← Quay lại trang sách

Chương 25

Qua kính lúp, Kì Phương nhận ra các mép yoni ánh lên màu vàng sáng. Anh thốt lên:

- Nó không phải là đá.

- Không lẽ là vàng thật? - Thi Nga hỏi.

- Vàng thật? mắt hắn tinh thế sao?

Kì Phương không rời mắt kính, khi soi đến vòng chữ anh càng sửng sốt bởi nó là một gờ nổi chứ không phải được viết bằng máu.

- Xem này, gờ này nổi lên rất cao và sắc.

Thi Nga nhận ra đây là yoni đặc biệt, khác hẳn những cái mà cô từng thấy. Một dòng chữ khắc nổi giữa lòng yoni.

Thi Nga chỉ vào lòng yoni nói:

- Chiếc yoni này sẽ cắm vào linga bằng dòng chữ lồi này sao?

- Có hai khả năng. – Kì Phương đáp. – Một là dòng chữ chính là ngàm liên kết. Hai là vòng chữ lồi cao này chính là một linga.

- Tôi không cho rằng dòng chữ ngoằn ngoèo này là linga… - Cô nheo mắt nói trong nghi ngờ.

Thi Nga không tin dòng chữ nhú khỏi mặt yoni kia là linga, nhưng nếu đó là sự thật thì có lẽ đây là một linga ngắn và dị dạng nhất mà cô từng thấy. Cô nói:

- Vậy khả năng thứ hai?

- Hoặc có một linga rất lớn và mặt dưới của linga này lõm vào vừa khít với gờ chữ này. Ngàm âm dương.

Đầu óc Kì Phương bừng sáng. Rốt cuộc thì anh cũng đã nghĩ ra. Đáy linga này có vòng chữ lõm vào. Dòng chữ BHADRESVARA bằng máu ở Mỹ Sơn chính là do linga này in xuống. Đêm qua kẻ nào đó đã tưới máu lên linga nên nó đã kịp đóng lại một dấu triện lớn trên yoni. Một câu hỏi khác lại nảy sinh trong đầu Kì Phương: linga này đã thất lạc ngàn năm tại sao nay lại xuất hiện ở Mỹ Sơn để rồi lại ra đi lần nữa? Nhưng sự ra đi lần này không im lìm trong hư vô mà nó đã kịp thời lên tiếng. Dòng chữ BHADRESVARA bằng máu của một học giả để lại trên yoni là một tiếng thét thê lương xuyên vọng núi sông.

Linga đã trở lại- một sự trở lại hãi hùng. Kì Phương rùng mình cố gạt bay nỗi ám ảnh về một lễ hiến tế bằng máu đang hiện về.

- Anh nghĩ gì thế? - Thi Nga cấu mạnh vào tay anh, cô rất sốt ruột vì thời gian càng cạn bao nhiêu thì Kì Phương càng trầm uất bấy nhiêu.

- Thi Nga, cô có tin Phạm Hồ Đạt là người in tên mình lên yoni không?

- Không lẽ anh cũng tin người chết đã hơn ngàn năm bỗng hiện về để viết lách?

- Không, ông ta viết tên mình từ lúc còn sống.

Thi Nga dùng kính lúp quan sát bức ảnh rồi gật đầu nói.

- Ông ta chạm trổ tên mình lên yoni thật?

- Thực ra BHADRESVARA là tên ghép BHADR + ESVARA. Trong đó BHADR là tên của vua, còn ESVARA là một phiên hiệu của thần Siva. Tên của Siva cũng là tên của vua. Đây là cách các vua Chăm đồng nhất mình với thần Siva là một. Còn muka-linga cũng là một cách đồng nhất vua-thần nhưng dưới dạng điêu khắc.

- Vậy theo anh, vua BHADRAVARMAN vừa dùng vương hiệu vừa dùng điêu khắc để thần thánh hóa mình?

- Dạng muka-linga chỉ xuất hiện từ sau thế khỉ thứ IX, còn thời Phạm Hồ Đạt là thế kỉ thứ IV nên trường phái mukha-linga chưa ra đời. Có thể khắc vương hiệu lên linga là một sáng tạo lúc đó.

- Phát hiện của anh thú vị đấy! – Thi Nga tán thưởng. - Dòng chữ này quá đẹp, nhưng tại sao không khắc lên vị trí trang trọng trên linga để người đời chiêm ngưỡng, khắc vào chỗ kín như thế này e khiêm tốn quá.

- Khiêm tốn ư! - Kì Phương lắc đầu. - Những người tự phong mình là thần Siva mà khiêm tốn ư.

- Vậy sao lại giấu tên mình vào bên trong? – cô hỏi.

- Bộ linga-yoni vốn là một chỉnh thể cân bằng, nếu cô muốn khắc một cái tên có tính dương thì khắc vào chỗ nào?

- Khắc vào Linga.

- Không được, bản thân linga là dương, cộng thêm dương nữa là hỏng.

- Vậy thì khắc lên yoni!

- Càng hỏng, yoni là âm, cộng thêm dương là cân bằng, vậy thì linga là thừa sao?

- Vậy thì... khắc lên cả hai.

- Chỉ được một chữ thôi, vua hay mặt trời chỉ có một.

- Tôi hiểu rồi, khắc chỗ tiếp giáp chính giữa.

- Đúng thế. Đó là lí do họ khắc vào chính giữa. Dòng chữ này một nửa in vào yoni, nửa kia in vào linga tượng trưng cho gạch nối đó. Nó thể hiện một triết lí âm dương sâu xa.

- Hắn đến kìa! - Thi Nga nhắc khẽ.

Kì Phương nhìn về nơi có tiếng động, một chiếc bóng to kềnh đang ngúc nhắc tiến về phía họ. Anh thì thầm sát tai cô.

- Chính hắn, hắn đã ăn cắp linga!

- Tại sao là hắn? - Cô thảng thốt nhìn anh.

- Khi gặp nhau trong quán cà phê hắn đã buột mồm hỏi yoni. Tôi tưởng hắn xách mé cô nhưng lúc ở tầng dưới hắn lại thốt lên lần nữa. Chỉ thứ lặp đi lặp lại nhiều trong đầu mới dễ sẩy miệng như thế. Và nữa, khi xem bức ảnh yoni hắn say mê lạ thường. Nhất định hắn đã thấy chữ này trên linga từ trước.

- Chưa chắc, hắn có thể thấy chữ này trong sách hoặc ở phòng triển lãm trên Bộ. Hơn nữa, nhìn bức ảnh này bất cứ ai cũng tò mò.

- Không chỉ dòng chữ, hắn đã biết trước đây là yoni quý. Theo tôi hắn đã có linga và muốn chiếm nốt yoni.

Thi Nga biết đây chỉ là một xác suất rất nhỏ nhưng cũng không phủ nhận.

- Có lẽ vậy... – Cô nói, mắt nhìn y đang lại gần.

- Tôi tin đêm qua hắn đã nhìn thấy linga này ở đâu đó. - Kì Phương tiếp. - Trong khi ta cấp tốc đi tìm Naga thì hắn cũng âm thầm ráo riết săn tìm yoni. Khi biết yoni đang ở Naga thì hắn mới chấp nhận đi tìm Naga cùng chúng ta.

- Và giờ thì hắn đã thất vọng?

- Hắn chỉ thất vọng một nửa, để tìm được Naga, hắn vẫn rất cần ta.

- Giả thiết hắn đã có linga trong tay có vẻ viễn vông quá? - Cô lắc đầu. - Nếu đúng hắn đang có linga, hóa ra ta gặp may quá.

- Không có gì may mắn ở đây cả. Cô nên nhớ là linga có thể là cái mà ba cô đã đào lên sáng nay. Kể ra tay săn linga chuyên nghiệp này đoạt được linga đó cũng không có gì là lạ. Khi một món đồ cổ quý ở đâu đó bị mất cắp, điểm đến cuối cùng là những ông trùm.

Thấy Thi Nga lặng thinh, anh tiếp:

- Cô ở Pháp lâu rồi nên không hiểu dân An Nam chúng tôi. Khi anh bị mất cắp vật gì đó đặc biệt, cách lấy lại nhanh nhất là đến tìm đến hiệu cầm đồ chuyên về thứ đó.

Thi Nga nhận ra lập luận này hơi bi hài nhưng không phải là không có lí. Ngay ở Pháp, nhiều bức họa nổi tiếng bị mất cắp không thể nào tìm lại được cho đến khi người ta thấy nó ở chợ trời hoặc trong két sắt các nhà sưu tập tư nhân. Nhưng cô lại càng tỏ ra e ngại hơn:

- Sẽ có bao nhiêu người suy nghĩ như anh?

- Ý cô là sao?

- Tôi nói để anh biết. - Giọng cô nghiêm trọng. - Đêm nay hắn sẽ tiếp bao nhiêu vị khách không mời mà đến như chúng ta?

Kì Phương hiểu ngay, cũng như bất cứ một tay anh chị nào khi trúng quả, bọn xôi thịt và phường lâu la sẽ ngửi thấy và bu đến như ruồi. Đáng sợ nhất là những nhóm giang hồ khác sẽ tìm đến y để đoạt lại báu vật bằng mọi giá. Kì Phương vừa nghĩ đã muốn chuồn lẹ vì anh rất sợ phải tham gia những bữa tiệc sắt máu kiểu này.

- Tôi chỉ mong anh đoán sai. - Thi Nga ghé tai anh. - Nếu không... hắn sẽ thủ tiêu chúng ta mất...

- Không! Hắn cần chúng ta để tìm nốt yoni kia!

- Đúng. - Thi Nga thì thào. – Nhưng hắn cũng sợ ta cướp lại linga, một khi ta không có lợi cho hắn thì hắn sẽ loại bỏ chúng ta!

Trong khi Kì Phương và Thi Nga đang mải mê phân tích tình huống và đoán định về Simha thì y đang chơi một ván bài cao tay hơn. Trong căn phòng đọc nhỏ cuối thư viện, y đã nghe lén cuộc nói chuyện đã kéo dài tới hơn chục phút từ một chiếc máy mini mà y vừa kịp giấu trong một hộc tủ rất gần với chiếc bàn họ ngồi. Nghệ thuật tạo không gian mang cảm giác an toàn, thoải mái và kín đáo giả tạo cho các đối tác tha hồ bàn tán trong tầm nghe lén nhằm mục đích tìm sơ hở hay mánh mung của họ mà y từng thực hiện rất thành công. Xem cách Kì Phương săm soi rồi phân tích chiếc ảnh yoni, cách anh tìm kiếm loại sách và giảng giải với Thi Nga làm cho y ngày càng tin rằng Kì Phương biết rất nhiều về Naga và có phương pháp rõ ràng cụ thể để tìm kho báu chứ không phải chuyện đùa. Giờ thì y dám khẳng định rằng kéo họ về đây quả là lựa chọn táo bạo và đáng giá.

*

Kì Phương rợn buốt sống lưng. Nếu quả đúng y đang nắm linga thì đây là một điều xấu hơn điều tốt. Một con hổ đang tha mồi thì tốt nhất nên tránh xa nó. Kì Phương ngóc đầu lên xem hắn ở đâu thì có tiếng động nhẹ sau lưng. Tiếng gõ lộp cộp trên sàn gỗ to dần cho đến khi một mũi giày đinh thò ra dưới gầm bàn. Trong khi Kì Phương và Thi Nga đang xì xào thì y đã làm một việc quan trọng. Đó là chỉ đạo đám đồ tể của mình cất giữ báu vật cũng như sẵn sàng ra tay khi có lệnh của y.

Kì Phương và Thi Nga giả vờ chăm chú vào đống sách nhưng cố nặn óc làm sao vừa tìm được Naga vừa an toàn ra khỏi đây. Cách duy nhất là làm cho y tin rằng anh sẽ tìm ra Naga và cả yoni vàng cho hắn. Simha bước đến cất giọng tận tình như một gã bồi bàn mến khách.

- Anh chị cần gì cứ nói đừng ngại. Tôi đã gọi bánh ngọt và cà phê. Tiếc là hết Lavazza kiểu Ý, hai vị dùng tạm cà phê chồn Kopi nhé?

Con nghiện nào trước khi trấn lột cũng thường thỏ thẻ phỉnh phờ nạn nhân. Kì Phương chả ham hố gì thứ nước uống nghiền từ phân chồn Indo này bất chấp giá mỗi li lên tới vài triệu đồng. Nhưng tùy gia tập tục, anh nói:

- Vâng, cám ơn. Tôi rất muốn tìm các cuốn sách viết về văn khắc Champa nhưng trong thư viện này hình như không có?

- Anh muốn tìm sách nào hay văn bia nào, tôi sẽ tìm cho.

- Tất cả các sách viết về bia kí ở Mỹ Sơn.

- Cụ thể đi. - Y nghênh đầu cười nhã nhặn. - Anh biết là có hơn hai chục cuốn loại này của các học giả Pháp đấy!

Kì Phương thoáng chút sửng sốt với số lượng lớn như vậy nhưng nhìn điệu bộ của y anh hơi ngán. Với cách này y sẽ giám sát và theo dõi từng mạch nghĩ của anh. Tệ hơn, khi giải mã cho y xong thì đời anh cũng hết. Đáp án nằm trên bốn bia, anh phải giữ bí mật một cái làm phao cứu mạng.

- Hãy mang cho tôi những sách có bia kí A5, D6.

- Được! Hãy chờ nhé.

Nói xong y đi về phía tủ. Không lẽ lúc họ ở tầng dưới y đã bỏ lên đây cất giấu các sách bia kí? Y đã biết mật mã sao? Hay y giấu sách chỉ là một hành động đề phòng bởi y từng kể là mấy lần bị trộm hỏi thăm hay ai đó khám nhà. Trong lúc chờ y, Kì Phương bật điện thoại kiểm tra tin nhắn và anh thấy một tin gửi từ quê nhà “ hãy mở email ngay’’. Tuy đang lạc vào lãnh địa của Simha nhưng anh vẫn từng phút từng giây đợi những bản văn khắc từ người bạn gửi đến. Anh nhắc Thi Nga.

- Cô hãy canh chừng hắn cho tôi.

Kì Phương hồi hộp bật máy tính kết nối wifi rồi mở hòm thư. Chỉ đúng một bức thư của người đồng nghiệp tận tình nhất. Khi thấy 4 file ảnh hiện lên anh vui mừng khôn xiết vì bốn tấm bia đã được chụp. Tuy nhiên niềm vui chỉ diễn ra đúng ba giây, vì có hai tấm khổ rộng và hai tấm khổ hẹp nên anh nhận ra đó là 4 mặt a-b-c-d của một khối bia hình hộp mà thôi. Đó là bia A5.

Thi Nga đoán đúng, bia này đang ở Bảo tàng Chăm. Dù sao cũng nên vui hơn buồn, anh lướt mắt đọc mấy dòng tái bút và điều này làm anh thất vọng thực sự. “ Phương! Tao chỉ thấy mỗi bia A5 thôi, bia D6 tao không thấy. Tao đã gọi điện hỏi tất cả các thầy rồi nhưng họ cũng không rõ. Bia E3 thì hình như đang trong kho nào đó cần có nhiều thời gian để tìm. Còn riêng bia C8 thì có lẽ ở Pháp hoặc tan vụn rồi. Chúc may mắn.’’

Ngán ngẩm. Cứ coi như sẽ tìm thấy ba bia kia nhưng nếu quá muộn thì cũng vứt. Theo nguồn thống kê của Pháp thì nhóm C chỉ có 7 di tích. Nhiều tài liệu khác lại không thống nhất, có khi đã phát hiện ra C8 nhưng chưa cập nhật hoặc công bố. Vì vậy anh đang chờ sách của Simha.

Kì Phương thầm trách Paul đã phạm sai lầm khi tạo một mật mã tản mát đến thế nhưng cũng nhờ đó mà nhiều kẻ khác phải bỏ cuộc. Thấy anh ngồi thẫn thờ, Thi Nga chạy lại hỏi.

- Lại tiếng Phạn hả?

- Chăm, chỉ có bia đầu A5. Bia cuối C8 không tồn tại.

- Không ai dùng một cái không tồn tại để chỉ một cái đang tồn tại cả.

- Hay là tôi lại hiểu sai các kí tự nhỉ?

- Bình tĩnh lại đi. - Thi Nga an ủi. - Y sẽ bổ sung tư liệu cho ta. Dù sao anh cũng phải dịch tấm bia A5 này đã.

Lúc đó Simha cũng vừa đi tới, y đặt một chồng sách nữa lên bàn rồi nhìn Kì Phương hất hàm.

- Bia kí đấy, dịch đi!

Kì Phương chọn ngay cuốn sách khá dày có tiêu đề tiếng Pháp: “ Kiểm kê văn khắc Champa và Camboge’’ xuất bản năm 1908 của George Coedes. Anh hăm hở lật ra tìm một hồi chỉ thấy văn bia A5. Đúng như anh nghĩ, đây là bản rập hiện trạng chưa dịch nghĩa. Tuy chưa dịch được chữ nào nhưng Simha đã kè kè bên cạnh anh với cây bút trên tay. Kì Phương đã có cớ để đuổi hắn đi.

- Anh hãy tìm cho tôi cuốn từ điển tiếng Phạn – Anh hoặc Phạn – Pháp.

- Cô Thi Nga! – y chỉ tay. – Cách cô hai dãy, đầu cùng tầng ba là khu từ điển.

Thi Nga không muốn mất thời gian nên đi ngay. Sau một lúc cô đặt cuốn từ điển Phạn – Anh trước mặt anh. Kì Phương vẫn quyết đuổi cổ Simha:

- Còn hai bia D6 và E3, anh tìm giúp tôi. Tìm luôn bản dịch thì tốt.

Đợi Simha chạy đi, Kì Phương dừng tay đưa bảng kí hiệu ra xem lần nữa. Một nhoáng sau, Simha lại mang tới một chồng nữa. Quả thực Simha là một tay sưu tầm sách có hạng. Kì Phương đảo mắt qua chồng sách cao hơn người. Nào là “ Văn khắc tiếng Phạn của Champa và Campuchia’’ nhưng của một tác giả khác là Abel Bergaigne, xuất bản năm 1893. “ Nghiên cứu đầu tiên về văn khắc Chăm’’ của Étienne Aymonier, xuất bản năm 1891. “ Những văn khắc phát hiện ở Champa’’ của Camile Paris, năm 1896... Toàn tiếng Pháp nguyên bản.

- Đủ chưa? – Simha nhìn anh hỏi. - Còn chục cuốn nữa đấy, để tôi lấy nốt!

- Thôi thôi, tạm thế đã.

Kì Phương thán phục với những công trình Champa học mà người Pháp để lại, trong đó có nhiều cuốn mà anh tìm đỏ mắt ở trong nước mà không thấy. Chỉ mảng văn khắc mà đã hơn hai chục cuốn, chưa kể sách về kiến trúc, lịch sử, tôn giáo... Quả thật, đêm nay tìm tới Simha là quyết định sáng suốt nhất đời anh.

Kì Phương lần lựa xem các mục lục để chọn cuốn nào đầy đủ nhất và anh lấy cuốn “ Văn bia Mỹ Sơn’’ của Louis Finot xuất bản năm 1904. Louis Finot là học giả dành nhiều tâm huyết cho bia kí nhất và cũng là người Kì Phương hâm mộ nhất sau Paul. Finot từng gắn bó nhiều năm với Champa và Angkor. Ông học tiếng Phạn từ hồi còn là cậu bé chăn cừu cho đến khi thành giám đốc đầu tiên của EFEO vẫn còn học. Ông là một trong những chuyên gia Phạn ngữ uyên bác nhất mà EFEO may mắn có được. Tuy nhiên cuốn này không như anh nghĩ, số văn bia không nhiều, chưa chuyển ngữ mà chỉ thống kê, ghi chú, tóm tắt. Cuối cùng, anh vẫn tìm được một bia mình cần nhưng lại trùng với cái mà anh đã có - bia A5. Không bản dịch.

Trước sau gì cũng phải dịch A5. Kì Phương cho rằng phải dịch dứt điểm từng bia một tránh nản chí. Yếu tố tổ chức rất quan trọng. Vẫn tuân thủ phương pháp giải mã theo nhóm, anh phân công.

- Ba chúng ta hợp lực dịch từng phần bia này trước. Simha và Thi Nga dịch hai mặt phụ ít chữ hơn, còn tôi dịch hai mặt chính. Sau đó khớp từng phần lại.

Kì Phương nói xong đưa sách cho họ còn từ điển dùng chung, anh dùng bản trên máy tính. Anh vừa dịch vừa nghi, xóa, rồi lại cắm cúi sửa. Simha không quen tỉ mẩn, y cúi mặt một lúc thì lim dim gà gật. Một lúc sau, y châm thuốc bồn chồn nhìn hai người rồi lại lật tung đống sách với hi vọng tìm thấy bản dịch. Không thấy gì, y bắt đầu tỏ ra nghi ngờ Kì Phương.

- Chúng ta phải làm thế này với mấy tấm bia?

Kì Phương nghĩ giấu diếm cũng không cần thiết bèn nói thật.

- Tất cả bốn tấm.

- Những tấm nào nữa?

Kì Phương lấy bản mã sang cho y tự đọc, biết đâu y nảy ra ý tưởng gì mới. Anh vẫn cần mẫn từng tí một. Dịch chưa đầy ba dòng anh nhìn đồng hồ và hốt hoảng vì đã nửa tiếng trôi qua. Giả sử như có phép màu tìm thấy bốn tấm bia nhưng với tốc độ này, để dịch xong chắc phải đến sang năm. Paul không “ chơi đểu’’ đến mức đó nếu thực sự ông muốn ai đó giải nhanh trong ngày. Đấy là chưa nói bia C8 không phải bia kí mà là thuộc hệ phân loại khác của Coedes. Kì Phương xem lại bản mã.

A5D6

E3C8

Lười biếng là một lợi thế, chỉ có kẻ lười mới nghĩ ra cách giải quyết thông minh hơn. Anh đọc lướt toàn bộ bốn mặt bia để rà quét những từ khóa đặc biệt- các danh từ khả nghi như: Naga, thánh địa, kho báu, mỏ vàng, cúng tế, hiến dâng, cất giấu... và chỉ ưu tiên dịch các câu xung quanh các từ khóa này. Bởi nếu có kho báu chắc chắn phải nội hàm các từ đó. Đây là cách làm tắt “ đi thẳng vào tim’’ rất tiết kiệm thời gian và hiệu quả, nhất là trong hoàn cảnh này. Thế nhưng điều oái oăm là dòng nào câu nào cũng chứa vàng, không vàng thì bạc, không bạc thì đá quý... Công việc không nhanh đi bao nhiêu. Cả nhóm im phắc, làm việc hăng say. Bỗng dưng Thi Nga phá tan yên lặng khi reo vang:

- Đây rồi!

Kì Phương và Simha nhổm dậy uôm tới ghé sát má cô để nhìn một bản chữ bé xíu. Mùi Chanel và làn da thơm ngát làm hai thằng chả thiết gì đến kho báu nữa.

- Đâu? Đâu? – Simha riết giọng.

Kì Phương nhìn dòng chữ đầu bút chì của cô. Toàn bộ máu trong người anh như dồn hết lên đầu. Thật không thể tin nổi, dòng chữ tiếng Phạn bé xíu đã làm anh tê cứng:

.

“... thánh địa Naga, kho báu cất nơi...’’

Chính nó! Kì Phương vỡ òa vì đã chạm đích. Bầu trời đen kịt mấy ngàn năm bỗng bừng lên sáng chói. Đọc qua thì ngỡ như một thể thơ tứ tuyệt nhưng đó là bài thơ thuộc thể rucira hoặc upajati nào đó đã đứt đoạn trên bia kí. Simha gầm lên:

- Kho báu cất nơi... Nơi nào? nơi nào!

Mắt họ cùng nhìn phập xuống dòng tiếp theo. Ác thay, cũng như bao bia kí đang đánh đố và trêu ngươi loài người mấy trăm năm nay. Tệ hơn, tấm bia này bị vỡ một miếng to tướng làm mất sạch mấy dòng sau. Cả ba tiếc đến ngẩn ngơ, giống như đang xem đến đoạn cảnh nóng của một bộ phim hay thì bị mất điện.

- Tại sao lại mất? - Simha sửng cồ gầm thét. - Ai đã phá tấm bia này?

Y vằn mắt lồng lộn như một con sói bị cướp khúc xương nhai dở trong miệng và sẵn sàng xé xác bất cứ kẻ nào xung quanh.

- Ai phá thì phải hỏi ông Finot chứ? - Kì Phương than trời.

- Ai? Finot là thằng quái nào? – Y quắc mắt nhìn Kì Phương như thể anh là thủ phạm vậy. Khi thấy bìa sách, y bỗng tẽn tò đập bàn chửi đổng chữa ngượng.

- Mẹ khỉ, đen thế! – Rồi y lại tru tréo. - Hay là chính ông ta đập vỡ? Rất nhiều kẻ đọc xong đập đi để phi tang rồi một mình đi đào kho báu đấy!

Kì Phương cố nhịn cười, anh không tin các nhà bác học lại xử sự như những tên đạo chích như thế. Y đang suy bụng ta ra bụng người. Theo Kì Phương, khi Camille và Codès đến Mỹ Sơn thì bia này đã bị vỡ rồi nhưng cũng không loại trừ họ vô tình làm vỡ. Ngay trong nội bộ EFEO cũng xuất hiện cáo buộc lẫn nhau về việc cố ý phá hoại các công trình nghệ thuật. Năm 1919 Henri Parmentier đã biên soạn một cuốn danh mục cho bảo tàng Tourane - tiền thân bảo tàng Chăm có ghi khối bia Chiêm Đàn bị xẻ thành ba mảnh, ông cho rằng lỗi cố ý của Camille khi nghi rằng: “ bằng bàn tay của các người phu đá của Camille Paris’’. Về sau người ta đã tìm thấy bản báo cáo của Camille viết rằng khối bia này đã bị xẻ ra nhiều mảnh từ trước khi ông phát hiện ra nó.

Câu hỏi ai đã xẻ bia này và vì mục đích gì có lẽ mãi mãi là một điều bí ẩn.

Nhìn xuống trang sách này, tấm bia A5 này bị cắt đục đúng chỗ “ nhạy cảm’’ làm Kì Phương giật mình nghĩ đến đã có một âm mưu mờ ám. Chắc chắn đã có bàn tay can thiệp có chủ đích. Hơn lúc nào hết, sự ngờ vực của anh về các tu sĩ Champa đập bia để che dấu bí mật là có cơ sở. Kì Phương không hiểu vì sao Paul lại chọn câu thơ cụt này, nhưng chỉ trong tích tắc anh chợt nghĩ ra ý đồ của ông cao siêu hơn nhiều. Cũng giống như sách kinh thánh hay kinh koran vẫn hay được viện dẫn để làm mật mã, Paul chơi hẳn sách đá Champa. Kho báu mà ông muốn chỉ ra không nằm ở dòng tiếp theo mà là nơi 3 tấm bia còn lại. Tuy nhiên Kì Phương không nói ý này cho Simha biết mà cứ để cho y nghĩ như thế càng hay. Thật thú vị nếu đây cũng là mẹo của Paul.

- Chúng ta dịch tiếp đi. - Thi Nga nói. - Biết đâu nó nằm đoạn sau nữa thì sao?

Simha xăng xái hẳn lên, y đã đánh hơi ra kho vàng đang ẩn náu đâu đây. Kì Phương không dịch mà anh đang ào ạt nghĩ. Anh dám cá ba câu thơ còn lại nói về một ngôi đền cổ, một hang đá nào đó chôn giấu kho báu. Vậy làm sao lọc nhanh được ba câu còn lại giữa cả biển chữ? Nếu mỗi tấm có bốn mặt thì tất cả có 16 mặt, tính sơ sơ cũng ngót ngàn chữ trong khi chỉ cần bốn câu thơ ngắn. Nhất định đây là đòn tung hỏa mù của Paul, anh tin rằng nó có quy luật.

Câu thơ Thi Nga vừa đọc nằm mặt thứ tư, mà gọi đúng quy tắc thì nó là mặt D. Đây là quy định của các nhà khoa học Pháp và được dùng phổ biến đến nay. Anh nhìn lại câu thơ và nhận ra nó thuộc hàng thứ 6. Thôi đúng rồi! Té ra A5D6 là mặt D dòng 6 của bia A5. Nghĩ đến đây Kì Phương định đứng vụt lên hét thật to: tìm ra rồi. Rất may, chỉ trong một phần ngàn giây anh đã kìm lại. Quyết không để Simha biết.

Vậy thì E3C8 chỉ là một câu thơ nữa mà thôi. Tất cả chỉ là hai dòng trên hai tấm bia mà thôi. Kì Phương nhìn sang mật thư và thấy mình đã bỏ qua một đầu mối rất quan trọng. Dấu móc kép là hai chữ S. S kép. Nó hàm ý hai Stela chứ không phải bốn. Rõ ràng là Paul đã mã hóa một cách khắt khe đến từng dấu phẩy như biểu thức toán học. Đơn giản quá! anh suýt thét vang thư thể đã xua tan sự bế tắc của mình.

Simha và Thi Nga vẫn đang vật lộn với chồng sách lút đầu. Mặc kệ. Anh âm thầm tìm bia duy nhất còn lại. Ơn trời, chỉ cần một câu nữa! Không gian lại lặng ngắt, chỉ có tiếng giấy bút cọ vào nhau sột soạt lẫn trong hơi thở dồn dập từ ba trái tim đang bừng lửa. Thật lạ lùng, chỉ mấy tiếng trước, ba dòng máu xa lạ, ba chủng người khác nhau, ba phương trời xa tít bỗng tụ lại cùng nhau với một mục tiêu vĩ đại duy nhất. Mật mã Champa.

Đang hăng say vì công việc tiến triển một cách bất ngờ đầy hứa hẹn thì tiếng chuông cửa ré lên làm cả ba giật mình. Simha ngoái đầu ra cửa rồi nói:

- Chắc chồn Kopi đã lên! Các bạn nghỉ tay làm vài li cho tỉnh ngủ đã!

Y cất giọng hóm hỉnh rồi đứng dậy tiến về phía cửa. Trong ngôi biệt thự của y, mọi căn phòng được trang bị hệ thống liên lạc điện tử liên thông với nhau. Một lao công hoặc đầu bếp có thể hỏi ý các thành viên trong nhà có cần thêm ớt vào súp hay có nên cho cún yêu đi tắm nắng hay không. Trao đổi ngắn với ai đó xong, Simha quay trở lại. Da mặt màu cà phê chồn của y giờ đây xanh như đít nhái. Y lắp bắp:

- Cảnh... cảnh... sát đến!