← Quay lại trang sách

Chương mười ba (2) Phỏng vấn luật sư Nguyễn Tâm

TCS: LS đã chất vấn ông Hoàng Cơ Định với những câu hỏi hóc búa, đã trưng dẫn tấm hình ông Hoàng Cơ Minh, và đòi xem bằng lái xe của ông định. Như vậy không sợ đụng chạm tới Mặt Trận? (11)

LS Tâm: Xin thưa rõ, cần phải phân biệt « Mặt Trận » như 1 tập thể, với cá nhân của người lãnh đạo. Trong bất cứ tổ chức nào cũng có người này người kia. Nhất là trong Mặt Trận phải công nhận có rất nhiều anh chị em đoàn viên nhiệt tình. Họ thuộc đủ mọi thành phần xã hội, và tinh thần hy sinh đóng góp của họ rất đáng ca ngợi tuy rg chúng ta có quyền bất đồng ý kiến với họ.

Bản thân tôi không hề có vấn đề gì với 3 người kia nguyên đơn. Trong suốt 2 năm chuẩn bị vụ án, tôi vẫn giữ thái độ nghiêm chỉnh và chuyên nghiệp đối với họ. Riêng tại phiên tòa, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi phải có những câu hỏi, và đặt ra những vấn đề cho họ 1 cách công khai trước ánh sáng công luận và luật pháp. đó là những công việc chuyên nghiệp bắt buộc, theo đúng khuôn khổ luật pháp của 1 vụ kiện tụng mà chính họ là người đưa đơn kiện kia mà. Chính họ đã chọn lựa diễn đàn tòa án để giải quyết tranh chấp, và đã chuẩn bị chấp nhận luật chơi.

Về vụ xem bằng lái xe của ông Hoàng Cơ Định, là để chuẩn bị cho câu hỏi tiếp về lý do tại sao ông ta đã chính thức đổi tên thành dean nakamura từ năm 1983. thật vậy, ông Hoàng Cơ Minh cũng đổi tên thành william nakamura, Nguyễn kim Hườn có tên là steven nakashima, phạm duy cần là james masuda, v.v..

Những bằng chứng đó rất có giá trị mật thiết tới vụ án loại này, vì có liên quan tới « danh dự tên tuổi » của người nguyên đơn. Trên nguyên tắc luật pháp, ông ta Hoàng Cơ Định phải là dean nakamura mới đúng. Quả thật đồng bào có quyền đặt nghi vấn tại sao ban lãnh đạo Mặt Trận lại đổi cả tên họ ra tên Mỹ, Nhật? Rồi cùng 1 lúc dùng chung 2 tên chính thức, chưa kể các bí danh khác.

Nếu các câu hỏi của tôi có gây ra bất ngờ cho đối phương, thi chẳng qua là do phần kỹ thật trang tụng cả, chẳng vì mục đích cá nhân nào.

TCS: Tại sao anh đang chất vấn BS Trần Xuân Ninh về chuyện gởi tiền giúp đỡ cho người anh em bên Việt Nam rồi lại ngưng nửa chừng? (12)

LS Tâm: Những câu hỏi của tôi tuy vắn tắt nhưng nhằm dọn đường và đưa tới hiệu quả phơi bày được 2 bộ mặt của ông Trần Xuân Ninh.

Trên bục nhân chứng, với sự hướng dẫn luật sư bên nguyên đơn, ông Trần Xuân Ninh đã cố tạo cho mình 1 hình ảnh sáng giá của 1 người tài năng, nhiệt tình, và phẫn nộ (outrageous) trước những lời vu oan giá họa cho ông, vì ông là 1 người hiền lành chất phác. Nhưng trong phần chất vấn, các câu trả lời của chính ông ta, và từ những người khác đã đặt nghi vấn về uy tín của ông Trần Xuân Ninh khi nói rằng không phiền trách chính quyền cộng sản Việt Nam về cái chết của đứa con trai duy nhất trên đường vượt biển. Ông tỏ ra lạnh lùng trước việc nhà của ông Lâm Tôn bị đốt ở Chicago, một mặt thì hô hào triệt hạ kinh tài du lịch của người khác, nhưng bà con ông ta thì cũng có gởi quà cho thân nhân ở Việt Nam. Ngoài ra chúng tôi không muốn đề cập tới những nghi vấn về việc ông Trần Xuân Ninh nhắm mắt lao mình vào sinh hoạt chính trị để cố quên đi những niềm đau thầm kín riêng tư.

Tóm lại, mặc dù chúng tôi có đủ tài liệu, bằng chứng, và kỹ thuật chất vấn để triệt hạ (impeach) tại chỗ, nhưng tôi chỉ hỏi vắn tắt để chuẩn bị cho phần phản công về sau. Những câu hỏi về buổi phỏng vấn BS Ninh trên đài VOA năm 1989, về lòng hận thù, về các hành động bất nhất, và các « thành quả triệt hạ kinh tài du lịch », v.v.. có vẻ như vô hại, vì tôi đã đoán biết câu trả lời của ông ta ra sao. Nhưng những hậu quả tác hại đã được trình bày qua các lời khai mâu thuẫn của ông Nguyễn Xuân Nghĩa và các nhân chứng khác kể cả lời khai tốt đẹp của cô đoàn viên dễ thương Trần Diệu Thanh. Với 1 chút khéo léo ứng biến mau chóng, chúng ta có thể biến tất cả thành vũ khí phản công lợi hại.

TCS: Tại sao buổi sáng chất vấn dồn dập ông Nguyễn Xuân Nghĩa, buổi chiều lại bỗng dưng thay đổi? (13)

LS Tâm: Tôi có ý định không muốn chất vấn ông Nguyễn Xuân Nghĩa vì nhiều lý do. Ông là người có tài trên nhiều lãnh vực, nhất là về kinh tế vĩ mô. Tôi nghĩ ông Nghĩa đã rút ra khỏi Mặt Trận vì nhiều lý do phức tạp, không còn muốn dính líu tới Mặt Trận hay vụ kiện nữa, vì tôi đã hơn 3 lần nghe từ những nguồn đáng tin cậy. Và tôi cũng có ý mong đợi ông ta giữ lập trường. Nhưng đến khi ông Nghĩa lên bục nhân chứng, thì mọi chuyện lại xảy ra khác hẳn với điều tôi dự đoán. Do đó, tôi bắt buộc phải phản công.

Thật ra tôi chỉ xử dụng tới 1 phần nhỏ của những bằng chứng phản công, nhưng cũng quá đủ để dồn nhân chứng vào thế bí. Những sự kiện như ông Nghĩa đã gục đầu hồi lâu, đã loay hoay nhăn nhó, đã dơ tay phân bua cầu cứu với luật sư, nhìn e ngại xuống 4 nhân viên FBI đang theo dõi phiên tòa, và những lời khai đối chọi với ông Hoàng Cơ Định và BS Ninh về ông Hoàng Cơ Minh, về các chiến dịch triệt hạ kinh tài, v.v.. đã cho thấy được sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo của Mặt Trận. Tuy nhiên, tôi vẫn không biết được ông ta nghĩa thực sự lúng túng hay khéo léo đóng kịch.

Sau buổi trưa, chúng tôi lên luật sư bào chữa, nghiệm lại tình hình và chiến lược thì đưa tới kết luận rằng bên nguyên đơn đã bị phân hóa và lủng củng. Ba người nguyên đơn Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh và Nguyễn Xuân Nghĩa đã có dấu hiệu rạn nứt, và ông nghĩa có lẽ đã bị gượng ép theo cuộc chơi này. Tôi cũng nghĩ đã quá đủ, và dành cho ông ta 1 lối thoát. Do đó, chỉ hỏi qua loa vài câu lấy lệ.

TCS: Anh có nhận xét gì về 3 người bị đơn? (14)

LS Tâm: Thân chủ của tôi,anh Nguyên Vũ, vốn là sĩ quan nhảy dù, đi lính đủ 7 binh chủng, nay trở thành tiến sĩ sử gia, tính tình cương trực, ăn nói ngay thẳng. Chỉ 1 câu nói méo mó nghề nghiệp của ông sử gia kiêu hãnh này, là luôn có sự nghi ngờ căn bản trong mọi việc, đã tạo cơ hội cho luật sư đối phương tấn công triệt để, và ký giả của Mặt Trận cũng đã lợi dụng khái thác 1 chiều. trong vụ kiện, tôi đã phải ráng sức « chữa cháy » nhiều lần, mới làm sáng tỏ được vấn đề. Cuối cùng cả tòa và bồi thẩm đoàn đã hiểu rõ mọi chuyện, và đồng ý với chúng tôi bằng bản phán quyết (defense verdict). Chỉ riêng bên nguyên đơn có lẽ còn ấm ức về cái vụ « nghi ngờ » (doubt) của ông sử gia nhảy dù.

Về các ông Cao Thế Dung và Nguyễn Thanh Hoàng thì không dám có ý kiến, duy có vài điều như nhiều người đã biết. Ông hoàng thì bị ung thư, 2 lần mổ, hoá trị liệu pháp (chemotherapy) và quang tuyến (radiation) đã làm ông rụng tóc, đầutrọc boong phải đội tóc giả, lại phải tự chích thuốc tiểu đường hàng ngày. Ông bị kém trí nhớ. Do đó, khi ông lên bục nhân chứng thì nói câu trước quên câu sau, lời khai này chửi ngược lời khai trước làm chúng tôi và khán giả thân hữu nhiều phen toát mồ hôi. Có lúc đã dặn dò kỹ lưỡng, ông ta cẩn thận ghi chép, lẩm bẩm ráng học cho thuộc, nhưng lại quên béng đi mất cả tờ giấy đã ghi, đừng nói cho tới nội dung của 1 vấn đề pháp lý quan trọng.

Còn ông Cao Thế Dung thì « hết ý ». Cũng nhiều phen làm tôi muốn đứng tim. Chuyện ông ta đốt bằng tiến sĩ của Tây trước mộ mẹ làm cho bà con cười lăn lóc. Tôi hoàn toàn bị bất ngờ trước cây chuyện đó. Đã vậy, ông ta còn tiếc rẻ than là quên mất, không khai luôn cái bằng tiến sĩ năm 1981 tại Mỹ « cho chúng nể mặt ». Té ra ông ta có tới 2 cái bằng « tiến sĩ » chứ không phải một. Thú thật tôi không rõ ông ta có bao nhiêu cái bằng nữa.

Những lời khai quanh co của 2 ông Nguyễn Thanh Hoàng và Cao Thế Dung, rồi thông qua thủ tục thông dịch lúng túng đầy thiếu sót, quả là những kinh nghiệm bẽ bàng.

Nhưng tóm lại, nếu chỉ còn lại 1 điều duy nhất đáng nhớ thì ông Cao Thế Dung là 1 người can đảm đến độ liều mạng. Quả thật, nếu chẳng phải do ông ta viết ra sự thật, thì còn ai dám lên tiếng nói lên sự thật đó? Tôi đã biện hộ rằng, ông Cao Thế Dung có thể đã vụng về, đã thiếu thốn phương tiện trong việc điều tra nghiên cứu, nhưng lời ông ta nói ra là tiếng kêu cứu thất thanh trong đêm đen tuyệt vọng. Và quả thật, nó đã vang động được sự chú ý của nhà chức trách Hoa Kỳ, để họ phần nào chú ý thêm tới những cái chết bịt miệng oan ức và hoàn cảnh thất thế của những người cầm bút Việt Nam.

Dầu sao, ai cũng quá chán ngán của chuyện tòa án phiền phức và tốn kém. Ông Cao Thế Dung có lẽ sẽ đi tu. Ông Nguyễn Thanh Hoàng hứa sẽ cải tiến tờ VNTP. Tôi cũng ước mong đây là bài học quý báu cho cả 2 bên nguyên đơn và bị đơn. Bên báo chí thì viết cho hay và tốt hơn. Bên chính trị hội đoàn thì nên cởi mở đối thoại hơn, bớt chụp mũ, bớt hăm dọa để khỏi bị đồng bào xa lánh, ngại ngùng.

Ngoài ra, hình như giữa ông Cao Thế Dung và GS NN Bích có điều gì xích mích trầm trọng. Chuyện của mấy ông người lớn nhức đầu quá. Mong sao thế hệ trẻ không lần theo vết xe cũ đã đổ nhào của những người đi trước.

TCS: Còn về phía luật sư Paul Kleven của bên nguyên đơn? (15)

LS Tâm: Ông Paul Kleven là 1 đối thủ lợi hại đáng nể mặt, và là 1 luật sư chuyên nghiệp đáng kính. Một người rất lịch sự, từ tốn. có lẽ hơi quá từ tốn chăng? Ông ta rất sắc bén, và thường đứng về khía cạnh luật pháp sâu sắc của vụ án, kể cả những án lệ mới nhất. Ông ta chuẩn bị tài liệu 1 cách tỉ mỉ, nhớ rõ từng điểm nhỏ trong hàng ngàn trang giấy của các biên bản deposition, và chất vấn nhân chứng 1 cách hữu hiệu, gài đối phương vào thế rất khó gỡ.

Tuy nhiên, có 1 vài nhận xét khách quan là ông ta nói quá nhỏ rất khó nghe, câu hỏi nhiều lúc phải hỏi lại nhiều lần. có vài lúc chính ông chánh án cũng phải bực mình. Ông Paul Kleven lại quá tỉ mỉ về các chi tiết như 1 nhà kế toán, loay hoay quanh những tiểu tiết của từng chiếc lá mà quên cái nhìn bao quát của cả khu rừng, và thiếu chất « lửa » trong lúc tranh cãi cho 1 vụ án tình tiết sôi động như vậy.

Cuối cùng hình như ông ta không hiểu rõ về cách dữ kiện Mặt Trận hay về các thân chủ của ông về cộng đồng người Việt nói chung. Thành ra ông tỏ ra kém hiệu lực khi bên bị đơn bắt đầu phản công. Thường, trong cuộc chiến đấu, tôi quan niệm cần phải biết rõ ta và địch, cả chỗ tốt lẫn xấu, cả điểm yếu lẫn mạnh, và phải biết đối phó đúng cách, đúng mức và đúng lúc. Bên bị đơn chúng tôi đã phối hợp chặt chẽ, và thi hành tối đa hiệu quả chiến thuật trên, giành phần thắng lợi cho thân chủ mình.

TCS: Có phải đó là nguyên do thắng kiện? (16)

LS Tâm: Đó là 1 trong những điểm kỹ thuật chính, nhưng quan trọng hơn phải là nội dung của vấn đề.

Về chiến lược, chúng tôi chủ trương đánh văng đề tài của bên nguyên đơn, biến nó thành « diện », và mở mặt trận phản công mãnh liệt vào « điểm », là về Mặt Trận và những người lãnh đạo. Trong chiến thuật, chúng tôi quyết định cắt bỏ rất nhiều trong chương trình phản công, và chủ yếu đánh nhanh, gọn, sắc bén, và xoáy vào những điểm chính. Về nội dung, chúng tôi đã đưa ra được hình ảnh sống động của hoàn cảnh người tị nạn mới tới trên đất hứa này, và tránh đấu cho quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, sự ám ảnh của Mặt Trận trên đời sống người dân trong quá khứ, và sự tiếp tục vận động ảnh hưởng của họ trong hiện tại.

Quả thật, khi bên Mặt Trận cho dàn chào đông người vào 2 ngày cuối của phiên tòa, đã làm cho bồi thẩm đoàn lo ngại. Buổi chiều khi tuyên án, sau thủ tục Jury Polling (1 thủ tục xác nhận công khai từng lá phiếu của mỗi cá nhân bồi thẩm đoàn để ghi vào hồ sơ tòa và tránh sự mờ ám, chứ không phải « ông tòa không tin và phải hỏi lại » như cán bộ của Mặt Trận tuyên truyền), tôi tình cờ được biết là bồi thẩm đoàn không cho luật sư đặt câu hỏi và họ yêu cầu cảnh sát hộ tống họ ra tận xe, rồi mới cho quan khách rời phòng xử. Khi nghe như thế, tôi chợt thấy nhói trong tim.

TCS: Cảm tưởng về bản phán quyết của vụ án? (17)

LS Tâm: Chúng tôi bị bất ngờ trước sự thắng lợi quyết liệt của vụ án. Lúc khởi đầu, tôi cảm thấy yên tâm vì bên nguyên đơn là những khuôn mặt công chúng, sau 2 ngày đầu của bên nguyên đơn thì chẳng có gì đáng quan tâm. Nhưng cho tới khi ông Nguyễn Thanh Hoàng và Cao Thế Dung lên bục nhân chứng thì tình hình trở nên bất lợi nghiêm trọng, có khi còn nguy kịch nữa. Sang tuần sau đó, khi bên bị đơn bắt đầu mở cuộc phản công, thì tình hình thay đổi tốt hoàn toàn và niềm tin tưởng lên rất cao.

Tuy nhiên, ngày cuối cùng chờ đợi phán quyết của bồi thẩm đoàn thì mọi người đều hồi hộp. Nếu chẳng may bồi thẩm đoàn không hiểu rõ về luật lệ, coi chừng mình thua oan, hoặc có thể 1 mình ông Cao Thế Dung thua. Ba luật sư chúng tôi đều cảm thấy trách nhiệm quá nặng nề mình phải gánh chịu. Ác thay, khi chánh án Biafore duyệt lại bản phán quyết của bồi thẩm đoàn, vì nó quá phức tạp, ông ta lật qua lật lại, miệng lẩm bẩm. Chúng tôi tưởng ông ta đang tính lại cho đúng số tiền bồi thường. Đã vậy, họ lại thiếu phần số 3, tức là về ông Nguyên Vũ. Chúng tôi lại tưởng là phần số 3 về tiền phạt vạ vì sự cố tình ác ý (punitive damages for malice). Ông Richard Givens và tôi trao đổi cái nhìn lo lắng. Cho tới khi phán quyết 11/1 được đọc lên, thì mọi người trong tòa đều nín thở.

Điều ngạc nhiên nhất là bồi thẩm đoàn đã xử cho chúng tôi thắng được ngay phần đầu tiên (của 4 vấn đề truy tụng) là BÊN BỊ ĐƠN ĐÃ KHÔNG MẠ LỊ THANH DANH của 3 người nguyên đơn.

TCS: Những người bên nguyên đơn đòi bồi thường bao nhiêu tiền? (18)

LS Tâm: Lúc trước, trong bài lý đoán trình lên tòa, họ đòi bồi thường mỗi người 1.500.000 đôla, và đề nghị thương lượng thanh toán (settlement) xuống còn 3.000.000 đôla. Nhưng đến ngày cuối tại tòa thì họ giảm xuống còn chỉ khoảng 500.000. Lúc ấy tôi tin rằng họ đã cảm thấy thất thế.

Thật vậy, ngay từ đầu, tôi rất ngạc nhiên về việc họ quyết định đem vụ này ra tòa. Vì như thế là đem cả uy tín của Mặt Trận vào 1 cuộc thử thách nguy hiểm. Chắc chắn phải có 1 lý do sâu xa nào đó. Có thể 1 trong những lý do phụ là bên bị đơn sẽ bị thất thế vì hoàn cảnh xa xôi và tốn kém tiền bạc vượt quá sức của họ.

Nhiều người đã suy nghĩ rằng đồng bào và những đoàn viên, những người đã tận tụy hy sinh đóng góp tiền bạc cho Mặt Trận qua ông Hoàng Cơ Định, đã không đứng ra kiện đòi tiền lại thì chớ. Tại sao Mặt Trận lại đi kiện sự phê phán của người dân?

TCS: Cảm tưởng về 3 người nguyên đơn? (19)

LS Tâm: Tôi vẫn nghĩ họ cũng là những người có tài. Điều đau lòng là do hoàn cảnh éo le của lịch sử, những tài năng đó đã không được xử dụng để phục vụ đồng bào dân tộc. Có 1 điều phải khẳng định là trong 1 xã hội tự do văn minh, chúng ta có quyền bất đồng ý kiến và phải tôn trọng quyền bất đồng ý kiến của người khác. Người Mỹ có tinh thần hay là trên diễn đàn có thể tranh cãi nhau kịch liệt, nhưng tàn cuộc rồi liền bỏ qua, để dành thời giờ tâm trí lo chuyện tương lai trước mặt. Người Việt Nam còn hay bám víu vào quá khứ.

Trong lúc chờ đợi bồi thẩm đoàn nghị án, luật sư Paul Kleven và tôi bắt tay nhau và nói chuyện vui vẻ. Tôi thành thật khen ngợi nỗ lực và tư cách chuyên nhgiệp của ông ta, và có lời xin lỗi nếu trong những ngày qua có lỡ lời làm phật lòng nhau. Ông Paul Kleven vui vẻ khoát tay bỏ qua, và đáp lại cũng như thế.

Sau khi tuyên án thắng kiện, tôi lại bắt tay ông ta 1 lần nữa trong tinh thần đồng nghiệp cảm thông, và xin phép được bắt tay thân chủ của ông ta. Ông Nghĩa mỉm cười chìa tay ra bắt, còn ông Hoàng Cơ Định thì mím môi, hất mặt quay đi.

TCS: Đã có nỗ lực hòa giải giữa các bên với nhau để khỏi đem ra tòa trên? (20)

LS Tâm: Theo tôi được biết thì không. Ngay cả việc yêu cầu đính chính cũng không có. Thường lệ, mặc dầu không bắt buộc, người ta hay gởi 1 lá thư phàn nàn và yêu cầu đính chính hoặc trưng dẫn bằng cớ. Nhưng bên nguyên đơn không hề tạo 1 cơ hội hòa giải nào cả. Tuy nhiên, sau khi phiên tòa đã bắt đầu xử đã 2 ngày, thì nghe nói bên nguyên đơn có đề nghị hòa giải với riêng ông Nguyễn Thanh Hoàng với 1 điều kiện đặc biệt nào đó, nhưng ông Hoàng không thể chấp nhận điều kiện đó được.

TCS: Bên nguyên đơn sẽ kháng cáo không? (21)

LS Tâm: Họ có toàn quyền kháng cáo lên tòa trên, trong hạn kỳ và theo thủ tục luật định. Nhưng bình tâm xét lại, tôi không tìm ra được yếu tố luật pháp khách quan nào để kháng kiện cả. Trên thực tế, bên nguyên đơn đã thắng được những thỉnh đơn (motions) quan trọng như việc loại bỏ tất cả những tài liệu về bản cáo trạng (indictment) buộc 26 tội, về vụ trốn thuế đang xử, về lời khai cực kỳ nghiêm trọng của trung sĩ tình báo Douglas Zwemke đang điều tra về Mặt Trận và gia đình Hoàng Cơ Định, v.v.. Còn nếu kháng cáo về án lý « public figures » thì lại càng không nên vì chính chánh án Biafore đã tuyên bố là càng nghe lời khai về vụ án, ông ta càng nâng cao hình ảnh « khuôn mặt công chúng » của những người bên nguyên đơn cuộc loại « first class for all purposes ».

Cách đây 2 tháng, cũng tại tòa thượng thẩm San Jose, có 1 vụ án tương tự của Cộng đồng Công giáo VN kiện 1 số cựu thành viên (Vietnamese Catholic Community Inc., et al. Vs. Chieu Duc Dao, etal., Case N°. 718583). Bên nguyên đơn cũng được coi như « public figures » dù họ chỉ sinh hoạt tại địa phương San Jose, và kết quả là họ đã thua kiện.

Trở lại vụ « Mặt Trận kiện báo chí », tôi e rằng nếu nguyên đơn kháng cáo thi càng đem nhiều tai hại cho họ, như việc bồi thường thiệt hại cho bên bị đơn gia tăng, và nhất là là hồ sơ Mặt Trận sẽ được đăng vào công báo và các sách báo pháp luật tham khảo, trên giấy trắng mực đen cho cả nước cùng đọc. Thật vậy, nhiều người cũng đã nhận xét rằng 3 bài báo và quyển sách của ông Cao Thế Dung trước đây có ai để ý tới đâu. Mặt Trận đem đi kiện là 1 điều không thể hiểu nổi. Chính họ mở cửa cho cơn lốc tràn vào thổi tung lên đốm lửa cũ đã tàn lụi. vết xe lịch sử quả là khắt khe.

TCS: Kết quả của vụ án có giải quyết vụ án mạng của Lê Triết, vụ tiền bạc của Mặt Trận và về tông tích của ông Hoàng Cơ Minh không? (22)

LS Tâm: Thưa không. Vụ án này chỉ giới hạn trong việc những người nguyên đơn không chứng minh đã những yếu tố pháp lý để buộc 3 bài báo và quyển sách của ông Cao Thế Dung có tính cách mạ lị, do đó hoàn toàn không giải quyết việc ai đã nhúng tay trong việc giết vợ chồng ký giả Lê Triết.

Về vụ tiền bạc của Mặt Trận lại càng thêm xa xôi. Ông Hoàng Cơ Định khai « dưới 10.000.000 ». Ông Phạm Văn Liễu khai « có thể lên tới 20.000.000 ». Vấn đề này tùy thuộc vào thẩm quyền điều tra của các cơ quan công quyền liên hệ, và tòa án công luận của lịch sử và cộng đồng người Việt hải ngoại.

Về vụ tông tích của ông Hoàng Cơ Minh thì hằng năm, Mặt Trận vẫn có « thông điệp và lời chúc mừng đầu năm? » của chủ tịch. Và trong các báo chí, tài liệu của Mặt Trận vẫn ghi rõ chủ tịch Hoàng Cơ Minh « vẫn đang lãnh đạo Mặt Trận? » và « cuộc kháng chiến trong nước? » theo đúng như lời khai của các ông Hoàng Cơ Định và Trần Xuân Ninh trước tòa. Riêng ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã thay đổi lời khai và bây giờ thì nói không biết. Có người lại nói ông Hoàng Cơ Minh đang trú ẩn tại Tokyo. Công luận đã chờ đợi 7 năm, và còn chờ đợi đến bao giờ? Chúng ta sắp bước sang thế kỷ 21, kỹ thật thông tin hiện đại chứng minh 1 người còn sống, mà vẫn giữ được bí mật tổ chức, đâu mấy khó khăn. Lịch sử vẫn kiên nhẫn đợi 1 câu trả lời thỏa đáng.

TCS: Sau vụ án này, LS Tâm có lo ngại về Mặt Trận không? (23)

LS Tâm: Tuy hơi có suy nghĩ nhưng tôi muốn tin vào lời của đoàn viên Mặt Trận là hoạt động của họ nhắm vào « yêu thương, nhân đạo và hòa bình ». Vả lại, họ đã chọn con đường pháp lý để giải quyết tranh chấp trước ánh sáng kia mà. Đồng thời, thiết nghĩ tôi chỉ làm tròn bổn phận của 1 trạng sư. Sau phiên tòa, thấy tôi có vẻ suy nghĩ, 1 trong 4 nhân viên FBI, đã theo dõi vụ án hàng ngày, tới vỗ vai và trấn an tôi bằng nhiều lời lẽ và hành động cụ thể. Tôi cảm thấy khá yên tâm. Cũng vậy, tôi nghĩ những người nhân chứng đã rất can đảm, và sự yểm trợ nhiệt tình của quý anh chị em báo chí gần xa khắp nơi thật là quý báu. Chúng tôi làm việc tuy mệt nhọc và khó khăn nhưng rất vui vì biết rằng mình không cô đơn.

TCS: Vụ án này liên quan đặc biệt tới ngôn ngữ tiếng Việt. Anh có thấy yếu tố ngôn ngữ bất đồng đã đóng 1 vai trò quan trọng nào đó chăng? (24)

LS Tâm: Thưa đúng thế. Rất quan trọng là đằng khác. Ngay từ đầu, chúng tôi đã tranh cãi kịch liệt về những từ ngữ được dịch và cách hiểu nghĩa của những chữ đó. Những bản dịch của bên nguyên đơn về nội dung của những câu văn mà bị coi như đã vi phạm luật phỉ báng, đã bị dịch 1 cách sai lạc ở những chỗ quan trọng, mặc dầu những chỗ khác thì không đến nỗi tệ. Ví dụ như chữ « được quy trách », có nghĩa là « blamed on, attributed to, implcated » thì được dịch là « found committed ». Một ví dụ khác đã gây ra cảnh tranh luận tại tòa là chữ « hung thủ ». Quả thật, các tự điển hiện nay vẫn dịch là « murderer, criminal, perpetrator », nhưng nghĩa đó quá rộng rãi, và tự điển đã quá lỗi thời không theo kịp những từ ngữ tiếng Mỹ thông dụng mới. Và tôi đã chọn những chữ chính xác hơn như « gunman, triggerman ». Sau khi tranh cãi, quan tòa Biafore và chính thông ngôn của bên nguyên đơn cũng đồng ý với tôi và xác nhận là sát nghĩa hơn.

Riêng về vụ thông ngôn tại tòa cũng là những kinh nghiệm đáng quan tâm. Tiếng Việt khi lâm vào hoàn cảnh phải dịch sát nghĩa ra tiếng ngoại ngữ thì thật là khó khăn phức tạp, nhất là trong những thuật ngữ chuyên môn. Do đó, đòi hỏi người thông ngôn phải có 1 khả năng đặc biệt biết lưu loát cả2 ngôn ngữ, biết dịch sao cho hợp với văn hóa của người nghe. Chưa kể những trường hợp dịch sai, thiếu, hoặc tối nghĩa, đã làm cho người nghe phải khổ tâm theo dõi.

TCS: một chuyện tò mò bên lề: do đâu có tin đồn về

« con chim của LS Tâm đáng giá nửa triệu »? (25)

LS Tâm: Xin đừng đùa giai. Tôi xin nói rõ lần cuối rồi thôi, quên đi. Số là trong lúc tranh cãi biện hộ lần cuối cùng (closing argument), tôi đã gây được ấn tượng tốt với bồi thẩm đoàn, và làm cho nhiều thích thú khi dùng ngụ ngôn về số phận mong manh của 1 con chim vô tội trong lòng bàn tay 1 thanh niên tinh nghịch, để ví von như 1 cánh chim tự do xin được tung bay. Sau đó tôi bị mọi người gọi vui là « Mr. Bird », kể cả các nhân viên của tòa án. Sau khi mãnh tòa, 1 vài người đang nán lại thu xếp đồ đạc, thì chánh án Biafore gọi tôi ra 1 bên. Sau vài lời thêm hỏi có ý khen ngợi, ông ta kết luận làm vui, « Lời biện hộ của anh đáng giá nửa triệu », ám chỉ số tiền đòi bồi thường của bên nguyên đơn. Sau đó, câu chuyện chuyền tai nhau, kẻ thêm người bớt, rồi nhập chung 2 sự kiện trên thành một.

TCS: Anh có kỷ niệm vui buồn nào trong vụ án này? (26)

LS Tâm: Vui ít, buồn nhiều, và lo lắng vì trách nhiệm nặng nề thì càng nhiều hơn. Nhưng nếu tức cười nhất là thì phải nói đến lời kể của buổi lễ đốt bằng tiến sĩ trước mộ mẹ của ông Cao Thế Dung.

Nhưng điều đáng mừng nhất còn lại, sau khi bụi thời gian đã lắng đọng trên những trang nhàu nát của lịch sử, là chúng ta đã bắt đầu trưởng thành với tiến trình thực thi công lý trong khuôn khổ pháp trị đúng đắn. Đó mới chính là dân chủ và tự do đích thực.

Vụ án này tuy là 1 việc đáng tiếc, nhưng trên bình diện tích cực đây có lẽ là biến cố ghi nhớ 1 ngã rẽ quan trọng trong sự trưởng thành của cộng đồng người Việt tại Mỹ trong việc thực thi quyền tự do và quyền công dân của mình trên căn bản pháp lý bình quyền. Đó mới chính là cuộc chơi xứng đáng, công khai, rõ ràng, và công bằng.

Tôi vững tin vào tài năng đa dạng, tinh thần dân tộc chân chính, và tâm thức tiến bộ của thế hệ trẻ Việt Nam trên khắp nẻo đường thế giới. Họ chính là tương lai của dân tộc, sẽ nối tiếp đi trên con đường lịch sử tương lai, 4.000 năm tới nối liền với 4.000 năm văn hiến cũ, vượt qua những nhịp cầu gãy đổ của mấy chục năm qua.

TCS: Còn về dự án tương lai của anh? (27)

LS Tâm: Tôi muốn được tiếp tục đóng góp chút phần nhỏ bé của mình với cộng đồng và bà con xa gần. Tôi vừa hoàn tất quyển tự điển luật pháp Anh - Việt, 500 trang, đang duyệt lại, sẽ xuất bản nay mai.

TCS: Cám ơn LS Tâm.