Chương mười ba Phỏng vấn luật sư Nguyễn Tâm
Lời giới thiệu:
Phiên tòa « Mặt Trận kiện báo chí » đã kết thúc. Phe bị đơn báo chí thắng kiện và tên tuổi luật sư Nguyễn Tâm được cả hải ngoại biết. Năm nay 38 tuổi, người luật sư này có văn phòng tại San Jose, California, Hoa Kỳ.
Với nhiệt tình trong sự tìm kiếm tài liệu và nhân chứng, cùng những kỹ thuật tranh tụng và biện hộ sắc bén, luật sư Nguyễn Tâm đã làm tròn vai trò 1 cách xuất sắc, đem về thắng lợi cho thân chủ Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu và luôn cả bên bị đơn.
Vì vụ án phức tạp, nhiều sự kiện và vấn đề pháp lý khó được hiểu rõ ràng nếu không có sự giải thích xác đáng.
Bài phỏng vấn luật sư Nguyễn Tâm dưới đây giúp độc giả tường tận hơn về nội vụ.
Trần Củng Sơn
TCS: Hoàn cảnh nào đã đưa LS Tâm tham gia vào vụ án lịch sử này? (1)
LS Tâm: Trước khi trả lời câu hỏi, xin được trình bày vài điểm căn bản. Thứ nhất, vụ án tuy đã được xử xong, nhưng không có nghĩa là chấm dứt hẳn. Bên nguyên đơn, sau khi thua kiện, có thể kháng cáo lên tòa trên. Do đó, sự tranh chấp có thể nói là vẫn còn đang tiếp diễn. Vấn đề thứ hai là nguyên tắc bảo mật những quan hệ giữa thân chủ với luật sư. Tôi không được phép tiết lộ những bí mật giữa tôi và thân chủ Nguyên Vũ. Có thể sau này, khi vụ án hoàn toàn chấm dứt, với sự đồng ý của anh Nguyên Vũ thì tôi mới có thể nói thêm về những chuyện đáng nói mà thôi. Vì vậy, dịp này tôi chỉ được phép nói về những gì công khai liên quan tới vụ án.
Trở lại câu hỏi. cách đây 2 năm, anh Nguyên Vũ nhờ người quen tìm giúp luật sư tại vùng San Jose, và có tìm tới luật sư Nguyễn Hữu Liêm. Nhưng anh Liêm lúc đó đang quá bận rộn, và có nhiều lý do cản trở khác khiến anh không thể nhận 1 vụ án phức tạp như vậy được. Anh Liêm mới chuyển hồ sơ qua cho tôi. Nghĩ lại, có lẽ cũng tại « hữu duyên thiên lý » cả.
TCS: Anh có ngại ngùng hoặc cảm nghĩ ra sao khi tham dự vào 1 vụ án phức tạp và sôi nổi như vậy? (2)
LS Tâm: Thật ra thì vụ án trở nên phức tạp và sôi nổi vào những ngày cuối cùng. Trước đó thì cũng như những vụ án khác, đều có vẻ bình thường mà thôi. Suốt 2 năm, tiến trình của vụ án thường liên quan tới giấy tờ và thủ tục sưu tra (discovery) thường lệ, và luật sư thường làm việc trong cô đơn với 1 đống giấy tờ, tài liệu văn thơ qua lại.
Với tư cách 1 luật sư, khi đã nhập đại diện cho 1 thân chủ bên nguyên đơn hay bên bị đơn, tôi phải đem hết khả năng và nhiệt tình để biện hộ cho thân chủ đó. Mục đích tối hậu là cãi thắng vụ kiện. Tuy nhiên, tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả bị thua. Không nhất thiết phải đem tình cảm cá nhân vào. Nếu tôi đã đại diện cho bên nguyên đơn, thì tôi cũng sẽ phải đem hết tài năng và nhiệt tình để phục vụ họ.
TCS: Xin anh tóm lược quá trình vụ án. (3)
LS Tâm: Khởi sự do 3 bài báo đăng liên tiếp trên tờ VNTP từ tháng 12 năm 1990 ngụ ý ám chỉ Mặt Trận và 3 người lãnh đạo đã chủ mưu ám sát vợ chồng ký giả Lê Triết. Ba bài báo mang tên 3 tác giả khác nhau, và cũng không nêu đích danh của 3 người nguyên đơn. Khoảng đầu năm 1991, họ nộp đơn kiện tờ báo VNTP, chủ nhiệm Nguyễn Thanh Hoàng, và tên của 3 tác giả đó. Sau đó vài tháng, trong 1 vụ kiện thứ hai, ông Hoàng Cơ Định đứng tên 1 mình kiện công ty VNTP Inc. Hai vụ kiện đang tiến hành thì sang năm sau, khi ông Nguyên Vũ in cuốn sách « Mặt Trận, những sự thật chưa hề được kể » của ông Cao Thế Dung và có trích đăng 1 vài chương trên tờ Quốc Dân Thời Báo của ông ta, thì bị kiện cùng với Cao Thế Dung trong vụ thứ ba bởi 2 người nguyên đơn Hoàng Cơ Định và Trần Xuân Nghĩa (không có Nguyễn Xuân Nghĩa).
Cả 3 vụ kiện, dựa trên luật phỉ báng mạ lỵ (defamation, libel) sau đó được gom lại chung làm 1 do 3 người lãnh đạo Mặt Trận kiện 3 người nhà văn nhà báo, và 4 cơ sở: VNTP, Quốc Dân Thời Báo, nhà xuất bản Văn Hóa, và nhóm chủ biên Đa Nguyên của nhà văn Nguyên Vũ. Vì thế, nhiều người đã gọi tắt là vụ án « Mặt Trận kiện báo chí ». Gọi thế đúng hay sai tùy theo quan điểm của người đọc.
Bên nguyên đơn được đại diện bởi luật sư Paul Kleven, 1 chuyên gia về luật phỉ báng và hiến pháp luật. Luật sư Richard Givens đại diện cho ông Nguyễn Thanh Hoàng và tờ VNTP. Nhà văn Cao Thế Dung không có tiền bạc thuê luật sư và tự biện hộ cho mình. Tổ hợp luật sư của tôi, TAM NGUYEN & ASSOCIATES đại diện cho Nguyên Vũ và các cơ sở xuất bản, báo chí của ông ta. Điều éo le là vụ kiện xử tại San Jose, nhưng ông Trần Xuân Nghĩa lại ở Chicago, Nguyễn Xuân Nghĩa ở quận Cam, Nguyễn Thanh Hoàng ở Virginia, Cao Thế Dung ở Maryland, Nguyên Vũ ở Houston, và nhân chứng Phạm Văn Liễu ở Austin, Texas và còn nhiều người khác từ các nơi xa xôi như Hawaii. Do đó, sự tốn kém và phức tạp tăng lên bội phần.
Vụ án đáng lẽ được xử hồi tháng 6 năm 1994, nhưng lúc ấy ông Nguyễn Thanh Hoàng đang bị bệnh nặng, và phải dời lại cho tới ngày 5 tháng 12. Tuần đầu, chúng tôi giải quyết các thủ tục tố tụng thường lệ, chọn bồi thẩm đoàn, và đã thắng 1 thỉnh đơn án lý (motion) quan trọng quyết định về tư cách « nhân vật công chúng » (public figures) của 3 người nguyên đơn. Nhưng ngược lại, bên nguyên đơn cũng đã đạt được những thành quả quan trọng như việc đã loại ra tất cả các bằng chứng về bản cáo trạng (indictment) buộc tội ông Hoàng Cơ Định và 4 người khác của Mặt Trận về tội trốn thuế.
Vụ án được bắt đầu xử với bồi thẩm đoàn ngày 12, và kết thúc ngày 22 tháng 12 năm 1994.
Đây là vụ án dân sự (civil) liên quan tới các trách nhiệm dân sự (torts), thành ra không nên gọi là ‘tội phỉ báng » như vài người đã lầm lẫn với tội hình sự.
Tóm lại, vụ án kéo dài gần trọn 4 năm. Bên bị đơn tốn phí gần cả 100.000 đôla. Bên nguyên đơn có thể tốn gấp đôi, và tốn hơn nữa nếu họ kháng án.
TCS: Anh có lường trước được những khó khăn cũng như tầm quan trọng của vụ án này không? (4)
LS Tâm: Lúc đầu, tôi cũng hơi do dự vì nhiều lý do. Vụ án liên quan tới 1 khía cạnh chuyên môn và sâu sắc của luật pháp, sự phức tạp và nghiêm trọng của dữ kiện, tốn kém thời giờ tiền bạc, và cuối cùng công khai đối phó với cấp lãnh đạo của 1 tổ chức mà có nhiều người đã tránh né vì ngại ngùng hoặc sợ hãi. Anh Nguyên Vũ đã gặp khó khăn trong việc tìm kiếm luật sư. Nếu tôi từ chối thì không biết có ai khác dám đứng ra nhận lãnh hay để anh ta lại tốn kém nhờ vả tới 1 luật sư Mỹ khác. Tôi ý thức được trách nhiệm nghề nghiệp và tinh thần phục vụ cho cộng đồng người Việt mình. Đây là cơ hội để thực thi công lý và binh vực cho quyền tự do ngôn luận và quyền của báo chí phê bình những sinh hoạt liên quan tới cộng đồng mà không phải lén lút, sợ hãi, hay bịt miệng như trong quá khứ.
Vụ án này thiết nghĩ có 1 tầm quan trọng đặc biệt như ký giả Ana Arama của Ủy ban Bảo vệ Ký giả (Committee to Protect Journalists – CPJ) đã quan tâm. Tổ chức này và ông Ted Koppel của chương trình ABC NightLine ngày 30/11/94 đã khuyến cáo chính quyền Hoa Kỳ lưu tâm tới vụ án này và vụ án trốn thuế của Mặt Trận đang xử ở tòa án Liên Bang cũng tại San Jose. Nếu bên bị đơn thua kiện, nguy cơ sẽ đưa đến hậu quả im tiếng (chilling effects) trong giới báo chí truyền thông Việt ngữ. Sẽ không ai dám lên tiếng phê bình các tổ chức hoạt động chính trị nói chung hay đối với Mặt Trận nói riêng.
Những bài viết của ông Cao Thế Dung cáo buộc Mặt Trận và 3 người nguyên đơn về tội chủ mưu sát nhân là những lời lẽ nghiêm trọng khó biện minh, tác hại tới thanh danh của họ. Và nếu không khéo thì có thể bị thua kiện dễ dàng. Do đó, muốn thắng kiện, tôi phải hoạch định chiến lược phản công bằng nhân chứng và tài liệu, những gì liên quan tới « tiếng tăm » của 3 người nguyên đơn, tức là liên quan tới Mặt Trận. Phải truy lục tài liệu về Mặt Trận, và những nhân chứng quan trọng như ông Phạm Văn Liễu, cụ PN Lũy, anh HL Thiện, và nhóm người Việt Tự Do cũ, các cựu đoàn viên Mặt Trận, những nạn nhân khác, những người trong cộng đồng và những tài liệu hình ảnh và video liên quan tới Mặt Trận. Nhưng 2 năm trải qua, nhân chứng tản mát xa xôi, và ai cũng không muốn liên lụy. Có người nói thẳng là họ sợ Mặt Trận trả thù. Ông Phạm Văn Liễu đã giữ im lặng trong 10 năm qua, và khi ra tòa, lời khai của ông ta có giá trị quyết định cho vụ án.
TCS: Làm sao anh mời được ông Phạm Văn Liễu làm nhân chứng cho bên bị đơn? (5)
LS Tâm: Trước đây, chúng tôi đã nhắn tiếng nhiều lần để được thưa chuyện với ông ta về vụ án nhưng đều vô vọng. Do đó khi vụ án được đưa ra trọng tài, chúng tôi đã thắng, nhưng vẫn không có được những tin tức gì về ông Liễu. Sau này tôi được biết sau khi vợ ông ta qua đời, và sau cơn bạo bệnh, ông Liễu đã hoàn toàn rút vào bóng tối, trở nên 1 con người trầm lặng, chỉ thích đi câu cá suốt đêm tại 1 làng nhỏ ở Texas. Thật vậy, ông ta đã trốn biệt mọi người trong nhiều năm qua, chẳng những đối với vụ án này hay những sinh hoạt chính trị khác, mà ngay đến cả FBI rất muốn nói chuyện với ông ta và xem những tài liệu ông ta đang cất giữ, nhưng ông Liễu đã 1 mực từ chối.
Cho tới khoảng tháng 5 năm 1994, tôi phải có thái độ quyết liệt, nài ép mãi ông ta mới chịu xuất hiện, và tôi đã dàn xếp để cho luật sư bên nguyên đơn, ông ta Paul Kleven, tổ chức buổi diện vấn (depositon) tại Austin. Và tới tháng 12 mới thuyết phục được ông ta qua San Jose làm nhân chứng trước tòa.
TCS: Có phải vì thế mà ông Phạm Văn Liễu khai rằng ông ta chịu ra làm chứng là vì luật sư LS Tâm? (6)
LS Tâm: Câu chuyện hơi vòng vo, xin được trình bày cho đúng với sự thật. Khi ra Deposition, ông Liễu vẫn tin là do tôi tổ chức. Mặc dù theo thủ tục, ông Paul Kleven đã tống đạt trát đòi (deposition subpoena), nhưng thật ra thì nếu ông Liễu không muốn hợp tác thì cũng chẳng ai dám ép (vì sợ phản cung rất bất lợi). Do đó, trong lòng ông Liễu vẫn chỉ muốn chìu theo sự khẩn nài của tôi và theo yêu cầu của anh Nguyên Vũ, 1 người mà ông Liễu dành nhiều cảm mến.
Việc mời ông Liễu tham dự buổi diện vấn, và nhất là sau này thuyết phục ông ta qua bên San Jose để làm nhân chứng trước tòa thì quả là 1 vấn đề khó khăn. Nhiều lúc, trong khi quá nhiệt tình, tôi đã lớn tiếng buộc ông Liễu phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Rằng những gì ông biết và đang giữ trong lòng là thuộc về lịch sử. Ông không có quyền giấu làm của riêng, lịch sử sẽ phán xét ông 1 cách khắt khe nếu ông không hoàn tất vai trò của mình. Đó là:
1.Chấp nhận trách nhiệm của mình, kể cả sai lầm nếu có, và
2. Nói lên những sự thật của lịch sử. Vì, đối với tôi, lịch sử đang còn tiếp tục, và vai trò của ông Liễu chưa hoàn tất.
Cuối cùng rồi thì ông Liễu đành phải miễn cưỡng nhận lời.
Sau đó, khi ông Liễu ra trước tòa, chúng tôi phải chấp nhận những gì ông ta tuyên bố, dù có lợi hay hại cho bên bị đơn, vì tôi chỉ mong được biết sự thật, những sự thật đã xảy ra, quan hệ tới cộng đồng người Việt mà ông Liễu đã giấu kín trng 10 năm qua. Khi ra tòa, ông nói rằng ông ta chịu ra làm chứng vì thấy sự can đảm của tôi khi nhận vụ án này. Có lẽ là do ý kiến chủ quan và cảm tình của ông ta.
Đồng thời, luật sư Paul Kleven cũng đã lẫn lộn trong khi chất vấn ông Liễu rằng ông ta ra tòa là theo trát đòi subpoena. Cho buổi deposition hồi tháng 5 năm 1994 thì có, nhưng cho phiên tòa thì lại không. Hai vấn đề đó khác nhau hoàn toàn. Ông Liễu đã khai đúng. Luật sư Paul Kleven đã lầm lẫn giữa 2 thời điểm khác nhau và làm mọi người lộn xộn theo. Lúc đó, tôi phải đứng lên giải thích cho câu chánh án Joseph Biafore và mọi người cùng hiểu. Nhưng về sau này, 1 đoàn viên Mặt Trận nào đó lại thuật lại sự kiện này trên báo, và đã phê bình rằng ông Liễu bất nhất. Có lẽ vì anh ta đã không nghe kịp diễn tiến tại tòa lúc ấy, mọi chuyện lại tranh cãi bằng tiếng Mỹ, và đã tường trình sai lạc.
TCS: Tuy LS Tâm chỉ đại diện cho ông Nguyên Vũ, nhưng thật sự đã giúp cho toàn thể 3 người bị đơn? (7)
LS Tâm: Đó là 1 trong những bất ngờ nặng nề mà tôi không lường trước được, thành ra đã phải rất vất vả suốt 3 tuần lễ, nhất là càng gần tới cao điểm của vụ án vào những ngày cuối. Trên nguyên tắc, tôi chỉ đại diện cho anh Nguyên Vũ và nhà xuất bản Văn Hoá, đã xuất bản quyển sách. Trách nhiệm luật pháp của anh Nguyên Vũ tương đối nhẹ hơn so với tác giả Cao Thế Dung. Thêm nữa, vụ án liên quan tới nhiều bài viết, tài liệu và quyển sách bằng tiếng Việt. Luật sư Richard Givens (đại diện cho VNTP) là người Mỹ lại ở xa. Do đó văn phòng tôi được trưng dụng làm « bộ chỉ huy » cho tất cả mọi người, kể cả các nhân chứng từ xa về. Gánh nặng trước tiên là đọc, chọn lựa, và cho dịch tất cả các tài liệu, bằng chứng, kể cả 47 số báo VNTP. Rồi họp hành, thảo luận, bàn kế hoạch, duyệt qua bằng chứng và lời khai, bổ túc và thay đổi vào giờ chót. rồi các bài viết, v.v.. chúng tôi làm việc ngày đêm, và 3 ngày cuối cùng thì tôi không hề chợp mắt được.
Nhất là trường hợp anh Cao Thế Dung là « thủ phạm » gây ra vụ án nhức đầu này, mà lại không có luật sư. Nếu để anh ấy thua thì nguy cho mọi người. Do đó, mặc dù tôi đã có thể chỉ lo thắng kiện riêng cho thân chủ của mình bằng mọi giá và khỏi lo cho 2 người kia, tôi không thể nào làm ngơ, và phải phối hợp sự biện hộ cho cả 3.
TCS: Anh và luật sư Richard Givens đã cộng tác ra sao? (8)
LS Tâm: Ông Givens là 1 luật sư nhiều kinh nghiệm chiến đấu, đã cãi tới 200 vụ án lớn nhỏ, thành ra rất rành về thủ tục và luật pháp. Nhất là trong vụ này, liên quan tới quyền tự do ngôn luận và báo chí, nằm trong luật hiến pháp của Hoa Kỳ và California. Khía cạnh luật pháp rất chuyên môn và khó khăn. Chúng tôi phân chia công tác: ông Givens lo về thủ tục tố tụng (civil procedure), còn tôi lo về dữ kiện, tài liệu, bằng chứng, và nhân chứng. Phần của tôi lại trở thành nặng nề như đã nói ở trên. Cộng thêm phần liên lạc, và thuyết phục các nhân chứng để hầu tòa, đã trở nên khó khăn vì ít ai chịu ra mặt, 1 phần vì ngại, phần khác cũng có thể sợ bị trả thù. Trường hợp điển hình là anh Nguyễn Thành Tiểng ở Hawaii, phút chót không qua được, và anh biến mất 1 cách khó hiểu. Tôi cũng nghe nói anh Tiểng đang còn nằm trong chương trình bảo vệ chứng nhân của FBI.
TCS: Còn việc tìm kiếm những nhân chứng khác ra sao? (9)
LS Tâm: Lúc đầu thì quả thật coi như không có ai, ngoài việc anh Lê Hải ở Florida là người mà chúng tôi tin là biết nhiều về vụ Lê Triết. Cho tới khi được tin là ông Phạm Văn Liễu đã đồng ý xuất hiện, thì tình hình đột nhiên thay đổi hẳn. có thêm được nhiều người mạnh dạn sẵn sàng ra mặt. Riêng ông Michael L. Faber, cựu đoàn viên Mặt Trận, viết nhiều về Mặt Trận trong quyển « The long Road to Freedom » (Cuộc Viễn chinh tìm Tự Do) thì vẫn còn sợ hãi. Anh ta khẩn khoản yêu cầu hãy để cho được « yên thân ».
Trong bài báo đăng trên tờ Metro (San Jose) ngày 27 tháng 4 năm 1989 của ký giả John Whallen điều tra về hoạt động của Mặt Trận và sự mất tích của ông Hoàng Cơ Minh, ông Hoàng Xuyên, người đã đóng góp công đầu trong việc quảng bá cho Mặt Trận, cũng đã tỏ vẻ e dè, sợ sệt. Nhưng về sau này thì cũng đã tỏ thái độ can đảm sẵn sàng ra làm chứng. Cụ PN Lũy bận đi xa, tôi có nhắn tin nhưng không thấy hồi âm. Quý vị như anh Đào Vũ Anh Hùng ở Texas, Nguyễn Đạt Thịnh từ Hawaii, PV Hướng, Nguyễn Xuân Phác, Nguyễn Thanh, Vũ Hữu Dũng, LVN, v.v.. cùng 1 số cựu đoàn viên Mặt Trận, và những người khác xa gần cũng đã sẵn sàng.
Nhưng vào ngày cuối, khi bên bị đơn bắt đầu phản công thì chúng tôi phải thay đổi chiến lược vì quá cận ngày lễ Giáng sinh, phải cắt bỏ 1 nửa chương trình, chỉ chú trọng vào việc đánh mau, gọn, dứt khoát nhắm vào trọng điểm. Và đã kết thúc trong 2 ngày, thay vì kéo dài 1 tuần lễ như bên nguyên đơn đã làm trong tuần trước. Thành ra rất cần thiết tối thiểu, chúng tôi chỉ đưa ra 3 nhân chứng Phạm Văn Liễu, Vũ Hữu Dũng, và Nguyễn Xuân Phác. Ông Phác, cựu trung tá quân báo, bạn học từ nhỏ với ông Hoàng Cơ Minh, với 1 giọng Anh văn xuất sắc, trình bày 1 cách sắc bén và trung thực. Chính ông tòa Biafore phải xác nhận ông Phác là nhân chứng đáng tin cậy nhất là (the most credible witness), và với 2 ông Phạm Văn Liễu và Nguyễn Xuân Phác thì tòa đã nghe quá đủ về Mặt Trận rồi, không cần thêm thám tử Douglas Zwemke nữa.
Những người khác mà tôi nghĩ đã nắm giữ những tin tức quan trọng liên quan tới vụ án này phải kể tới cụ Phạm Ngọc Lũy, các anh Huỳnh Lương Thiện, Vũ Văn Chương, Nguyễn Bích Mạc, Đỗ Thông Minh, v.v.. Tôi tin rằng cụ Lũy vẫn còn nhiều chuyện chưa nói hết trong quyển hồi ký của cụ. Và đặc biệt là anh HL Thiện, 1 người biết rất nhiều nhưng quá kín miệng, quá im lặng trong 10 năm qua. Tôi vẫn mong 1 ngày nào đó, anh Thiện sẽ trả lại cho lịch sử những gì anh đang giữ riêng trong lòng.
TCS: Còn về việc tìm tài liệu và bằng chứng ra sao? (10)
LS Tâm: Chúng tôi cũng có nhiều tài liệu về vụ Lê Triết nói riêng và Mặt Trận nói chung, nhưng vì trở ngại thì giờ quá ít ỏi, không thể trưng dẫn hết trước tòa được. Ví dụ như nhiều lá thơ độc giả khắp thế giới gởi về VNTP về vụ Lê Triết và Mặt Trận, những cuộn video về BS Ninh, 1 cuộn video về việc công bố cương lĩnh, đại hội Chính Nghĩa, buổi đón tiếp Hoàng Cơ Minh tại LA, buổi ra mắt YBYTKC, những bài báo bằng nhiều thứ tiếng về Mặt Trận, hoặc chính những tài liệu do Mặt Trận phổ biến như báo kháng chiến, bản tin VN Insight, Resistence, các tài liệu « mật » khác, v.v..
Một trong những tài liệu lý thú nhất là tờ công báo của Quốc hội Hoa Kỳ, Congressional Records, vol.129, n°.69, May 19, 1983 mà chúng tôi tìm được, có ghi rõ nguyên câu văn bài diễn văn của ông Hoàng Cơ Minh, do nghị sĩ Amstrong giới thiệu, nói rằng đã thống nhất là được 10.000 quân, xác nhận những lần tuyên bố trước đó của ông ta. Đang khi đó, các ông Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh lại khai rằng con số đó là do báo chí hoặc người khác ganh ghét xuyên tạc.
Ngoài ra, những tấm hình về Mặt Trận, về Hoàng Cơ Minh, và đặc biệt là tấm hình bán thân của ông Hoàng Cơ Minh mà Mặt Trận cho là của cộng sản tuyên truyền, thì người người khách quan đều tin là đúng. Ông Hoàng Xuyên là người đoan quyết nhất. Chính ông ta đã ở gần và chụp rất nhiều hình Hoàng Cơ Minh từ nhiều góc cạnh, vì ông đã có tâm niệm, vào lúc ban đầu, là sẽ làm 1 bức tượng cho « anh hùng Hoàng Cơ Minh ». Nhưng ước mơ không thành, mặc dù đối với nhiều người ông Hoàng Cơ Minh dù sao cũng đã nằm xuống vì chính nghĩa, và họ trân trọng như là 1 vị anh hùng vậy. « nghĩa tử là nghĩa tận » đối với người Việt Nam.