← Quay lại trang sách

Chương 9

Giống như một số vương quốc cổ khác ở Đông Nam Á, người Champa không có truyền thống chép sử. Để nghiên cứu Champa cổ, các nhà khoa học rất vất vả và phụ thuộc rất nhiều vào những văn bản được viết trên những chất liệu vô cơ bền như gạch đá, đất nung, đồng và các vật dụng kim loại khác còn sót lại của nền văn minh này. Trong nguồn dữ liệu khá hiếm hoi đó, những tấm bia kí được coi như những cuốn sách sử vô giá.

Đã hơn một thế kỉ kể từ khi Camille Paris tìm ra Mỹ Sơn, chỉ riêng mảng văn bia đã có hàng chục chuyên gia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ lao vào nghiên cứu nhưng những gì họ làm được chỉ là một phần rất nhỏ và những bí ẩn trên đó vẫn đang chờ các nhà khoa học trong tương lai giải mã. Trên những cuốn “ bách khoa toàn thư’’ đó người ta có thể tìm thấy bất cứ lĩnh vực nào mà mình yêu thích: từ lịch sử, tôn giáo, văn học, kiến trúc, điêu khắc và nhiều lĩnh vực khác. Đây là một tài sản vô giá của dân tộc Chăm nói riêng cũng như của đại gia đình các dân tộc Việt Nam và là nguồn cảm hứng vô cùng tận cho bao thế hệ văn nghệ sĩ muôn đời sau.

Có một điều nên nhớ: cổ nhân Champa kiến tạo ra những kiệt tác nghệ thuật đó không phải để cho lớp con cháu sau này ca tụng mộng mơ mà là để phục vụ cho mục đích thờ cúng của tầng lớp tu sĩ và quý tộc đương thời. Vô số của cải được dâng cúng cho các vị thần Balamon được nghi lại rõ ràng cụ thể trên bia kí từ chủng loại và khối lượng như vàng bạc, đá quý, hầm mỏ, đất đai và lãnh địa và điều này dẫn đến sự xuýt xoa nhòm ngó của những cái đầu đen tối. Vì vậy, trong những nơi cất giấu của cải này luôn kèm theo bùa yểm và lời nguyền trừng phạt kẻ xấu. Bia kí Champa cũng vậy, chúng ta không khó để nhận ra các thông điệp lạnh lùng đó.

Đơn cử: một tấm bia đặt trước tháp A1, đây là ngôi tháp đẹp nhất Mỹ Sơn và được xếp vào hàng kiệt tác của kiến trúc Champa cổ. Tiếc thay, công trình này đã bị phá hủy bởi bom đạn nhưng di chỉ khắc trên tấm bia này vẫn là những lời nguyền bất hủ vang vọng ngàn đời không thôi. Dòng thứ 9 và 10 của mặt (B) trên tấm bia chữ Phạn này viết: “... Ai giữ gìn các đồ cúng thần này thì công đức thuộc về người đó. Ai không gìn giữ mà phá hoại thì người đó sẽ tự bị thiêu hủy... Bhadresvarasvami thấu hiểu’’

Cũng ngay bên cạnh tháp A3, bài minh khắc năm 657 của vua Prakasadharma có 55 dòng tiếng Phạn được tìm thấy, mặt (B) câu thứ 30 viết “ kẻ nào phá hoại (đền tháp và đồ thờ cúng), kẻ đó sẽ ngã gục, không hề được tha thứ, hệt như chịu hậu quả muôn đời về tội giết người balamon... ’’

Một bia kí tìm thấy ở An Vỹ, Quảng Nam có niên đại thế kỉ thứ chín dường như chỉ có một chức năng duy nhất là khuyên cáo và đe dọa. Bất kì mảnh vỡ nào của tấm bia này cũng thấy những dòng chữ nói về những con sói trắng và đen sẽ xé xác bất cứ kẻ bất lương nào đụng đến những gì thuộc về thần linh.

Thực tế đã chứng minh, những lời nguyền bí ẩn trên không phải là những lời dọa suông.

Mắt Kì Phương hoa lên khi dòng chữ kì lạ đang nhảy múa trước mặt. Anh cúi người xuống cho máu thông suốt lên não rồi thở sâu cho dưỡng khí tràn ngập buồng phổi. Khi đã đạt độ tỉnh táo cao nhất, anh lại tập trung vào yoni với hi vọng điều mình vừa thấy chỉ là ảo giác. Nhưng không, dòng chữ nổi rõ trên lớp máu đen sánh hiện rõ hơn bao giờ hết. Điều kì lạ là trước đó anh và viên cảnh sát đã nhìn hàng chục lần mà không ai phát hiện ra điều này.

Ai đã viết ra nó? Khi anh và Lê Đại Hắc đàm đạo bên ngoài không hề có ai bước vào. Mấy viên giám định thì không thể viết mà viết được thì có cho vàng họ cũng không dám. Một kẻ lạ thừa cơ lẻn vào đây là lại càng không thể. Kì Phương cố giải thích rằng quá trình ngưng kết của máu diễn ra rất chậm và tĩnh. Vả lại máu đen trên mặt đá sần sùi nằm trong màn đêm rất khó thấy. Mặt chất lỏng lại có tính phản xạ cao nên khi anh chiếu đèn lên thì hình ảnh nhìn thấy là của bức tường gồ ghề xung quanh. Giờ đây, dưới ánh sáng tự nhiên, nó hiện rõ chân thực hơn bao giờ hết.

Mới nhìn, Kì Phương tưởng là chữ Chăm hoặc chữ Malay cổ, nhưng nhìn kĩ thì hoàn toàn không phải. Nó có vẻ cũng có nguyên âm, phụ âm, dấu âm trên, dấu âm dưới và cả móc câu y như chữ Chăm cổ thường thấy.

Mà nếu không phải chữ Chăm truyền thống thì có thể là Chăm cổ hoặc một ngôn ngữ nào đó trong số hơn 150 ngôn ngữ thuộc hệ Mãlai - Đa Đảo chăng? Người viết chữ lên đây với kẻ giết Paul có phải là một? Như sợ dòng chữ lại biến mất đột ngột như lúc xuất hiện, anh lấy giấy bút nắn nót sao chép y nguyên rồi cất kĩ vào ba lô như sưu tầm được một ngôn ngữ lạ.

Kì Phương khóa chặt balo rồi lại ngắm nghía. Mỗi loại chữ cổ có một quy luật viết khác nhau, khi đọc không đúng chiều hoặc ngược hướng sẽ không nhận ra mặt chữ. Đã đi ba vòng và thử các góc độ nhưng các kí tự đó vẫn là một câu đố hiểm hóc. Mà có thể đây không phải là chữ mà là bút tích có ý đồ của hung thủ. Trong thế giới của những hội kín, sau vụ án thủ phạm thường để lại thông điệp nào đó trên hiện trường. Đó là một thông tin, sự thách thức, hoặc một đe dọa hay nhắn nhủ của hung thủ. Ngay lúc anh định bỏ đi thì có tiếng xe đỗ nhẹ ngoài bờ suối cùng lúc có bốn người đang đi rất nhanh về phía anh. Kì Phương mừng rỡ khi nhìn thấy tốp sư phụ của mình và một cô phóng viên quen mặt. Anh vẫy tay kêu to.

- Mời mọi người vào đây!

Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp lại từ xa với khuôn mặt nghiêm trọng, ông dẫn đầu đoàn tiến thẳng vào tháp như chính ông mới là chủ nhân đích thực ở đây. Kì Phương và Mộc Trân đứng ngoài để dành không gian cho ba người đàn ông đi vào. Tiến sát đài thờ, giáo sư Huỳnh Lẫm nghiêng mình đứng lại, hai người khác dàn ra hai bên và cúi xuống như đang làm một nghi thức nào đó. Thấy khuôn mặt giáo sư Huỳnh Lẫm đột nhiên căng thẳng và giữ nguyên tư thế cúi đọc rất lâu mà không ngửng lên.

- Thưa các thầy, em đã cố tìm hiểu, nhưng chịu. – kì phương nói vọng vào.

Giáo sư Huỳnh Lẫm vẫn giữ nét mặt kính cẩn lẫn kinh ngạc, có lẽ trong cuộc đời khảo cổ và dịch cổ ngữ của mình chưa bao giờ ông nhìn thấy một chữ viết quái lạ đến thế. Hơn nữa nó lại viết bằng máu tại trên một biểu tượng tôn giáo thiêng liêng. Tiến sĩ Phú Thành Tài lùi lại một bước lấy tay che miệng nói khẽ.

- Chữ của quỷ dữ!

Tiếng thì thào của ông ta như làn gió buốt len vào tai mọi người. Giáo sư Huỳnh Lẫm quay mặt lại nhìn xiết vào mắt ông ta áp chế. Kì Phương liền hỏi.

- Thưa thầy, có phải đây là hệ chữ Phạn hay Chăm cổ?

- Hỏi thế sai bét! - Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp khô khốc.

- Vậy thì theo thầy là hệ chữ gì ạ?

- Tôi đã nhắc anh bao nhiêu lần rồi, trên các bia kí của Champa chỉ dùng một hệ thống chữ viết duy nhất để biểu đạt, đó là hệ thống chữ Bhahmi vay mượn từ Ấn Độ. Mà có tới hàng trăm hàng ngàn ngôn ngữ sử dụng hệ thống chữ viết Bhahmi tôi làm sao biết hết. Giống như tiếng Anh, tiếng Pháp, Ý và cả tiếng Việt... mượn hệ thống chữ Latin để viết và phiên âm cho ngôn ngữ của mình!

Kì Phương hỏi: - Nếu đây không phải chữ Phạn hay chữ Chăm cổ, vậy có hay không một chữ viết khác mà chúng ta chưa từng biết?

Giáo sư Huỳnh Lẫm chau mày lại:

- Người Malay cổ, Khmer cổ, cư dân đảo Sumatra và nhiều dân tộc Nam Á trước đây cũng viết khá giống với người Chăm cổ. Sau bao thế kỉ họ đã biến đổi và rẽ nhánh khác xa nhau. Tôi đã thuộc làu nhiều bộ sưu tầm ngôn ngữ kim cổ kể cả của Aymonier, Cabaton và Moussay, nhưng thú thật dòng chữ này là lần đầu tiên tôi nhìn thấy.

- Hay đây là chữ của... thánh thần? – Mộc Trân buột miệng.

Cô muốn rút lại câu hỏi của mình khi nhận ra vị giáo sư già rất đang rất nghiêm túc khi đối diện với trường hợp hóc búa nhất trong suốt cuộc đời đánh vật với chữ nghĩa của mình.

- Hết quỷ dữ rồi lại thánh thần. Các người khéo nghĩ những thứ đâu đâu nhưng một điều gần gũi và khoa học hơn thì lại không ai nghĩ ra.

- Đó là gì ạ? – Tất cả cùng hỏi.

- Đây đích xác là chữ của tiền nhân!

Cả đoàn nghe xong đều vô cùng ngạc nhiên. Vốn rất ưa những gì gây sốc và li kì, cô phóng viên vội vã chộp lấy hỏi dồn.

- Chữ tiền nhân? Chẳng lẽ tiền nhân vừa hiện về để viết lên đây sao?

- Cô nói đúng! Người vừa viết chữ này sống cách đây hơn một ngàn năm!

Tất cả vô cùng bối rối khi câu nói hoang đường đó lại thốt ra từ miệng ông. Nếu là tiến sĩ Tài nói câu đó Kì Phương đã bác bỏ thẳng thừng, nhưng đây lại là vị giáo sư cổ ngữ giỏi nhất mà anh từng biết. Sau khi Paul mất, chắc chắn ông là chuyên gia số một về Phạn ngữ trên dải đất chữ S này.

Kì Phương nhoài tới bệ thờ quỳ hai chân xuống để nhìn lại dòng chữ mà “ tiền nhân’’ vừa viết. Tuy không phải chữ Phạn hay Chăm nhưng nét viết y hệt như trên các bia đá Champa hơn ngàn năm tuổi. Những bia kí mà người ta tìm thấy ở Miền trung trước thế kỉ IV có nét chữ dạng cong của vùng Nam Ấn. Từ thế kỉ IV trở đi chữ Phạn ở Champa có dạng vuông của Bắc Ấn. Rồi khoảng từ thế kỉ VII trở đi lại quay trở lại dạng tròn ban đầu.

Nét chữ bằng máu trên Yoni này là loại cong tròn kiểu Nam Ấn mà Kì Phương dám cá rằng giáo sư Huỳnh Lẫm cũng không thể viết nổi chữ này cho dù dành cả ngày để nắn nót. Không nghi ngờ gì nữa, kẻ vừa viết lên đây có bàn tay và khối óc của... người cổ đại. Giáo sư Huỳnh Lẫm có thể đã cường điệu nhưng xét về cổ tự học, ông ấy chưa bao giờ sai.

Khổ nỗi, nếu đúng lời ông nói, thì tiền nhân vừa hiện về thật sao? Tiền nhân nào? Ai? Không lẽ vua Chăm tái thế trần gian để trừng phạt kẻ thù rồi kí tên mình bằng máu nạn nhân? Hoang đường! Nếu Paul bị người xưa trừng phạt thì phải xem lại việc làm của ông ta thực chất là gì? Những lời nguyền trên bia kí răn đe kẻ mạo phạm thần linh vẫn còn trơ trơ ra đó. Kì Phương biết mình đang đối mặt với hiện tượng dị thường nhất trong đời và thấy e ngại cho viên cảnh sát đang cố công đuổi theo một bóng ma.

Giọng giáo sư Huỳnh Lẫm vang lên:

- Các người hãy nghe cho rõ và đừng bao giờ quên! – Mấy người vẫn im re dỏng tai đón lấy từng chữ sắp tuôn ra khỏi miệng ông. Có lẽ hàng chục năm đứng trên bục giảng, chưa có lớp học nào tập trung cao độ như lúc này. Tiếng ông long trọng gióng lên như đang sắp đọc lời phán xét.

- Theo sử Trung Hoa, năm 445, vua Tống sai thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đánh chiếm Champa cướp được vô số đồ cúng bằng vàng bạc, riêng tượng vàng lên tới vài chục vạn cân. Khi về nước Đàn Hòa Chi đêm đêm bị ma hiện lên đòi lại đồ cúng, y sợ hãi và suy sụp, không lâu sau thì lìa trần. Năm 605 tên tướng Lưu Phương của nhà Tùy đến Mỹ Sơn xâm lược và cướp lấy 18 bộ thần chủ bằng vàng trong đền tháp rồi mắc bệnh lạ lăn ra chết trên đường về. Vua khmer “ bách chiến bách thắng’’ Suryavarman II sau khi đưa quân càn quét và dọn sạch của cải ở Mỹ Sơn đã chết mất xác trước khi trở về. Trong cuốn Lịch sử Đông Nam Á của giáo sư Hall còn ghi chép sự kiện thủy quân Java tấn công Champa và cướp đi một pho tượng Siva bằng vàng có kích thước lớn hơn người thật trong một ngôi đền ở Panduranga. Tuy nhiên chuyến thuyền tội lỗi này đã không bao giờ cập bến nữa.

Ông chùng giọng rồi tiếp:

- Chưa có thống kê đầy đủ nhưng ta tin rằng không ai đụng đến thần hộ mệnh của người Chăm mà toàn mạng trở về. Nay Paul chết, chết bất đắc kì tử tại đây là chuyện vô cùng cấm kị. Thần linh nổi giận thật rồi!

Giọng ông run lên, ông định nói gì thêm nhưng rồi lại thôi. Nhưng chỉ ngần ấy đã đủ làm cả bọn hoang mang. Kì Phương biết ông vẫn còn tỉnh táo bởi những điều vừa nói là trích chính sử. Giáo sư Huỳnh Lẫm vốn xem tôn giáo là một thứ xa xỉ và càng không bao giở tỏ ra mê tín. Ông say mê nghiên cứu tâm linh nhưng luôn khẳng định mình là một nhà duy lí. Kì Phương bấy lâu nay xem ý kiến của ông là trí tuệ, đáng tin, nhưng sau những gì vừa nói lại chứng tỏ ông đang tin vào thần thánh. Ông đã thay đổi, và đây cũng là lần đầu tiên ông cởi tung chiếc áo vô thần ngay trước mặt mọi người.

Mà thật ra không riêng gì ông, những gì diễn ra tại thánh địa sáng nay đủ làm những bộ óc sáng nhất cũng phải đặt dấu hỏi về tính năng của lời nguyền.

- Thưa thầy! – Kì Phương nói. – Trong lịch sử Champa, người ta xử tội nhũng kẻ xúc phạm thần linh như thế nào, có phải là tế máu?

- Trên các bia kí và trong các nghiên cứu của tây lẫn ta như Bergaigne, Boisselier, Finot, Ngô Văn Doanh, Trần Kì Phương... cũng có viết về lễ tế tù binh và tội phạm tại đền tháp nhưng không ai nói rõ cách thức hiến tế ra sao. Đó là chỉ nghi lễ tượng trưng hay là màn giết chóc đẫm máu thì không ai biết. Nhìn sang các nền văn minh cổ khác, đến nay sử sách họ vẫn lưu truyền rõ ràng rằng người Maya hiến tế thần Mặt trời bằng cách mổ bụng nô lệ moi tim và lấy máu tưới lên các tượng thần hay ném các cô gái đồng trinh xuống giếng thánh. Người Mêhicô và Peru cổ chỉ lột da người để phục vụ cho nghi lễ. Người chăm không chép sử, họ không có sử gia. Mặc dù chúng ta đã dịch gần hết 200 văn khắc và hàng ngàn thư tịch cổ chép tay cổ nhưng hiếm khi nói đến tế người. Có giả thuyết rằng cổ nhân đã hủy hết tài liệu loại đó. Đây là lỗ hổng tư liệu trầm trọng và bằng chứng đã tan vụn theo hàng trăm tấm bia. Dù sao...

Ông lặng đi nhìn lên bệ thờ với ánh mắt đầy xúc động nói tiếp:

- Tuy hành vi giết người tế lễ này là tội ác, nhưng nghi thức hiến tế này hắn học ở đâu hay tài liệu nào thì không thể xem thường được. Chúng ta phải mổ xẻ dưới góc độ khoa học lịch sử. Có thể một tu sỹ đắc đạo đội mồ chui lên để giáng thế một nghi lễ nguyên thủy xa xưa.

Đúng là ông già không còn tỉnh táo. Tiến sĩ Phú thành Tài nhúc nhắc định chui ra, nhưng ông nghĩ bỏ đi lúc này cũng không đặng bèn xen vào một câu.

- Nếu là cúng tế, vậy sao lại không có linga? đạo Bàlamon cúng thần mà không có linga khác gì tượng Phật không đầu. Huỳnh Lẫm quay phắt sang, đỉnh mũi ông ta chỉ cách vành tai Phú Thành Tài nửa gang tay.

- Không có linga không có nghĩa là thiếu biểu tượng dương khí!

- Dương khí? – Phú Thành Tài vặc lại. - Vậy dương khí ở đâu hả thầy?

- Kẻ hành lễ đã làm một phép thế!

- Thay thế? Hắn dùng cái gì thay thế linga?

Giáo sư Huỳnh Lẫm trỏ tay vào lòng yoni.

- Chính dòng chữ kia là biểu tượng dương khí.

Phú Thành Tài há hốc mồm, quả là thầy mình có cái nhìn rất sáng tạo và thú vị. Các nghi lễ tôn giáo hiện đại đã giản lược hủ tục và thay thế những vật tế rờm rà bằng các hình vẽ hoặc chữ viết đơn giản hơn nhưng không mất ý nghĩa.

- Đây là một chữ cổ chưa rõ nghĩa. – Giáo sư Huỳnh Lẫm tiếp. - Nhưng tôi dám chắc nó là biểu tượng thay cho một linga. Mà linga là biểu hiện của thần Siva, vì vậy dòng chữ này là tên của thần Siva hoặc một vua Chăm được phong thần.

- Vua nào nhỉ? - Tiến sĩ Tài lẩm nhẩm trong họng. Em sợ đó là tên của một thằng điên. Cảm thấy tai mình đã ù ù, nhưng ông ta vẫn chưa thôi tranh cãi. - Trong mấy trăm đời vua Chăm, tôi không thấy vua nào có cái tên không thể đọc được như vậy. Theo tôi, đây là bí danh của kẻ khát máu, một kẻ u mê giữa tín ngưỡng và tội ác. Hắn ngông nghênh ngạo mạn tự coi mình là vua thì có.

- Một tên ngạo mạn nhưng uyên bác. – Giáo sư Huỳnh Lẫm gắt lên. - Đầu óc một thằng điên không thể làm phép ẩn dụ tinh thông và bàn tay thư pháp như thế.

- Thưa thầy, nhưng lấy gì để chứng minh đây là “ chữ’’. Nhìn qua hao hao chữ Lào... nhưng rốt cuộc chả là gì hết. Một vài nét múa may học đòi, hắn thậm chí không hiểu tiếng Chăm.

- Anh đừng coi thường. Khi người Babilon đặt chân đến vùng đất Lưỡng Hà họ đã phát hiện loại chữ hình nêm vẽ nguệch ngoạc trên các tấm đất sét đã cho rằng đó là trò nghịch ngợm trẻ con cho đến khi nhận ra đó là chữ viết của người Sume. Sau này chính người Babilon cũng học theo nó và phát triển lên tầm cao hơn. – ông chỉ lên dòng chữ. - Hãy tìm cách đọc nó đi!

Tiến sĩ Tài vuốt mũi mà không phản bác gì nữa. Ông ta chăm chú nhìn kĩ rồi lại thốt lên:

- Ppadop akhar...

Từ này tiếng Chăm cổ có nghĩa là “ chữ quái dị’’. Đó không phải là sản phẩm trí tuệ chân chính mà là cách viết mã hóa của một từ ngữ. Trong kho tàng văn bản viết tay của người Chăm rất nhiều tài liệu quý hiếm từng nằm trong tay một số cá nhân hẹp hòi. Do muốn hưởng riêng hoặc lo thất lạc nên người sở hữu đã cố tình cất giấu bản chính và tạo ra nhiều bản sao với ngôn ngữ quái dị chỉ có họ mới hiểu, với mục đích là nếu bị mất thì không ai dùng được. Suy cho cùng, họ cũng đang thực hành một dạng nghệ thuật mật mã.

- Có lẽ tên sát nhân muốn chơi khó cảnh sát và giới ngôn ngữ chúng ta. – Tài thốt lên.

- Thôi, bàn chuyện chữ nghĩa sau! - Người cán bộ tên Trọng nói lớn. - Việc bây giờ là tìm kiếm báu vật nó ở đâu.

Giáo sư Huỳnh Lẫm khó khăn lắm mới dứt mắt ra khỏi dòng chữ để quay sang hỏi Kì Phương.

- Trước khi mất, không biết Paul có dặn điều gì không?

Kì Phương sực nhớ tờ giấy, theo quán tính anh lôi tuột ra.

- Đây, tất cả những gì Paul để lại cho chúng ta đây.

Giáo sư Huỳnh Lẫm vội cầm lấy rồi thốt lên.

- Trời! Sao anh không nói sớm?