← Quay lại trang sách

Chương 5

Thực ra, chỉ liếc dòng kí tự trên Kì Phương đã biết ngay Paul muốn nói gì, và nó cũng chẳng có gì là bí mật cả. Các nhóm kí hiệu A1, A2,... B1, B2... do nhà khảo cổ kiêm kiến trúc sư người Pháp Henri Parmentier phân loại và đặt tên cho các di tích đền tháp khi ông nghiên cứu thánh địa Mỹ Sơn từ những năm đầu thế kỉ XX. Vì tính khoa học và đảm bảo sự nhất quán trong nghiên cứu nên các kí hiệu đó vẫn được tiếp tục sử dụng đến nay. Nó cũng phổ biến trong các bản đồ và tập san du lịch đến nỗi nhiều du khách cũng thuộc nó vanh vách. Kì Phương đoán Paul đang có mặt tại một trong bốn ngôi tháp đó. Paul là người rất kiệm lời, ưa chơi chữ, mê thơ ca và đặc biệt là hay dùng các kí hiệu khoa học vào đời thường. Có giai thoại kể rằng, khi công tác ở Mỹ sơn, sống kiếp vô gia cư, không phương tiện đi lại nên Paul đã căng lều ngay bên cạnh tháp cho tiện làm việc. Lúc in danh thiếp để liên lạc, trên phần “ địa chỉ văn phòng’’ ông chỉ ghi độc một chữ “ B1’’

Đường sá về khuya vắng tanh vắng ngắt, sau hơn một tiếng lao nhanh trên những con đường rừng quanh co họ đã đến gần khu di tích. Chiếc Ford tiếp tục phá tan giấc ngủ của rừng núi để tiến về thung lũng thiêng.

- Tôi thật lấy làm lạ. - Kì Phương cất giọng trách móc. – Đêm hôm thế này cha cô đến Mỹ Sơn mà không nói cho tôi một câu, dù sao đây cũng là thổ địa của tôi.

Thi Nga nãy giờ nín thinh suy nghĩ miên man và sợ làm anh phân tán nên không dám hé môi. Khi anh nói, cô mới chịu lên tiếng.

- Hay là ba tôi bị ai bắt cóc vào đây?

Hôm nay Kì Phương đã chứng kiến tận mắt Paul được nhiều người săn đón không khác gì minh tinh màn bạc. Nhưng kẻ hâm mộ ông đến mức bắt cóc thần tượng lôi vào rừng khuya thế này thì anh không tin.

- Chắc không ai bắt cóc ông cả. Ba cô còn viết thư, mà gã đeo nơ nói ông đi một mình mà. – Kì Phương trấn an. - Mà biết đâu ông vào đây thăm lại nhà cũ thì sao.

Tuy lí do này không thực tế nhưng Thi Nga vin vào đây để tự trấn an mình. Từ thủa tấm bé, cô biết ba mình đã coi Mỹ Sơn là nhà. Nơi đây là cảm hứng vô tận của đời ông và còn là nơi bắt nguồn tình yêu giữa ba và mẹ cô. Nhưng đời cho ông cái gì thì cũng lấy đi cái đó, Mỹ Sơn lại là nơi chứng kiến cuộc chia lìa đầy tang thương của gia đình họ.

- Hình như ba tôi sáng nay đã thăm Mỹ Sơn rồi cơ mà? - Thi Nga hỏi.

- Đúng, nhưng chắc là ba cô bỏ quên cái gì đó nên quay lại, chẳng phải tính ba cô dạo này lãng trí mà.

Chiếc xe giảm tốc khi đường hẹp lại. Khi không thể chạy tiếp qua con dốc cao, Kì Phương bảo cô xuống.

- Cô leo núi được chứ? – Anh chỉ đôi giày cao gót.

- Được, anh đi trước đi!

Đáp xong, cô chợt rùng mình khi nghĩ phải đi vào rừng vắng với một người đàn ông mà cô chưa hiểu biết. Cô đã quên mất rằng thủa tấm bé trên chính con đường mòn này anh đã dẫn cô đi hái trái me dại mỗi khi chiều về. Cô dũng cảm tiến bước với ý nghĩ rằng cha cô đã chọn mặt gửi vàng, nên chắc anh ta không dám đi quá giới hạn tại một nơi linh thiêng như thế này.

- Tuy khó đi nhưng đường rất ngắn. - Anh nói. - Qua con dốc nhỏ này nữa là tới.

Sau một hồi luồn lách trong rặng cây tối om, một quang cảnh thần tiên lấp lánh dưới ánh trăng rằm hiện ra.

- Nhìn kìa! – Kì Phương thốt lên.

Hằng hà sa số những giọt sương li ti đang phủ trắng trên những ngọn tháp nâu mờ ảo. Khu đền run rẩy hiện lên đầy huyền diệu. Mặc dù đã ngắm khu tháp tới ngàn lần nhưng Kì Phương không khỏi thẫn thờ trước cảnh trăng đêm nay.

- Tuyệt quá! - Thi Nga cũng thốt lên. - Không lẽ ba tôi một mình đến đây ngắm tháp sao?

Kì Phương tỏ ra am hiểu Paul như hiểu về ba ruột của mình:

- Ba cô vẫn lãng mạn như hồi nào, dân kiến trúc mà. Sống lâu năm ở đây, ông ấy biết lúc nào là đẹp nhất. Có điều là cảnh đẹp thế này mà cha cô đi một mình thì hơi phí.

Kì Phương cầm nhẹ tay cô rồi bước lên những bậc thềm rêu phong tiến về chân tháp gần nhất nhưng cô không sao nhấc chân nổi. Cô nao lòng ngước nhìn những ngọn tháp tuyệt mỹ của tổ tiên để lại nay chỉ còn là những hình hài cụt đầu đổ nát nằm giữa rừng hoang rồi một cảm giác nhói lên trong tim làm cô muốn khụy xuống. Những thây ma tróc lở.

Cô xót xa nhìn những thứ không hề giống như người ta bấy lâu nay ca tụng mà thay vào đó là quang cảnh quạnh hiu điêu tàn. Đúng như một nhà thơ Chăm đã viết mà ba cô thường ngâm nga mỗi khi chiều về:

“... Tháp hoang, như thình lình mọc lên từ đất...

Lông lá... âm u... dọa nạt... tháp hoang.

Nổi cộm giữa chiều trời ma quái.

Ung nhọt trên làn da mềm mại.

Thảm rừng già xanh... ’’.

Cô gắng kìm khỏi òa khóc. Mỹ Sơn đây ư? Ai đã tàn phá thánh địa linh thiêng? Ai đã đánh cắp linh hồn của tôi? Vậy là sau hơn mười năm dài đằng đẵng, cuối cùng cô đã được đặt chân trở lại chốn xưa, nơi cốt nhục ngàn đời không thể nào quên. Mẹ ơi! Trong thoáng chốc, một linh cảm lạ lùng làm cô sực tỉnh.

- Hãy tìm ba ngay!

Kì Phương lấy tờ giấy xem lần nữa rồi soi đèn lên bảng sơ đồ bằng bảng gỗ mặc dù anh đã thuộc như lòng bàn tay.

- Cô thấy các khu A, C, D, E chưa? - Anh lại chỉ về phía ngọn tháp gần nhất bên phải. - Trước mặt ta là khu B và C, nếu không tìm thấy ta qua suối để đến khu E và A. Ba cô chắc đang ở một trong bốn khu tháp kia.

- Vâng! – Thi Nga chỉ lên tờ giấy. - Thế còn cái dấu móc { úp trên đầu là gì?

- À, kí hiệu chóp nhọn, ý nói rằng bốn chữ cái đó chỉ bốn nóc tháp.

Thực ra, chỉ vài tháp thuộc nhóm B và C là còn có nóc nên bên trong rất kín và còn có những bệ thờ hoặc hiện vật, còn lại làm gì còn nóc. Nhưng để không bỏ sót, Kì Phương quyết định vào tất cả các tháp kín khu B, C tìm kiếm. Sau một hồi lùng sục cả trong lẫn ngoài tháp, Kì Phương lắc đầu nói.

- Không có, ra khu D ngay.

Khu D trải rộng phía sau khu B và C. Kì Phương cầm đèn chạy ngay ra phía ngôi tháp D6. Tuy nhiên tháp này hiện đã sụp đổ và chỉ còn vài bức tường vụn nát nằm trong cỏ dại. Kì Phương định đi về phía hai ngôi tháp dài khá nguyên vẹn tuy đã sụp mái là D1 và D2 im lìm trong đêm nhưng hai gã khổng lồ cụt đầu đang đứng gác. Khi soi đèn xuống đất, anh nhận ra những dấu chân nhàu nát trên cỏ.

- Xem này. - Anh khẽ gọi.

Hai người hồi hộp soi đèn lần theo và nhận thấy những dấu chân này đi ngược ra cổng rồi mất hút trong ngôi tháp B3. Kì Phương lấy làm lạ vì tháp này không được Paul ghi trong tờ giấy. Ngôi tháp này vuông vắn, khá cao còn tương đối nguyên vẹn ngoại trừ đang bị nghiêng và có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Anh ghìm tay Thi Nga ra dấu im lặng rồi soi đèn nhìn vào khe cửa như miệng một con quái thú khổng lồ đang há chờ mồi trong bóng tối. Không thấy gì, anh vỗ nhẹ vai Thi Nga nói khẽ:

- Cô đứng đây, một mình tôi vào là đủ. – Nói xong anh bước qua khe cửa hẹp sâu hun hút, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi tanh lợm xộc vào mũi. Trong lòng tháp lạnh đến rợn người, choán gần hết không gian chật hẹp là một bệ thờ chỉ còn mỗi yoni cao ngang thắt lưng nhưng cái thứ đang nằm trên đó mới làm anh giật mình lùi lại. Tay run run soi đèn lên yoni và anh không tin nổi thứ chất lỏng đang đọng lại trên đó. Máu? Kì Phương lạnh buốt xương sống khi nghĩ một chuyện khủng khiếp vừa diễn ra nơi đây. Tiếng giày lộc cộc ập đến phía sau.

- Gì thế anh?

- Có lẽ do... nước mưa! – Anh lúng túng đáp.

- Tháp này có nóc mà! – Cô sấn sát bệ đá rồi thốt lên. - Không lẽ đây là máu?

Thi Nga rút trong túi ra một mẩu giấy rồi chấm vào thứ chất lỏng. Nó có màu đỏ tươi.

- Máu thật sao? – Cô uôm người về phía trước và chỉ cách bệ đá vài phân.

- Máu thật, không lẽ...? – Giọng cô òa lên đầy sợ hãi.

- Đứng lùi ra. – Kì Phương chộp lấy vai cô ghìm lại, tưởng chừng như nếu nắm hụt, cô nàng sẽ đổ nhào lên bệ thờ.

- Máu? ba tôi bị làm sao rồi... ba ơi, ba ở đâu? – Cô òa lên.

Kì Phương biết không sớm thì muộn cô cũng thốt ra điều hãi hùng đó. Điều mà anh đã nghĩ tới nhưng không dám nói trước. Có một mạng sống tươi rói nào đó vừa được hiến dâng cho thần linh. Một bữa tiệc sặc mùi tà giáo ghê tởm nào đó vừa diễn ra ngay trước mắt và ngay trên chiếc mâm đá có tên yoni kia. Mùi tanh nồng đang xông tỏa ngập ngụa gan ruột làm cô chạy vội ra ngoài tránh nôn tháo ra một cách bất nhã không thể tha thứ chốn linh nghiêm. Lau miệng xong, cô lấm lét bước vào. Không xông xáo như lúc nãy, trông mặt cô tái mét và bơ phờ như vừa trút hết sinh lực ra khỏi cơ thể. Kì Phương biết mọi thứ vẫn chưa bắt đầu. Điều khủng khiếp nhất vẫn đang chờ cô phía trước.

Kì Phương tuy bình tĩnh hơn nhưng cũng không thể giấu sự nao núng. Anh không muốn tin đó là máu, nhưng mùi tanh, và màu đỏ tươi đã là câu trả lời. Vết máu trên các dụng cụ thờ cúng không phải là hiếm. Từ thời cổ đại, máu đã chảy thành suối trên các đài thờ Thần Mặt trời của người Maya, người Da đỏ và nhiều bộ tộc Châu phi gần đây vẫn còn giết gái trinh và trẻ em để lấy máu tưới lên các biểu tượng tôn giáo. Mà chẳng cần viện dẫn đâu xa, ngay trên thánh địa Mỹ Sơn này có nhiều tài liệu chép lại những nghi lễ hiến sinh cho thần Siva. Trên các bia kí có nói đến lễ hiến tế bằng máu ngựa trắng, dê trắng, trâu trắng bị cắt cổ để cúng thần trên các chùa tháp. Nay một người đàn ông da trắng có lẽ là một món tế không tồi. Trên nhiều tấm bia kí còn kể triều đình đã hiến đàn ông, đàn bà và cả tù binh và cho các vị thần. Kì Phương cố xua đuổi những ý nghĩ rợn người vừa ùa đến, và vẫn để trấn an Thi Nga là chính, anh nói:

- Chắc không phải máu, mà nếu máu thì chưa hẳn là máu người.

Kì Phương đứng lên và thấy nhột lạnh ngón chân, anh nhìn xuống mũi giày vải và nhận ra vài giọt máu rỉ từ phễu yoni đã thấm đẫm một vệt lớn. Rút bàn chân lại, máu đã đọng thành vũng dưới nền gạch cũ. Kì Phương thầm nghĩ, một người già yếu như Paul có sống nổi sau khi mất nhiều máu thế này không. Bỗng nhiên Thi Nga loạng choạng đổ sụp xuống trước bệ đá như thể đó chính là ba cô đang trong cơn hấp hối.

- Ba ơi!

Khoa học chưa thể chứng minh được hiện tượng thần giao cách cảm, nhưng họ không thể phủ nhận có một sợi dây thông tin sinh học kì diệu giữa con người cùng huyết thống. Kì Phương loay hoay cố gắng tìm mọi cách để Thi Nga không suy sụp lúc này nhưng vô ích. Anh dìu cô ra ngoài rồi nói.

- Cô đừng hoảng, chưa có cơ sở nào chỉ ra ba cô đã chết đâu.

Kì Phương lại rút bút tích của Paul ra như một bảo bối, mặc dù anh biết nó đã hết thiêng.

- Chúng ta phải sang bên khu A, biết đâu ông đang ở bên đó thì sao? – Kì Phương không tin lắm điều mình vừa nói, vấn đề là anh muốn kéo Thi Nga ra khỏi đây và nuôi dưỡng thêm niềm hi vọng đang thoi thóp của cô. Sự gợi mở làm cô gái kịp trấn tĩnh giây lát, niềm lạc quan như được đánh thức. Cô giằng lấy đèn pin trong tay Kì Phương và gạt nước mắt.

- Cha tôi bỏ khách sạn rất đột ngột, nhất định ông không thể một mình đến đây.

- Cứ bình tĩnh! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi.

Kì Phương không nghĩ là cô ta đã thay đổi suy nghĩ nhanh như vậy. Trong vài giây từ chỗ tin cha mình đã chết bỗng quay ngoắt tin cha cô đang sống. Bây giờ anh mới nhận ra niềm tin tích cực có sức mạnh như thế nào. Kì Phương thở phào vì đã thắp lên chút niềm tin nhỏ nhoi trong cô tuy anh biết rằng nó có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Kì Phương biết đang có nguy hiểm rình rập họ nhưng anh không muốn chạy khỏi sự thật là một ai đó có thể đang hấp hối đang cần cứu quanh đây. Anh chỉ tay về phía bên kia con suối nói:

- Chạy nhanh xem.

Lần này không để anh dẫn lối, cô băng qua cây cầu nhỏ bắc qua con suối đang chảy ào ào. Mặt đất trơn và đôi giày cao gót đã buộc cô đôi ba lần phải vồ ếch. Qua suối có một ngã ba nhỏ trên triền dốc, cô dừng lại chờ anh. Kì Phương nói:

- Bây giờ chia ra để tìm cho nhanh, cô đi về bên phải bên có khu F đang bảo tồn. - Anh quay đầu chỉ ngược lại. - Còn tôi sẽ chạy sang nhóm A xem sao. Cô dám đi một mình không?

- Tôi dám!

Kì Phương đi được chục mét thì thấy sờ sợ bèn đứng lại nghe ngóng. Phía trước mặt anh lồ lộ dưới ánh trăng những hố đào và những đống gạch đá lởm chởm mà các chuyên gia Ý vừa quy tập chiều nay. Mặc dầu tối trời nhưng do quen thuộc địa hình nên anh đã chạy một quãng khá xa. Đất dưới bàn chân trơn nhẫy như được dội mỡ. Kì Phương chỉ kịp kêu “ ối’’ lên một tiếng rồi té nhào xuống một hố sâu. Chưa kịp định thần thì anh đã sởn gai ốc khi sờ trúng một dị vật cộm lên dưới mặt. Anh trương mắt ra nhìn. Dưới ánh trăng yếu ớt chiếu qua vòm lá, anh nhận ra dưới mặt mình là tột đỉnh của một bi kịch. Điều kiêng kị nhất cuối cùng vẫn đến. Khuôn mặt trắng bệch của Paul lộ ra dưới lớp đất tươi.