những chiếc lưới định mệnh. Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi vùng vẫy để mắc vào một cái mắt nào đó trong tấm lưới đó.

-Trước sau hành động đó cũng vẫn chỉ là một hành động của tuyệt vọng.

-Đúng. Tuyệt vọng và đau đớn. Nhưng tôi chọn cái mà người ta cho là đau đớn nhất, đó là cái đau đớn của sự đau đớn tự dành lấy cho riêng mình. Ông đừng cười. Có thể tôi điên. Nhưng với tôi, đó lại là cái đau đớn nhẹ nhàng nhất. Êm đềm nhất. Một mình, một mình cho đến phút chót.

-Và cuối cùng, cô đã nhận ra rằng đó là một lầm lẫn lớn nhất của đời cô.

-Vì từ chối hạnh phúc?

-Tôi muốn nói gần như thế. Hay cứ xin tạm hiểu là như thế.

-Có người cũng đã hỏi tôi một câu gần như vậy. Họ hỏi tôi tìm thấy gì trong sự tự đày ải. Ông biết tôi trả lời sao không?

-Sung sướng và hài lòng vì đã hoàn toàn tự do chọn lựa. Phải chăng thế?

Người đàn ông chân cụt đáp.

Tôi cười buồn, lắc đầu:

-Không. Tôi nói: Tôi thấy mặt bên kia của hạnh phúc.

-Là hạnh phúc được nhìn từ phía đối nghịch.

-Vâng.

-Rồi người ta nói với cô sao?

-Người ta bảo tôi khùng.

Người đàn ông cười ngất. Tôi hỏi sao anh ta lại phá lên cười như vậy. (Tiếng cười lần này vỡ trên cao, càng khiến tôi tưởng chừng như đang được nghe tiếng cười của Chất. Hay chính chàng? Chính Chất. Chất muốn thử một vai kịch trước sự mù lòa của tôi?)

Anh ta nói:

-Xin lỗi cô. Tôi cười quá lớn. Tôi cười vì người ta nói về cô sao mà giống ý tôi vậy.

Ông cũng cho như thế là khùng?

-Khùng chứ còn gì nữa. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng phải nói rõ hơn, là trước đây kia.

-Giờ thì khác?

-Vâng. Giờ khác xưa nhiều lắm. Giọng người đàn ông trầm, lắng đột ngột.

-Ông cũng lạ. Tôi nói.

-Chẳng phải vậy đâu cô. Tại tôi đã sống.

-Những người kia không sống, phải ý ông muốn nói?

-Không. Không. Thưa cô. (Anh ta nói nhanh). Họ cũng sống đấy chứ. Có thể họ còn sống nhiều, còn suy nghĩ hơn bất cứ ai khác nữa. Nhưng họ..

Tôi ngắt ngang:

-Mà thôi. Tại sao chúng ta lại mất thì giờ bàn về chuyện ấy nhỉ, trong khi chính tôi, thâm tâm tôi cũng nhìn thấy là tôi điên. Chỉ có điên rồ mới như tôi thôi.

-Nhìn và nhận, khoảng cách đôi khi cũng không gần nhau lắm.

-Vâng. Đôi khi.

-Cô nói gì?

-Tôi đang nói về tôi đấy. Mà sao lại cứ về tôi hoài nhỉ. Nói về ông đi.

-Về tôi?

-Vâng. Về câu hỏi của tôi mà ông đã né tránh.

-Đừng. Sao cô lại nghĩ vậy… Trong câu chuyện sự thực không chỉ có cô. Còn nhiều người khác. Cũng có cả tôi trong đó. Tuy nhiên vẫn phải nói nhiều về cô.

-Vẫn phải?

-Vâng. Đúng. Vì có những người được sinh ra để soi sáng kẻ khác. Cô là một trong số người ít ỏi ấy.

-Câu nói của ông chỉ làm tôi thêm buồn.

-Tại cô luôn cố tình hiểu sai ý tôi.

-Ông chỉ tôi cách để nhìn thẳng đi.

-Cô.

-Tôi.

-Phải. Hãy nhìn vào chính mình và trả lời thẳng với tâm hồn mình.

Tôi lắc đầu:

-Đó là một thế giới từ lâu tôi ghê sợ. Đó là một vùng hoang vu đã lâu không còn dám đặt chân bước.

-Cô chạy xa tới một độ nào đó, khi giật mình cô sẽ thấy cô gần nó hơn bao giờ hết.

-Ông muốn vẽ một đường vòng tròn.

-Không phải tôi muốn nói đó là sự thực.

-Cuộc đời tôi không có sự thực. Chỉ có những tự gạt và nhắm mắt để được dối gạt. Do đó, tất cả mọi lập luận xây trên căn bản ấy, đều không đứng vững ngay từ giây phút khởi sự.

-Tôi tin rằng cô ở ngoài ảnh hưởng của vòng mắt xích?

-Ông tin cùng tôi không?

-Cũng rất muốn nhưng không được.

Tôi nói với anh ta rằng, hiểu theo nghĩa nào, bằng cách nào, thì tôi cũng sẽ ở ngoài chiếc vòng oan nghiệp đó, nếu không muốn nói là đã ở ngoài nó. Người đàn ông bảo, càng bướng bỉnh, càng bảo thủ bao nhiêu, mình càng xa mình bấy nhiêu. Tôi cười thầm. Đã bao giờ tôi muốn về gần tôi đâu.

-Tôi không thích nhìn lại một lần nữa, những đổ nát, những điêu tàn trong đời mình. Tôi nói:

Chúng ta sống như những con chuột, trong những lỗ ngách tối tăm. Đời sống ở sâu trong những lỗ ngách đó, và khi chúng ta thò đầu ra ngoài ánh sáng, cái phần chói lòa mà ta thấy, là một đời sống khác, không có ta ở đó. Không phải của ta.

-Có ai thích. Nhưng cũng có những bất toàn, những chua xót mà bằng cách nào, chúng ta cũng không thể tránh nhìn lại. Ít nhất một lần. Riêng tôi, tôi luôn luôn nhìn lại. Người đàn ông nói. Anh ta hơi ngập ngừng, xong tiếp ngay, như nói với anh ta. Có lẽ tại tôi không có gì khác hơn, những thứ đó.

Câu nói vô tình của người đàn ông, nhắc tôi lại nghĩ đến Chất. Tôi thành thực:

-Câu nói của ông, nhắc tôi nhớ đến một người mà tôi cố quên.

-Tôi có tò mò chăng nếu tôi hỏi thêm cô về người đó.

-Ông đã biết người đó là ai đâu mà ông hỏi.

-Tôi biết.

-Ai?

-Chất!

-Ông biết?

Tôi hỏi, giọng run rẩy, mất hết cả bình tĩnh.

-Cô bị xúc động?

-Vâng. Tôi xúc động khi nghe ông nhắc tới Chất.

-Tôi đã có ý nói trước với cô, nhưng cô không tin, rằng tôi biết rất nhiều về cô.

Bỗng dưng giọng tôi thấp xuống, người toát lạnh, tôi nói:

-Bây giờ thì tôi đã tin ông. Tôi van ông, nếu ông có tin gì về Chất, ông nên nói cho tôi nghe. Ông nên nghĩ đến trường hợp tôi, trường hợp của…của một người bị…mù lòa như tôi.

-Tôi không thể thuật tỉ mỉ từng việc với cô được. Nhưng tôi có thể trả lời từng câu hỏi của cô.

-Vâng, vậy thì gần đây, ông có gặp Chất?

-Nếu gặp Chất rồi, tôi đâu có đi tìm cô như thế này. Tất cả cố gắng, nhọc nhằn của tôi, khi đi tìm kiếm cô, cùng chỉ mong hỏi cô một câu tương tự vậy.

-Không. Hơn năm nay, chúng tôi không gặp nhau. Không một tin tức nào hết.

-Từ sau ngày ở cao nguyên.

-Ông biết.

-Vâng tôi biết. Nhưng khi tôi lần mò tới nơi thì Chất đã đi khỏi, cô cũng không còn ở trong ngôi nhà đó.

-Ông có gặp người dì tôi?

-Cũng không. Căn nhà bỏ hoang.

-Rồi làm sao ông biết tôi ở dưới này?

-Tôi lần mò. Tôi dọ dẫm.

-Để muốn hỏi về Chất?

-Đúng. Nhưng chỉ đúng phần sau mà thôi.

-Ông nói khó hiểu quá.

Tôi bảo người đàn ông vậy. Và tôi bắt đầu linh cảm thấy người đàn ông chân cụt này mang nhiều bí ẩn gần xa tới Chất hoặc chính tôi.

-Phải. Để tôi nói rõ hơn, là tôi chỉ chú ý tới Chất sau khi được gặp cô ở khu chợ ngã ba biên giới.

Tôi không chịu nổi lối nói úp mở của người đàn ông này nữa. Tôi bảo thẳng:

-Ông nên nói rõ, nói hết. Tôi không hiểu gì cả. Tôi không thích lối nói quanh co của ông.

Người đàn ông cười, đập đập chân nạng xuống hè đường.

-Tôi tưởng cô thích. Vì chính cô ưa xử dụng lối nói đó.

-Riêng bây giờ, lúc này, thì khác.

-Tôi sẽ chiều theo ý cô. Nhưng…

-Ông cứ nói.

-Cô hãy bình tĩnh. Cô phải bình tĩnh, hoàn toàn bình tĩnh, lúc nghe tôi nói.

-Vâng. Tôi đang bình tĩnh đây. Tôi bình tĩnh, lắm.

-Trước hết tôi xin tự giới thiệu, mặc dù cô không hề hỏi tên tôi. Tôi là Công. Nguyễn Văn Công.

-Có quan trọng gì điều đó?

-Cô hãy từ tốn. Có chứ. Cô chưa thấy đấy mà thôi. Nhưng khoan đã. Để cho nó có đầu có đuôi. Trước hết, tôi không phải là người ở trong này. Tôi từ ngoài Bắc vào.

-Ông là cán binh..

-Vâng. Chính thế. Tôi bị thương trong một trận đánh ở gần khu tôi đã gặp cô. Tôi ngất đi. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình được đồng bào ở đó cứu chữa cho vết thương của mình. Sau đó tôi được đưa vào nhà thương vì cái chân của tôi không thể nào lành nếu không cưa đi một đoạn. Đã yên trí mình chết. Không ngờ được cứu sống, tôi cảm thấy thương yêu những người đã cứu tôi dù trước đây nếu gặp, có thể tôi sẽ giết họ hoặc ngược lại. Trước khi vào bệnh viện, tôi ra trình diện cơ quan chính quyền địa phương.

Khi tôi gặp cô là lúc chân tôi đã được lành lặn hoàn toàn và tôi cũng đã hoàn tất thủ tục của một hồi chánh viên. Tôi được trả về đời sống bình thường. Phần không biết đi đâu. Phần quyến luyến nơi có những người đã cứu sống mình, tôi trở về khu đó. Và tôi đã gặp cô. Và tôi đã… Xin lỗi cô. Tôi đã thầm yêu cô. Dù tôi biết, đó là một lố bịch và không thể vô vọng hơn. Nhưng tình cảm tự nhiên tôi không thể áp chế nó. Những rung động đầu tiên của một người con trai. Khi ấy tôi đã hai mươi hai. Nhưng cho đến khi tôi được lệnh bôn tập vào đây, tôi sống với những cuồng tín của mình, tôi không biết thế nào là một đời sống tình cảm hết. Tôi bị kẹt lại ngoài đó, với bà nội tôi. Mẹ tôi và các anh các chị tôi vô trước. Năm ấy tôi mới lên mười. Sự kẹt lại này, làm nội tôi sớm qua đời vì buồn bã, hối hận, ăn năn là đã giữ lại tôi. Khi nội tôi mất, tôi được nhà nước nuôi cho đến phút có lệnh vào Nam.

-Trường hợp của ông thật hiếm có và đáng tội nghiệp.

Tôi bùi ngùi trước hoàn cảnh của anh ta.

-Hiếm thì không hiếm những người bị kẹt lại như tôi. Nhưng điều đáng nói là định mệnh đã xui khiến tôi gặp cô.

Tôi nhớ lại dần dần đoạn phim đã qua. Tôi nói:

-Hồi đó, chính tôi cũng muốn gặp ông. Bởi tôi nghe phong thanh, tưởng ông cùng đơn vị với Chất. Chất cũng tham dự trận đánh đó.

-Vâng. Tôi biết như vậy, nên tôi đã tránh mặt. Tôi không muốn cô thất vọng, cũng như không muốn khai rõ lý lịch của mình. Chỉ tiếc một điều là mãi sau này, tôi mới biết, cô muốn gặp tôi để hỏi về Chất. Nguyễn văn Chất. Và đó là người yêu của cô.

-Ông lấy làm tiếc? Nếu ông biết rõ?

-Nếu biết rõ từ đầu, đã không có chuyện tôi… tôi để ý tới cô. Và mọi việc tôi đã chắc đã khác.

-Khác theo chiều hướng nào?

-Tốt hơn.

-Chẳng hạn?

-Chẳng hạn như tôi sẽ cùng cô tìm kiếm Chất.

-Thiệt tình tôi không hiểu. Ông nói làm tôi hoang mang, rối trí thêm.

-Vâng, sự thực câu chuyện cũng không giản dị dể hiểu gì cho lắm.

Tôi chợt nhận ra có một liên quan nào đó giữa hai dòng họ. Nhất là anh ta nhấn mạnh vào tên họ anh ta. Tôi nói liền:

-Ông có liên hệ bà con với Chất? Nhưng rồi không để anh ta kịp trả lời, tôi lại nói:

Tuy nhiên vô lý. Tôi không tin điều đó. Bởi Nguyễn văn thì thiếu gì cả ngàn vạn người Nguyễn văn. Ngay cả cái tên Chất nữa. Một cái tên bình thường, có thể trùng hợp.

-Phải. Cô nói đúng. Và cô hãy cứ nghĩ như vậy. Để cho lập luận của mình thêm vững chắc, tôi nói:

-Hơn thế nữa, tôi không thể nghe Chất nói có một người anh hay em còn bị kẹt lại ngoài đó.

-Vâng. Thì tôi có nói gì trái ngược đâu thưa cô.

Thái độ bình thản, lạnh lùng của người đàn ông càng làm tôi hoang mang, thảng thốt.

Tôi không dám thả mặc cho trí tưởng của mình, phóng tới những dự đoán nhưng phải chăng, người đàn ông chân cụt này, là em ruột của Chất? Hay đó chỉ là một cách nói biện hộ cho cái tình cảm bồng bột, quá đà mà anh ta đã dành cho tôi.

Giữa lúc đó, Kiệm xuất hiện. Sự xuất hiện của Kiệm thật đúng lúc. Hình như Kiệm đã ngần ngại, ngơ ngác trước sự có mặt của người thanh niên cụt chân, trên cùng băng ghế với tôi. Tôi nghĩ cũng không cần thiết lắm, một giải thích. Kiệm cũng không dám hỏi, chỉ nói:

-Cô Ngọc bảo ra đón cô về.

Tôi đưa tay cho Kiệm nắm.

-Cô Ngọc về lâu chưa?

-Mới, thưa cô. Nhưng cô Ngọc có vẻ sốt ruột muốn gặp cô ngay. Chắc có chuyện gì đó.

Tôi đứng dậy hướng về phía người thanh niên:

-Xin lỗi ông. Tôi phải về.

Tiếng nạng khua khoắng trên mặt đường, có lẽ anh ta cũng đứng dậy:

-Không dám. Chừng nào tôi có thể được phép gặp lại cô?

-Ông thực tình muốn vậy?

Người đàn ông cười:

-Câu chuyện của chúng ta mới bắt đầu mà.

Tôi gật:

-Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng không thể hứa chắc với ông được. Chiều nay, hoặc sáng mai.

-Ở băng ghế này.

-Vâng. Ở băng ghế này.

Tôi quay lưng bước. Chợt người đàn ông gọi giựt tôi lại.

-Cô Mị.

Tôi dừng bước:

-Vâng, thưa ông.

-Cô quên lưỡi dao.

Tôi giật mình, hoảng hốt:

-Ông làm ơn cho tôi xin.

-Thôi, để tôi giữ giùm cô. Chắc cô cũng không cần đến nó lắm.

Tôi gật đầu, nói mạnh:

-Vâng. Cũng không cần lắm.

Tôi kéo Kiệm bước nhanh, như chạy trốn một điều gì ghê gớm đang bám đuổi, sát sau lưng.

Qua đến lề đường bên kia, tôi mới nghe thấy tiếng nạng gỗ của người thanh niên, bắt đầu gõ từng tiếng chậm chạp.

Biển vẫn ầm ì tiếng sóng và gió như nhiều hơn lao xao trên những ngọn bàng.

Kiệm đi sát bên tôi trên suốt đường về.

Tôi không còn nhớ đã ở trong tòa lâu đài bao lâu chỉ biết lúc cùng chàng rời khỏi, đêm đã xuống thật sau trong khu rừng, mưa cũng đã ngừng hẳn. Dì Năm ngồi đọc kinh ở gian buồng trong. Mâm cơm với miếng thịt nai tươi của chàng đem về đã dọn sẵn ở gian ngoài trên chiếc bàn nước. Tôi đi vòng theo chàng vào nhà bằng cửa trước, không đi qua ngả bếp. Chàng ra dấu cho tôi im lặng. Tiếng lâm râm đọc kinh của Dì Năm, đều đều, vang âm cùng tiếng côn trùng rền rĩ bốn chung quanh. Chàng lại chiếc đi văng, ngồi co chân, tựa lưng vào vách tường. Tôi chọn chiếc ghế kê sát lối ra vào. Hình như sau những giây phút gần gũi tận cùng, chúng tôi đã xa cách nhau, như chưa từng một lần xa cách đến thế, dù hiển nhiên, chúng tôi đang có nhau trong mắt thấy. Chàng châm thuốc hút. Tôi loay hoay với cây bút đã nhiều lần dùng để viết nhật ký cho chàng.