Chương 4
Sau cú điện báo kèm theo những tấm ảnh hiện vật vừa bị đào trộm gửi đến, Paul rất kinh ngạc và hoảng hốt bởi đúng nó là báu vật mà ông đã mang về từ kho báu Naga mười hai năm trước. Thật khó tin là có kẻ đã biết vị trí bí mật đó.
Trên đường đến Mỹ Sơn, ruột gan ông như lửa đốt và chỉ mong tang vật vẫn nguyên vẹn tại hiện trường. Chỉ có ông mới biết được rằng cổ vật này là chiếc chìa khóa để ông tìm lại kho báu Naga đang thất lạc trong rừng sâu. Nếu cổ vật này bị mất thì con đường đến Naga sẽ vĩnh viễn khép lại hoặc mất hẳn vào tay thế lực xấu. Mười hai năm trước, sau hơn một tháng ẩn mình trong thánh địa Naga, ông tin những kẻ phục kích bên ngoài tưởng ông đã chết nên chúng cũng bỏ đi. Quyết định rời Naga, Paul đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã: Nếu mang cổ vật này về quê như đã hứa với vợ, ông sẽ vi phạm tày đình lời nguyền của hội kín, ngược lại, đến chết ông cũng không được thanh thản. Sau những đêm trăn trở suy tính, ông chấp nhận sự trừng phạt của hội kín để cho người xưa được mỉm cười nơi chín suối.
Sau khi thoát ra ngoài hang núi, ông đã mang cổ vật trở về sau nhiều đêm đói khát vượt núi băng rừng như một tên tù vượt ngục. Đến Mỹ Sơn, biết mình khó thoát khỏi sự trừng phạt tàn khốc, ông tính cách đào tẩu. Ông sẽ trốn về Pháp một thời gian chờ tình hình lắng xuống rồi sẽ trở lại trình báo báu vật cho nhà chức trách. Trong tay ông lúc này gồm báu vật, một tập tư liệu về Naga và tấm bản đồ. Báu vật sẽ ở lại Mỹ Sơn đúng như ước nguyện của vợ ông. Còn bản đồ và tư liệu thì ông biết không nên mang theo người. Bởi nếu hai thứ này cùng lúc rơi vào tay kẻ xấu thì lập tức Naga sẽ bị bại lộ. Sau khi cân nhắc, ông quyết định chỉ mang theo tập tài liệu.
Sáng nay, ông đã dạo vòng quanh thung lũng sau nhiều năm vắng bóng. Điều ông mừng là công tác trùng tu đã được nhà nước quan tâm hơn trước. Nhiều hạng mục di tích đã được được công nhận và có kế hoạch trùng tu phục chế bài bản. Đây không còn là sân riêng của người Pháp mà còn rất nhiều chuyên gia Ý, Anh và Nhật đã nhập cuộc. Sáng nay ông cũng không quên dò lại vị trí mà ông đã lén lút chôn báu vật và thấy nó vẫn nguyên xi. Ông đã lặng lẽ đứng đó hồi tưởng rất lâu. Thôi chết rồi, cái giây phút thả lòng kia đã bị ai đó theo dõi. Chúng sẽ đoán ông đang tìm gì ở đó.
Chiếc taxi đã tiến sát bìa rừng, ông tìm lối tắt đi thẳng tới thánh địa. Không một bóng người, ánh trăng vằng vặc phủ tràn thung lũng trong veo đến diệu kì. Họ đi đâu cả rồi? Hay có kẻ bày chuyện đùa ông? Ông tìm đến vị trí đó rồi gạt đám lá mục phủ đầy mặt đất và nhìn xuống thảm cỏ dại vẫn y nguyên như sáng nay, không có vết đào bới. Té ra mấy bức ảnh kia là đồ giả mạo mà kẻ đó đã bày mưu để lừa ông. Định cất bước trở về thì có tiếng loạt soạt sau lưng ông rồi một bóng đen đi tới.
- Đứng im tại chỗ!
Paul giật nảy người định bỏ chạy nhưng trước sau đều bị chặn. Biết đã trúng kế, ông chỉ biết đứng chôn chân mà nhìn. Một người đàn ông lực lưỡng lao tới bẻ quặt tay ông về phía sau để cho người khác trói lại.
- Có đúng chỗ này không? - Một người chỉ tay xuống đất hỏi.
- Mày nói gì? – Paul hỏi lại.
- Đừng giả vờ nữa. - Người to con dằn giọng. - Đào nó lên cho lão trắng mắt ra!
Một người thấp đậm dáng rất thạo việc vẽ một vòng tròn quanh vạt cỏ nơi ông vừa gạt đám lá khô. Tiếng cuốc xẻng chan chát thi nhau bập xuống xới tung cả khoanh đất rộng. Khi hố đã sâu ngang thắt lưng, một người dùng xẻng nhảy xuống cẩn thận xén sâu thêm từng lát đất nhỏ.
- Nhẹ tay thôi, kẻo làm hỏng việc. – Người đứng trên nhắc nhở.
Khi mũi xẻng chạm nhẹ vào một vật cứng vang lên một tiếng “ coong’’ trong ngần, y reo lên.
- Đây rồi! chính nó đây.
Đầu óc Paul chao đảo, ông sụm xuống bất lực nhìn hai kẻ lạ mặt nẫng báu vật mà ông phải đánh đổi cả máu và nước mắt mới có được. Vậy là sau bao năm ấm ủ những sứ mệnh thiêng liêng cao cả nay đã tan theo sương khói.
Hai tên trộm cho linh vật vào bao rồi đẩy ông đi về phía bờ suối rậm rạp cánh đó mấy chục bước chân.
- Cả sư! – Một kẻ cất tiếng. – Phần việc chúng tôi đã xong!
Paul ngỡ ngàng khi nghe danh xưng này, ông liền nhìn quanh xem còn ai nữa không. Dưới tán cây tối om lờ mờ hiện ra một người khoác áo choàng trắng đang tọa thiền trên một tảng đá lớn bên bờ suối. Paul căng hết thị lực nhìn người đó có đúng là kẻ mà ông suýt giáp mặt ở kho báu Naga năm xưa hay không. Nhưng nhận diện sao nổi khi ông chưa thấy mặt kẻ nằm bên ngoài vách đá và chỉ để một bàn tay bị cắt cụt trên ngực áo vợ ông. Một bàn tay cụt. Đó là tất cả những gì thuộc về xác thịt mà ông tận mắt chứng kiến về một hội kín khét tiếng trong lịch sử bán đảo Đông Dương cổ đại. Không lẽ hắn sống dai đến thế và còn đeo bám ông đến tận nơi đây hay sao.
Nếu đúng là hắn, thì nhận định bao nhiêu năm nay của ông về kẻ tà giáo cuối cùng đã chết hoàn toàn sai lầm. Đôi mắt ông đã quá mờ để nhìn kẻ đang ngồi trước mặt. Nếu không phải hắn thì là đồng bọn của hắn. Chúng chưa chết. Chúng đã trở lại đây để đòi lại linh vật và trừng phạt hai cha con ông cho trọn một lời nguyền độc ác đã tồn tại từ ngàn đời nay.
Hóa ra bao nhiêu năm nay ông vẫn chưa thoát được sự bủa vây của hội kín này. Chúng không lụi tàn, ngược lại, chúng đã cài người trong giới khoa bảng để leo cao rồi luồn sâu khắp hang cùng ngõ ngách nhằm bóp nghẹt những phát hiện và manh mối kho báu từ trong trứng nước. Chúng khoác lên vai những chiếc áo tu sĩ và trà trộn trong giới chức sắc Bàlamon. Chúng có mặt khắp nơi, từ đời thực cho đến cả trong ác mộng. Hắn là Cả sư ư? Paul nhìn kẻ đang tọa thiền trước mặt mà cười thầm một cách chua chát rồi bất chợt chỉ tay hắn rít lên.
- Chính mày? Mày đã theo tao từ Naga? mày là con rắn độc, rắn độc Naga!...
Tiếng gào vang lên một góc rừng rồi tắt nghẹt khi một tấm khăn đen chụp kín mặt. Trời đất tối sầm khi ông bị nhấn chìm xuống suối. Bộ quần áo giản dị trên người lần lượt rơi xuống. Toàn thân lạnh toát rồi từng mảng da bợt bạt co dúm trong làn nước lạnh. Con suối thiêng. Nếu được chết trong làn nước trong vắt này vẫn là diễm phúc nhưng Paul biết đây chỉ là khúc dạo đầu trong một nghi lễ tế thần rùng rợn mà ông đã từng nhìn thấy tranh khắc trên vách đá ở thánh địa Naga. Nghĩ đến đây ông rùng mình rồi ngất lịm