← Quay lại trang sách

Chương 2 Rủa nguyền của Rocco

Immacolata không bao giờ bình phục trở lại sau kỳ sinh nở ấy. Như thể toàn bộ sức lực gái già của nàng đã trút hết vào cố gắng nhục dục ấy. Sinh con là một sự kiện quá lớn đối với con người ốm yếu này mà cuộc đời đã luyện cho quen với cái phẳng lặng của những ngày buồn chán. Cơ thể nàng suy sụp trong những ngày sau khi ở cữ. Nàng gầy đi trông thấy. Nằm lì trên giường suốt ngày. Ném những tia nhìn sợ hãi về phía chiếc nôi của đứa hài nhi mà nàng không biết xoay xở ra sao với nó. Nàng chỉ vừa đủ thì giờ để cho thằng bé mới sinh một cái tên: Rocco. Và chẳng gì thêm. Thậm chí cũng chẳng băn khoăn với cái ý niệm là một người mẹ tốt hay xấu. Sự tình đơn giản hơn thế: một sinh thể đang ở đó, bên cạnh nàng, huơ chân huơ tay trong mớ tã lót, một sinh thể chỉ một mực đòi hỏi, và đơn giản là nàng không biết làm sao đáp ứng được cái sự thèm muốn đủ thứ như thế. Thôi thì đơn giản nhất là chết – và đó là điều nàng đã làm vào một ngày tháng chín không ánh sáng.

Don Giorgio được gọi đến và, theo tục lệ, đã túc trực bên thi thể nàng gái già suốt đêm. Những bà già hàng xóm đã tình nguyện rửa mình và thay đồ cho nàng. Người ta để bé Rocco ở gian bên và đêm qua đi trong tiếng cầu kinh và ngái ngủ. Sáng sớm, khi bốn thanh niên trai tráng đến để mang thi hài đi – kể ra chỉ cần hai người là đủ vì nàng rất gầy, nhưng don Giorgio khăng khăng yêu cầu làm đúng thủ tục – tốp các bà túc trực đêm tiến lại gần cha Zampanelli và một bà hỏi:

“Trình cha, vậy là cha sẽ làm điều đó?”

Don Giorgio không hiểu.

“Tôi sẽ làm điều gì? Cha hỏi lại.

- Thưa cha, cha thừa biết.

- Các bà nói gì vậy? cha xứ sốt ruột.

- Cho đứa bé theo mẹ nó… cha sẽ làm cái việc đó chứ ạ?”

Cha xứ ngớ ra. Thấy cha im lặng, bà già mạnh dạn lên, giải thích cho cha hiểu rằng dân làng nghĩ đó là điều tốt nhất nên làm. Đứa bé sinh ra từ một tên du đãng. Mẹ nó vừa chết. Ấy chính là dấu hiệu chứng tỏ rằng Chúa trừng phạt cuộc giao phối trái tự nhiên ấy. Tốt nhất là giếng phéng đứa bé đi, dù sao nó cũng ra đời nhầm cửa. Đương nhiên là người ta nghĩ đến chuyện nhờ cha, don Giorgio, làm việc này. Để chứng tỏ đây không phải là một sự báo thù hay một tội ác. Bàn tay của cha là trong trắng. Cha sẽ chỉ trả lại Chúa đứa bé đẻ non này, nó chẳng có việc gì ở đây cả. Bà già giải thích tất cả những việc đó với vẻ hồn nhiên nhất trên đời. Mặt don Giorgio tái nhợt. Phẫn nộ choán ngợp ông. Ông lao ra quảng trường của làng và cất tiếng gào thét:

“Các người là một lũ vô đạo! Việc một ý tưởng bỉ ổi như vậy có thể xảy ra trong đầu các ngươi chứng tỏ quỷ dữ đã nhập vào các ngươi. Con trai của Immmacolata là một sinh linh của Chúa Trời. Hơn cả mỗi kẻ trong đám các ngươi. Một sinh linh của Chúa. Các ngươi nghe thấy ta nói đấy chứ, và các ngươi sẽ bị nguyền rủa đời đời nếu các ngươi đụng đến một sợi tóc của thằng bé! Các ngươi tự nhận là người Cơ Đốc Giáo, nhưng các ngươi chỉ là những con vật. Các ngươi đáng để ta bỏ mặc trong nhơ bẩn và đáng để Thượng Đế trừng phạt. Đứa bé này ở dưới sự che chở của ta, các ngươi nghe rõ không? Và kẻ nào dám động đến một sợi tóc của nó sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ của Chúa. Cả cái làng này nồng nặc mùi dơ bẩn và ngu dốt. Hãy quay về cánh đồng của các người và đổ mồ hôi như những con chó bởi chưng các ngươi chỉ biết làm thế. Và hãy cảm ơn Chúa còn rộng lòng thỉnh thoảng cho mưa xuống vì chừng nấy là quá nhiều đối với các ngươi.”

Nói rồi, don Giorgio bỏ mặc dân làng sững sờ và quay trở về đó đứa bé. Ngay hôm đó, cha đưa nó đến san Giocondo, ngôi làng gần nhất, chếch lên phía bắc, ở ven biển. Từ xưa tới nay, hai làng này vẫn thù nhau. Những băng đối địch choảng nhau những trận được lưu truyền như huyền thoại. Cánh dân chài chạm trán nhau thường xuyên trên biển, xé lưới của nhau, đánh cắp của nhau những mẻ cá đánh được trong ngày. Cha giao đứa bé cho một cặp vợ chồng ngư dân rồi quay trở về xứ đạo của mình. Vào một ngày chủ nhật, trên quảng trường của làng, khi có người lo lắng hỏi cha đã làm gì với đứa bé, cha đáp:

“Làm gì thì bận gì đến ngươi, đồ trơ tráo? Bữa nọ, người ta đã sẵn sàng thiêu sống nó, thế mà bây giờ, ngươi lại lo lắng cho nó ư? Ta đã mang nó đến với dân làng San Giocondo, họ tốt hơn các ngươi.”

Suốt một tháng trời, don Giorgio từ chối mọi cuộc hành lễ. không lễ chầu, không nghe xưng tội, không rửa tội. “Khi nào ở cái chốn này, có người Cơ Đốc thì ta sẽ thừa hành bổn phận.”

Nhưng rồi thời gian trôi đi, cơn giận dữ của don Giorgio cũng nguôi dần. Dân làng Montepuccio, tiu nghỉu như đám học trò nhỏ mắc lỗi, ngày nào cũng đến chen chúc trước cửa nhà thờ. Cả làng chờ đợi. Đầu cúi gằm. Cuối cùng, đến ngày chủ nhật lễ Vong Nhân, cha mới mở rộng cửa nhà thờ và lần đầu tiên sau bao lâu, chuông nguyện lại gióng giả ngân vang. “Dù sao ta cũng không thể trừng phạt những người chết chỉ vì con cháu họ ngu đần,” don Giorgio làu bàu. Và lễ chầu được tiến hành.

Rocco lớn lên và trưởng thành. Hắn có một cái tên mới, pha trộn họ của cha đẻ với họ của những người dân chài đã nhận nuôi hắn, một cái tên mới chẳng bao lâu đã in đậm trong tâm trí của mọi người ở Gargano: Rocco Scorta Mascalzone. Cha hắn xưa là một tên vô lại, một tên du đãng sống bằng những vụ cướp vặt, còn hắn thì là một tên cướp đích thực. Hắn chỉ trở về Montepuccio khi đến tuổi đem lại kinh hoàng cho nơi này. Hắn bắt những người nông dân trên đồng. Đánh cắp gia súc, sát hại những tay phú hộ lạc đường. Hắn cướp các nông trại, bắt đám ngư dân và thương gia nộp tiền chuộc. Nhiều lính sen đầm được phái đi truy tìm hắn nhưng đều bỏ xác lại ven đường với một viên đạn trong sọ, quần tụt xuống, hoặc bị quẳng như những con búp-bê vào những bụi xương rồng. Hắn hung bạo và tham lam vô độ. Người ta ước hắn có khoảng hai chục đàn bà. Khi tiếng tăm đã vững vàng và đã thống ngự toàn vùng như một lãnh chúa trên lãnh địa của mình, hắn mới trở lại Montepuccio như một người chẳng có gì phải tự trách mình, ngang nhiên phơi mặt ra, trán ngẩng cao. Qua hai mươi năm, các phố không hề thay đổi. Dường như tất cả đều phải y nguyên là Montepuccio không suy xuyển. Ngôi làng vẫn là cái đám nhà xúm xít bên nhau. Những cầu thang dài ngoằn ngoèo xuôi về phía biển. Có hàng ngàn lối đi qua cái mớ bòng bong những ngõ ngách. Các cụ già đi tới đi lui từ cảng đến làng, lên lên xuống xuống các cầu thang cao, lừ đừ như những con la tiết kiệm sức dưới nắng, trong khi từng đám trẻ con ào ào lao xuống các bậc thang không biết mệt. Ngôi làng ngắm biển. Nhà thờ quay mặt về phía những ngọn sóng. Gió và nắng, năm này qua năm khác, ngọt ngào mài bóng những phiến đá hoa cương trên đường phố. Rocco đóng luôn ở cao điểm của làng. Hắn chiếm một khu đất rộng hiểm trở và cho xây ở đó một trại lớn, nguy nga. Rocco Scorta Mascalzone giờ đã trở nên giàu có. Đôi khi có người van xin hắn để cho dân làng yên và đi trấn lột ở các vùng lân cận, hắn đều một mực đáp: “Im đi, đồ khốn kiếp. Ta là sự trừng phạt của bọn ngươi.”

Chính vào một mùa đông trong thời kỳ đó, hắn đến gặp don Giorgio. Đi cùng hắn có hai gã đàn ông mặt mày dữ dằn và một người đàn bà trẻ với ánh mắt sợ sệt. Hai gã đàn ông mang súng ngắn và súng trường. Rocco gọi don Giorgio và, khi vị cha xứ đến trước mặt hắn, đề nghị ông làm lễ thành hôn cho hắn. Don Giorgio thuận theo. Đến giữa chừng, ông hỏi tên cô gái, Rocco mỉm cười ngượng nghịu và khẽ nói: “Con không biết, thưa cha.” Và khi ấy vị cha xứ đứng ngây ra đó, miệng há hốc, tự hỏi liệu có phải mình đang công nhận bằng hôn lễ một cuộc bắt cóc, Rocco nói thêm: “Nó vừa câm vừa điếc.

- Không biết cả tên lẫn họ? don Giorgio hỏi gặng.

- Quan trọng gì, Rocco trả lời. Chẳng bao lâu, nó sẽ là thành viên của dòng họ Scorta Mascalzone thôi mà.”

Cha xứ tiếp tục hành lễ, lòng canh cánh lo khéo mình phạm phải một lỗi nặng mà rồi đây sẽ phải trả lời trước Chúa. Nhưng cha vẫn ban phước cho cuộc hôn phối và cuối cùng buông đánh thượt một tiếng “amen”, như người ta nói “phó-mặc-cho-Chúa” khi mới gieo mớ xúc sắc trên bàn cờ bạc.

Vào lúc tốp người sắp nhảy lên yên đi khỏi, don Giorgio thu hết can đảm gọi chú rể mới:

“Rocco, cha nói, ở lại với cha một chút, cha muốn nói chuyện với con.”

Im lặng một hồi lâu. Rồi Rocco ra hiệu cho hai gã làm chứng đưa vợ hắn đi trước, không phải chờ hắn. Don Giorgio lúc này đã lấy lại được minh mẫn và can đảm. Có một cái gì nơi gã trai này khiến cha phải suy nghĩ và cha cảm thấy có thể nói chuyện được với hắn. Cái tên cướp làm cả vùng run sợ này vẫn giữ một kiểu sùng kính nào đó đối với cha, tuy mông muội nhưng là có thật.

“Con sống như thế nào, cha Zampanelli bắt đầu nói, cả con và cha, chúng ta đều biết. Cả vùng này đầy chuyện kể về những tội ác của con. Đàn ông nhìn thấy con là tái mét mặt, còn đàn bà nghe nhắc đến con là làm dấu thánh giá. Con đi đến đâu là gây sợ hãy đến đó. Rocco, tại sao con gieo rắc kinh hoàng cho dân làng Montepuccio?”

- Con điên khùng, gã trai trả lời.

- Điên khùng?

- Vâng, một thằng con hoang điên khùng khốn khổ. Cha biết rõ điều đó hơn bất kỳ ai. Con sinh ra từ một cái thây ma và một gái già. Chúa đã coi rẻ con.

- Chúa không coi rẻ các sinh linh của người con trai ạ.

- Người đã tạo nên con trái ngược với tự nhiên, thưa cha. Cha không nói điều đó ra miệng bởi vì cha là người của Nhà Thờ, nhưng trong bụng cha cũng nghĩ thế, giống như mọi người khác. Con điên khùng. Phải. Một con thú đáng lẽ chẳng nên sinh ra dời.

- Con thông minh. Con có thể chọn những cách khác để khiến người ta kính trọng mình.

- Giờ đây, con giàu có, thưa cha. Giàu hơn bất cứ kẻ nào trong bọn ngu si đần độn ở Montepuccio này. Và chúng kính nể con vì lẽ đó. Thật điên khùng hơn cả bọn chúng. Con làm bọn chúng sợ nhưng đó không phải là điều cốt yếu. Trong thâm tâm, điều chúng cảm thấy không phải nỗi sợ mà là thèm muốn và kính nể. Bởi vì con giàu có. Chúng chỉ nghĩ đến cái đó thôi. Tiền. Tiền. Mà tiền thì con có nhiều hơn tất cả bọn chúng cộng lại.

- Con có tất cả số tiền ấy là bởi con đánh cắp của họ.

- Cha muốn yêu cầu con để bọn nhà quê ở Montepuccio của cha được yên, nhưng cha không biết làm cách nào vì cha chẳng thể tìm ra những lý lẽ vững vàng để thuyết phục con. Và cha đã có lý,cha ạ. Chẳng có lý do gì khiến con phải để chúng yên thân. Ngày xưa, chúng đã sẵn sàng giết một đứa hài nhi. Giờ con là hình phạt của chúng. Vậy thôi.

- Vậy thì đáng ra lúc bấy giờ, ta cứ để họ làm thế. Cha xứ vặc lại – ý nghĩ đó vẫn hành hạ ông già. Ngày nay, con trộm cướp và giết hại bọn họ, thật cứ như chính ta làm thế. Ta đã cứu con để cho con làm những điều đó.

- Xin cha đừng bảo con phải làm gì.

- Ta bảo con những gì Chúa muốn con làm.

- Thì Chúa cứ việc trừng phạt con nếu con là một nỗi sỉ nhục cho Người. Thì người cứ việc giải thoát cho Montepuccio khỏi sự hiện diện của con.

- Rocco…

- Tai ương, don Giorgio ạ. Cha hãy nhớ đến những tai ương và hãy hỏi Chúa Trời tại sao thỉnh thoảng Người lại phá hại trái đất bằng những trận lụt và hạn hán. Còn con là một nạn dịch, cha ạ. Không hơn. Một đám mây châu chấu. Một vụ động đất, một chứng bệnh truyền nhiễm. Tất cả lộn tùng phèo. Con là thằng điên khùng. Hóa dại. Con là dịch sốt rét. Và nạn đói. Cha hãy hỏi Chúa Trời xem. Con hiện diện ở đây. Và con sẽ hoàn tất thời khắc của mình.”

Rocco ngừng lời, lên ngựa và đi khỏi. Ngay chiều hôm ấy, trong trai phòng, Cha Zampanelli hỏi Chúa Trời với tất cả sức mạnh đức tin của mình. Cha muốn biết khi cứu đứa bé, cha có hành động đúng hay không. Cha van xin trong lời cầu nguyện, nhưng chỉ có im lặng của bầu trời trả lời cha.

Ở Montepuccio, huyền thoại về Rocco Scorta Mascalzone cứ được phóng đại lên mãi. Người ta kể rằng, sở dĩ hắn lấy một ả câm làm vợ - vừa câm lại vừa chẳng đẹp đẽ gì – là cốt để thỏa mãn những cơn dâm dục thú vật của mình. Để ả không kêu được khi hắn đánh và cưỡng hiếp ả. Người ta còn kể rằng sở dĩ hắn chọn con người tội nghiệp này, là để ả không nghe được bất cứ điều gì trong những âm mưu của hắn mà kể cho ai khác. Một ả câm, phải, để chắc chắn không bao giờ bị phản. Thật đúng là đồ quỷ sứ.

Nhưng người ta cũng phải công nhận rằng từ ngày cưới vợ, Rocco thôi không đụng đến một sợi tóc của những cư dân Montepuccio. Hắn triển khai những hoạt động của mình ở xa hơn, trong những vùng đất miền Pouilles. Và Montepuccio lại sống bình yên, thậm chí còn hãnh diện là nơi cư trú của một nhân vật trứ danh như thế. Don Giorgio không quên tạ ơn Chúa về sự bình yên trở lại này mà ông coi là ân sủng của Đấng Quyền Lực Tối Cao đáp lại lời cầu nguyện của mình.

Rocco làm cho ả câm sinh ba đứa con: Domenico, Giuseppe và Carmela. Dân làng Montepuccio hầu như không gặp hắn nữa. Hắn luôn rong ruổi trên đường, tìm cách mở rộng khu vực hoạt động. Hắn thường trở về trại vào ban đêm. Người ta nhìn thấy những ánh nến qua các khung cửa sổ. Người ta nghe thấy những tiếng cười, những tiếng động của tiệc tùng. Điều đó kéo dài mấy ngày, rồi im lặng trở lại. Rocco không bao giờ xuống làng. Mấy lần tin lan truyền là hắn chết hoặc bị bắt, để rồi lại được phủ định bởi sự ra đời của một đứa hài nhi mới. Rocco vẫn sống sờ sờ. Bằng chứng là ả câm vẫn đi lại mua bán và lũ con của hắn vẫn đuổi nha trong những ngõ ngách của ngôi làng cổ. Rocco vẫn hiện diện như một bóng ma. Đôi khi, có những người lạ mặt đi qua làng không nói một câu. Họ dẫn đầu từng đoàn la chở đầy hòm xiểng và hàng hóa. Tất cả những của cải đó đổ về cái trại lớn im ắng trên đỉnh đồi và chất đống ở đó. Phải, Rocco vẫn đấy, hắn chẳng đang cho chuyển về nơi hắn ở cơ man nào là đồ ăn cắp đó sao?

Còn bọn trẻ con nhà scorta thì qua phần lớn thời gian dưới làng. Nhưng chúng bị tẩy chay một cách lịch sự. Người ta cùng lắm mới nói với chúng. Dặn trẻ con trong làng không chơi với chúng. Không biết bao nhiêu lần các bà mẹ ở Montepuccio đã bảo con cái: “Con không được chơi với những đứa ấy.” Và khi đứa bé ngây thơ hỏi tại sao thì người ta trả lời: “Đó là những đứa thuộc dòng dõi Mascalzone.” Ba đứa nhỏ, rốt cuộc, đành phải ngầm chấp nhận tình trạng đó. Chúng đã nhận thấy hễ có thằng bé nào trong làng mon men đến gần chúng ra ý muốn chơi cùng là y như rằng một người đàn bà không biết từ đâu lao ra túm lấy cánh tay nó, tát tai và quát: “Đồ khốn nạn, tao đã bảo mày thế nào?” và thằng bé tội nghiệp vừa khóc vừa lảng ra xa. Thế là chúng chỉ còn nước chơi với nhau thôi.

Đứa duy nhất hòa đồng với tốp chúng nó là Raffaele, nhưng mọi người đều gọi nó bằng cái tên tắt Faellucc’. Đó là con trai một trong những gia đình ngư dân nghèo nhất Montepuccio. Raffaele đã trở thành bạn thân của bọn trẻ nhà Scorta và không rời chúng ra nữa, bất chấp sự ngăn cấm của bố mẹ. Chiều chiều về nhà, khi bị bố tra hỏi đã la ca với ai, bao giờ nó cũng trả lời: “Với các bạn con.” Thế là chiều nào, bố nó cũng cho nó no đòn, vừa đánh vừa nguyền rủa trời đất sao lại cho mình một đứa con ngu si đần độn như vậy. Những hôm bố vắng nhà thì mẹ là người đặt câu hỏi đã thành thủ tục ấy. Và mẹ còn dữ đòn hơn. Raffaele chịu đựng như thế một tháng trời. Mỗi chiều một trận đòn. Nhưng thằng bé thật thà không biết nói dối và nó không thể nghĩ ra cách nào khác để qua ngày ngoài việc đi theo tụi bạn ấy. Sau một tháng, bố mẹ nó đánh mãi cũng mệt, thôi không hỏi nữa. Họ xổ toẹt thằng con trai, coi như không thể trông chờ gì được ở cái thứ con cái như vậy. Từ giờ trở đi, mẹ nó coi nó như đồ vô lại. Đến bữa ăn, mẹ nó bảo nó: “Ê thằng tội đồ, đưa bánh cho tao.” Nói ráo hoảnh không cười, không ra ý giễu cợt, chỉ đơn giản như một ghi nhận. Thằng bé này bỏ đi rồi và tốt nhất là không coi nó là con trai mình nữa.

Một ngày tháng hai năm 1928, Rocco xuất hiện ở chợ. Hắn đi cùng với ả Câm và ba đứa con diện như đi dự hội. Sự xuất hiện ấy làm cho cả làng sửng sốt. Từ bao lâu rồi, không ai còn thấy hắn. Giờ đây, hắn là một người đàn ông ngoại ngũ tuần. Vẫn còn cường tráng. Hắn mang một bộ râu muối tiêu che kín đôi má hóp. Cái nhìn không hề thay đổi. Vẫn thỉnh thoảng lộ ra một cái gì hừng hực cuồng nhiệt. Y phục quý phái và trang nhã. Hắn qua cả ngày trong làng. Đi từ quán cà-phê này sang quán khác. Nhận những món quà người ta tặng. Lắng nghe những yêu cầu người ta đề đạt. Hắn bình thản và cái vẻ khinh bỉ đối với dân làng Montepuccio dường như đã biến mất. Rocco đó, dạo chơi từ sạp hàng này sang sạp hàng khác – và mọi người đều nhất trí rằng xét cho cùng, con người như vậy có thể làm một xã trưởng tốt.

Ngày mau chóng tàn. Một cơn mưa nhỏ, lạnh tí tách trên hè phố. Gia đình Scorta Mascalzone quay trở lên trang trại – để lại đám dân làng tha hồ bàn tán về sự xuất hiện bất ngờ đó. Khi đêm xuống, mưa nặng hạt hơn. Lúc này trời rét và biển động. Những con sóng xô bờ dọc theo vách đá.

Don Giorgio ăn tối với món xúp khoai tây. Cha cũng đã già đi. Lưng còng xuống. Những công việc cha xiết bao yêu thích – cuốc xới mảnh đất nhỏ của mình, làm mộc trong nhà thờ - tất cả những công việc dùng đến thể lực ấy trong đó cha tìm thấy một trạng thái yên bình, giờ đây đã thành cấm kỵ đối với cha. Cha đã gầy đi rất nhiều. Như thể thần chết, trước khi bắt người ta đi, cần làm cho họ nhẹ bớt. Cha đã thành một cụ già nhưng dân xứ đạo còn rất mực tận tụy với ch, cả thể xác lẫn tâm hồn, và ắt chẳng ai trong số họ nghe tin cha Zampanelli bị thay mà không bất bình nhổ xuống đất.

Có người gõ cửa nhà thờ. Don Giorgio giật mình. Thoạt đầu, cha tưởng nghe lầm – có khi là tiếng mưa cũng nên – nhưng tiếng gõ trở nên riết róng hơn. Cha lật đật ra khỏi giường; chắc có người hấp hối cần lễ xức dầu cuối cùng, cha nghĩ.

Đứng trước mặt cha là Rocco, ướt sũng từ đầu đến chân. Don Giorgio đứng sững hồi lâu, đủ để nhìn dõi vào mặt con người này và nhận thấy năm tháng trôi qua đã làm thay đổi diện mạo hắn biết bao. Cha đã nhận ra hắn, nhưng cha muốn quan sát kỹ tác phẩm của thời gian – như người ta xem xét tỉ mỉ kết quả công việc của một người thợ kim hoàn.

“Thưa cha, cuối cùng Rocco nói.

- Vào đi, vào đi, don Giorgio nói. Con đến có việc gì vậy?”

Rocco nhìn thẳng vào mắt vị cha xứ già và bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng kiên quyết, hắn đáp:

“Con đến xưng tội.”

Như thế đó, trong nhà thờ làng Montepuccio, bắt đầu cuộc đối mặt giữa don Giorgio và Rocco Scorta Mascalzone. Năm mươi năm sau khi người thứ nhất cứu mạng người thứ hai. Họ không hề gặp lại nhau kể từ khi vị cha xứ làm lễ thành hôn cho tên cướp. Và đêm dường như không đủ dài để chứa hết tất cả những gì hai con người này cần nói với nhau.

“Không có chuyện ấy đâu, don Giorgio đáp.

- Thưa cha…

- Không.

- Thưa cha, Rocco nói tiếp, rất quả quyết, khi cha và con nói chuyện xong, con sẽ về nhà, nằm xuống và chết. Hãy tin con. Con nói đích thị điều sẽ xảy tới. Cha đừng hỏi tại sao. Như vậy đấy. Giờ khắc của con đã tới. Con đứng đây, đối mặt với cha, con muốn cha nghe con và cha sẽ phải nghe con vì cha là đầy tớ của Chúa và cha không thể thế chỗ của Chúa được.”

Don Giorgio ngỡ ngàng trước ý chí và sự bình tĩnh toát ra từ kẻ đối thoại với mình. Chẳng còn cách nào khác là ưng thuận. Rocco quỳ xuống trong nhà thờ và đọc một bài kinh Cha Chúng ta. Rồi hắn ngẩng đầu lên và bắt đầu nói. Hắn kể lại tất cả. Từng tội ác. Từng hành dộng phi nghĩa. Không dấu một chi tiết nào. Hắn đã giết người. Hắn đã cướp của. Hắn đã cướp vợ người khác. Hắn đã sống bằng lửa đạn và khủng bố. Đời hắn chỉ toàn những thứ đó. Trộm cắp và bạo lực. Trong đêm tối, don Giorgio không nhìn rõ nét mặt hắn, nhưng cha để lòng mình hứng trọn đầy tiếng hắn, đón nhận bài phú tràng giang đại hải những tội lỗi và tội ác tuôn ra từ miệng con người này. Cha phải nghe tất cả. Rocco Scorta Mascalzone lần lượt điểm danh sách các tội ác của hắn hàng mấy giờ liền. Khi hắn nói xong, vị cha xứ chóng cả mặt. Im lặng trở lại và cha không biết nói gì. Cha có thể làm gì sau những điều cha đã nghe? Hai tay cha run lên.

“Con trai ta, ta đã nghe con, cuối cùng cha thì thầm, và trước đây, ta không bao giờ nghĩ là mình lại có ngày phải nghe một thứ ác mộng như vậy. Con đã đến với ta. Ta đã mở lòng nghe con. Ta không được quyền khước từ không nghe một sinh linh của Chúa, nhưng xá tội thì ta không thể. Con sẽ tới trình diện Chúa, con trai ạ, và phải phó mặc cho cơn thịnh nộ của người thôi.

- Con là một con người,” Rocco đáp, và don Giorgio không hiểu hắn nói thế là để tỏ ra không sợ gì cả hay là để tự biện hộ về những tội lỗi của mình. Vị cha xứ già mệt lừ. Ông thấy buồn nôn sau tất cả những gì được nghe và ông muốn được một mình. Nhưng giọng Rocco lại cất lên.

- “Chưa hết thưa cha.

- Còn gì nữa? don Giorgio hỏi.

- Con muốn hiến tặng nhà thờ.

- Hiến gì?

- Tất cả, thưa cha. Tất cả những gì con sở hữu. Tất cả những của cải tích lũy từ năm này qua năm khác. Tất cả những gì cho con ngày nay trở thành người giàu nhất Montepuccio.

- Ta sẽ không nhận bất cứ cái gì từ nơi con. Tiền của con rỉ máu. Làm sao con dám đề nghị thế? Sau tất cả những gì con vừa nói với ta. Hãy trả nó cho những người đã bị con cướp đoạt nếu sự ăn năn hối lỗi làm con mất ngủ.

- Cha thừa biết điều đó là bất khả. Phần lớn những người bị con cướp đều đã chết. Còn những người khác, làm sao con tìm được họ?

- Con chỉ việc đem tiền đó phân phát cho dân làng Montepuccio. Cho những người nghèo. Cho đám dân chài và gia đình họ.

- Đó chính là điều con muốn làm bằng cách giao nó cho cha. Cha là nhà thờ và dân làng Montepuccio là con cái của cha. Cha đứng ra làm việc phân chia. Nếu con tự mình làm điều đó khi còn sống, thì con sẽ cho họ đống tiền bẩn và khiến họ trở thành đồng lõa với những tội ác của con. Nhưng nếu cha làm thì hoàn toàn khác. Trong tay cha, tiền đó sẽ là tiền thánh.”

Con người này là thế nào nhỉ? Don Giorgio sửng sốt trước cách diễn đạt của Rocco. Thông minh biết bao. Sáng sủa biết bao. Đối với một người không được học hành gì. Cha bỗng mơ mộng hình dung Rocco lẽ ra đã có thể trở thành như thế nào. Một con người khả ái. Có sức thu hút quần chúng. Với một thứ ánh sáng trong mắt nó khiến ta muốn đi theo anh ta đến cuối đất cùng trời

“Thế còn các con của con? vị cha xứ hỏi. Con định thêm vào danh sách tội ác của con một tội nữa là tước bỏ hết của chúng sao?”

Rocco mỉm cười và dịu dàng đáp:

“Để cho chúng hưởng những của cải ăn cắp đâu phải là một món quà. Đó sẽ là khuyến khích chúng phạm tội.”

Lập luận hay, thậm chí quá hay là đằng khác. Don Giorgio cảm thấy tất cả những cái đó chỉ là mĩ từ. Rocco vừa nói vừa tủm tỉm cười, thực bụng hắn không nghĩ như hắn vừa nói ra miệng.

“Lý do thực sự là thế nào?” vị cha xứ hỏi bằng một giọng mạnh mẽ lẫn chút giận dữ.

Chính lúc đó Rocco phá lên cười. Tiếng cười quá lớn làm ông cho ông cha xứ già tái mặt. Hắn cười như một con quỷ.

“Don Giorgio, Rocco nói giữa hai nhịp cười, cha hãy để con chết với đôi điều bí mật chứ.”

Tiếng cười ấy, về sau cha Zampanelli suy ngẫm nhiều về nó. Tiếng cười ấy nói lên tất cả. Đó làm một khao khát trả thù lớn lao không gì có thể thỏa mãn nổi. Nếu Rocco có thể làm cho những người thân của mình biến mất thì chắc chắn hắn đã làm thế. Tất cả những gì thuộc về hắn phải cùng chết với hắn. Tiếng cười đó là tiếng cười điên dại của một người tự cắt bỏ những ngón tay. Đó là tiếng cười của tội ác quay trở lại chống chính nó.

“Con có biết như thế là con buộc chúng phải như thế nào không?” vị cha xứ gặng hỏi, muốn đẩy tới cùng.

“Có, Rocco lạnh lùng đáp. Phải sống. Không chút thư thái.”

Don Giorgio cảm thấy nỗi mệt mỏi của kẻ chiến bại.

“Được, ông nói. Ta nhận quà công đức của con. Tất cả những gì con sở hữu. Toàn bộ tài sản của con. Được. Nhưng con đừng tưởng như thế là có thể chuộc tội.”

“Không, thưa cha, con không mua sự thư thái của mình đâu. Điều đó không thể có được. Đổi lại, con muốn đôi điều.

- Là cái gì?” cha xứ hỏi, lúc này đã kiệt lực.

“Con hiến cho nhà thờ tài sản lớn nhất mà Montepuccio từng thấy. Đổi lại, con kính cẩn xin là những người thân của con, mặc dù từ nay phải sống nghèo hèn, sẽ được chôn cất như những ông hoàng bà chúa. Chỉ thế thôi. Những người trong gia đình Scorta, sau con, sẽ sống trong cảnh khốn cùng bởi con chẳng để lại gì cho chúng. Nhưng đám tang của chúng phải xa hoa hơn mọi đám tang khác. Nhà thờ này, nơi mà con đã trao cho tất cả, có trách nhiệm tôn trọng lời hứa. Nhà thờ phải lần lượt tổ chức lễ đại tang cho chúng con thành những đám rước. Don Giorgio, xin cha đừng hiểu lầm, không phải vì sĩ diện mà con xin điều này đâu. Đó là vì Montepuccio. Chúng chỉ kính trọng tiền bạc. Hãy làm cho chúng câm miệng bằng cách đưa tang những kẻ nghèo nhất trong bọn chúng với những nghi lễ long trọng dành cho các lãnh chúa. Những kẻ chót hạng sẽ là những người hàng đầu. Để cho điều này chí ít cũng thành sự thật ở Montepuccio. Từ đời này sang đời khác. Mong sao nhà thờ nhớ lời thề của mình. Và mong sao cả Montepuccio ngả mũ trước đám rước-tang của những người thuộc dòng dõi Mascalzone.”

Mắt Rocco bừng lên ánh điên dại khiến người ta tưởng như không có gì cưỡng lại hắn. Vị cha xứ già kiếm một tờ giấy và ghi lên đó những điều khoản của thỏa thuận. Khi mực đã khô, ông đưa tờ giấy cho Rocco, làm dấu thánh giá và nói: “Cầu sao như vậy.”

Nắng đã sưởi ấm mặt tiền nhà thờ. Ánh sáng tràn ngập vùng quê. Rocco Scorta và don Giorgio đã nói chuyện suốt đêm. Họ chia tay nhau lặng lẽ không lời. Không ôm hôm. Như thể họ sẽ phải gặp lại nhau ngay chiều hôm ấy.

Rocco về nhà. Cả gia đình đã dậy. Lão không nói một lời. Lão lùa tay vào tóc con gái; bé Carmela ngạc nhiên về cử chỉ âu yếm chưa từng thấy đó, giương tròn mắt chăm chú nhìn bố. Rồi Rocco lên giường nằm. Không trở dậy nữa. Gạt phắt không cho người nhà gọi thầy thuốc đến. Khi bà Câm cảm thấy phút lâm chung đã tới gần, định đi tìm cha xứ, lão nắm lấy cánh tay bà và bảo: “Để cho don Giorgio ngủ. Cha vừa qua một đêm khó khăn.” Cùng lắm, lão chỉ đồng ý để vợ mời hai bà già đến để giúp bà túc trực bên lão ban đêm. Chính hai bà này đã loan tin đi. “Rocco Scorta đang hấp hối. Rocco Scorta sắp chết.” Dân làng không tin. Ai nấy đều nhớ là mới gặp lão ta hôm qua, sang trọng, sảng khoái và cường tráng. Làm sao cái chết có thể len vào phủ tạng lã ta nhanh đến thế?

Lúc này, tin đồn đã lan truyền đi khắp nơi. Dân làng Montepuccio, nổi máu tò mò, cuối cùng kéo nhau lên trại. Họ muốn biết đích xác, không còn bán tín bán nghi. Một đoàn dài những kẻ hiếu kỳ chen chúc nhau quanh ngôi nhà. Một lúc sau, những người táo tợn nhất vào hẳn bên trong. Và chẳng mấy chốc, tất cả những người khác cũng theo chân họ. Một đám đông hiếu kỳ đổ xô vào nhà, không thể xác định được đó là để tỏ lòng tôn kính với người sắp chết hay, trái lại, để vui mừng kiểm tra cho chắc là lão ta đang hấp hối thật.

Khi nhìn thấy đám người tò mò kéo vào, Rocco nhỏm dậy trên giường. Lão tập trung chút tàn lực cuối cùng. Mặt lão trắng bệch, người khô đét. Lão quan sát đám đông trước mặt. Có thể thấy những ánh giận dữ trong mắt lão. Không ai dám nhúc nhích. Bấy giờ, người hấp hối bèn cất tiếng:

“Ta đang xuống mồ đây. Danh sách những tội ác của ta là một cái tà áo dài kéo lê quấn lấy bước chân ta. Ta là Rocco Scorta Mascalzone. Ta mỉm cười kiêu hãnh. Các người chờ đợi ta hối hận. Các người chờ đợi ta quỳ gối và cầu nguyện xin được cứu chuộc. Chờ đợi ta van nài sự khoan dung của Chúa và xin lỗi những kẻ đã bị ta xúc phạm. Ta nhổ toẹt xuống đất. Sự từ bi của Chúa là một thứ nước nhạt thếch để cho bọn hèn nhát vục vào rửa mặt. Ta chẳng xin gì hết. Ta biết những gì ta đã làm. Ta biết các ngươi nghĩ gì. Các ngươi đi nhà thờ. Các ngươi ngắm những bức bích họa về cảnh địa ngục mà người ta vẽ ở đó để nhát cái thứ đầu óc cả tin của các ngươi. Những con quỷ nhỏ nắm chân những vong hồn nhơ bẩn, kéo xềnh xệch. Những con quái vật có sừng chĩa nhánh, chân dê, hoan hỉ lột da những kẻ chịu tội. Quất roi lên mông họ. Cắn xé. Vặn xoắn họ như những con búp-bê. Đám tử tù xin tha tội, quý gối van lạy như đàn bà. Nhưng lũ quỷ mắt thú vật đâu có biết thương xót là gì. Và những cảnh ấy làm các ngươi thích thú. Vì mọi sự tất sẽ phải như thế. Cái đó làm các ngươi thích thú vì các ngươi thấy đó là công bằng. Ta đang xuống mồ và cái dốc bất tận đầy tiếng la hét cùng những cực hình ấy chính là nơi các ngươi muốn đày ta xuống. Các ngươi tự nhủ: Rocco sắp phải chịu hình phạt như trên các bức bích họa ở nhà thờ. Và vĩnh viễn như thế. Ấy thế mà ta không hề run sợ. Ta vẫn mỉm cười, cái nụ cười đã từng làm các ngươi lạnh toát xương sống vào thời ta còn sống. Ta không sợ những bích họa của các ngươi. Lũ quỷ con chưa bao giờ ám ảnh giấc ngủ của ta. Ta đã phạm nhiều tội lỗi. Ta đã giết chóc và cưỡng hiếp. Ai ngăn cánh tay ta lại? Ai ném ta vào hư không để xóa sạch sự hiện diện của ta khỏi mặt đất? Chẳng ai cả. Những đám mây vẫn tiếp tục bay ngang bầu trời. Những hôm tay ta vấy máu, trời rất đẹp. Đẹp ngời ngời với cái ánh sáng dường như là một thỏa ước giữa thế gian với Thượng Đế. Liệu có thể có một thỏa ước nào ở một thế giới trong đó ta đang sống? Không, bầu trời trống trơn và ta có thể mỉm cười mà chết. Ta là một con quái vật năm chân. Ta có cặp mắt của loài linh cẩu và đôi tay của kẻ giết người. Ta đi đến đâu cũng khiến Thượng Đế phải lùi bước. Người né ra tránh lối cho ta đi, giống như các ngươi đã từng làm thế trên các đường phố Montepuccio trong khi ghì chặt lũ con vào lòng. Hôm nay trời mưa và ta từ bỏ thế gian không một lần nhìn lại. Ta đã uống. Ta đã hưởng lạc. Ta đã ợ lên khoái trá trong im lặng của các giáo đường. Ta đã ăn ngấu nghiến tất cả những gì ta có thể giành được. Hôm nay lẽ ra phải là một ngày hội. Bầu trời lẽ ra phải mở toang ra và tiếng kèn đồng của các thượng đẳng thiên sứ lẽ ra phải vang ầm để đón mừng tin ta chết, Thế nhưng chẳng có gì hết. Trời đổ mưa. Tưởng như Thượng Đế buồn vì thấy ta biến mất. Tầm phào. Ta đã sống lâu bởi vì thế giới này giống hệt ta. Tất cả đều lộn tùng phèo. Ta là một con người. Ta chẳng hi vọng gì hết. Ta ăn những gì ta có thể ăn. Rocco Scorta Mascalzone. Và các ngươi, những kẻ khinh bỉ ta, những kẻ muốn ta xuống hỏa ngục chịu những cực hình khủng khiếp nhất, rốt cuộc các ngươi đã đọc tên ta một cách thán phục. Một phần lớn là do số tiền bạc của cải mà ta đã tích lũy được. Bởi vì nếu các ngươi nhổ vào những tội ác của ta thì ngược lại, các ngươi cũng không dẹp nổi cái sự tôn kính thâm căn cố đế thối tha của con người với vàng. Phải, vàng thì ta có. Có nhiều hơn bất kỳ ai trong số các ngươi. Ta có vàng. Và ta chẳng để lại gì hết. Ta biến mất cùng với những dao súng, những nhịp cười cưỡng dâm của ta. Ta đã làm những gì ta muốn. Suốt cả đời ta. Ta là Rocco Scorta Mascalzone. Hãy vui mừng đi, ta chết đây.”

Nói xong những lời cuối, lão ngã vật ra giường. Chút sức tàn đã rời bỏ lão. Lão chết mắt mở trừng trừng. Giữa sự im lặng của những người Montepuccio sững sờ. Lão không thở khò khè. Không rên. Lão chết, mắt nhìn thẳng.

Tang lễ được định vào ngày hôm sau. Chính khi đó, người ta chứng kiến điều bất ngờ lớn nhất của Montepuccio. Từ trang trại của gia đình Scorta trên đồi cao, vang lên tiếng nhạc rước da diết và chẳng bao lâu dân làng thấy xuất hiện một đám tang dài, đi đầu là cha Zampanelli tay lắc một chiếc bình xông hương đẹp bằng bạc, khiến đường phố ngào ngạt một mùi hương đậm đặc và thiêng liêng. Linh cữu do sáu người khiêng. Cả tượng thánh Elia, vị thánh bảo hộ của làng, cũng được đem ra, do mười người khác khiêng. Các nhạc công chơi những bài buồn thảm nhất của xứ sở theo nhịp bước chậm rãi. Ở Montepuccio, xưa nay chưa từng có ai được chôn cất với nghi lễ long trọng như vậy. Đám rước ngược lên corso, dừng lại một chút ở quảng trường trung tâm. Ngụp vào những phố hẹp của ngôi làng cổ, đi vòng vèo trong đó. Sau đó, lộn trở về quảng trường, dừng lại một lần nữa, rồi lại đi theo corso và cuối cùng, vào nhà thờ. Rồi sau một nghi lễ ngắn trong đó cha xứ thông báo rằng Rocco Scorta Mascalzone đã hiến tài sản cho nhà thờ, làm mọi người sửng sốt và xôn xao bàn tán, đám rước lại chuyển động theo tiếng kèn đồng thống thiết. Chuông nhà thờ điểm nhịp cho những giai điệu não nề của ban nhạc. Cả làng đều có mặt. Và tâm trí mọi người đều chộn rộn với những câu hỏi chung: có phải toàn bộ tài sản của lão không? Tổng cộng là bao nhiêu? Cha xứ sẽ sử dụng tài sản đó như thế nào? Mụ Câm sẽ ra sao? Và ba đứa trẻ nữa? Họ nhìn soi dõi sắc diện bà Câm để cố đoán xem bà ta có biết gì về những ý nguyện cuối cùng của chồng bà không, nhưng không một chút gì lộ ra trên nét mặt người quả phụ. Cả làng đều có mặt và Rocco Scorta mỉm cười trong mồ của mình. Lão đã bỏ cả một đời ra đeo đuổi nhưng lão đã đạt tới cái điều lão khao khát suốt kiếp sinh tồn của mình: khiến cả làng Montepuccio phải phủ phục dưới chân. Nắm cả làng trong tay. Bằng tiền bạc bởi chưng tiền bạc là phương tiện duy nhất. Và khi, rốt cuộc, bọn nhà quê này tưởng đã khoanh được lão, khi họ thậm chí đã bắt đầu mến lão và gọi lão bằng “don Rocco,” khi họ bắt đầu tôn vinh tài sản của lão và hôn tay lão, thì lão tung hê tất cả trong một nhịp cười lớn. Đó chính là điều lão xiết bao mong muốn. Phải, Rocco mỉm cười trong mồ của mình, chẳng còn bận tâm đến những gì lão để lại sau lưng.

Đối với dân làng Montepuccio, điều này thật rõ ràng: Rocco đã thay đổi điều nguyền rủa giáng vào dòng giống của mình. Dòng họ Mascalzone là một dòng họ con hoang không thể thoát khỏi điên khùng. Rocco là kẻ đầu tiên nhưng chắc chắn đám tiếp theo sẽ còn tệ hơn. Bằng việc hiến tài sản của mình, Rocco Scorta muốn thay đổi rủa nguyền đó: con cháu lão, từ nay, sẽ không bị điên khùng, nhưng sẽ nghèo khó. Và cả Montepuccio thấy điều đó là đáng trọng. Rocco Scorta không né tránh. Giá phải trả cao nhưng chính đáng. Từ nay, lão đem lại cho con cái lão khả năng trở nên những người Cơ Đốc tốt.

Ba đứa trẻ nép vào nhau trước mộ cha. Raffaele cũng ở đó, nắm tay Carmela. Chúng không khóc. Không đứa nào cảm thấy thực sự đau đớn về cái chết của cha. Không phải nỗi buồn làm chúng nghiến răng, mà là lòng căm giận. Chúng hiểu rằng mình đã bị tước đoạt tất cả và từ nay, chúng chỉ có thể trông cậy vào chính sức mình. Chúng hiểu rằng một ý chí man rợ khép chúng vào cảnh khốn cùng và đó là ý chí của cha chúng. Domenico, Giuseppe và Carmela nhìn trân trân vào huyệt dưới chân chúng và cảm thấy như đang chôn cả đời mình. Ngày mai, chúng sẽ sống bằng gì? Bằng tiền nào? Và ở đâu, bởi cả nhà trại cũng đã được hiến? Lấy sức đâu để lao vào những cuộc chiến đấu đang chờ đợi chúng. Chúng đứng nép sát vào nhau, lòng đầy căm giận đối với những ngày sắp tới. Chúng đã hiểu cả. Chúng đã cảm thấy qua những cái nhìn người ta ném về phía chúng: từ nay, chúng sẽ nghèo khó. Nghèo đến độ chết vì nghèo.

Con thích đến đây. Con đã đến đây bao lần. Đó là một bãi đất cũ mọc toàn cỏ dại lay phay trước gió. Vẫn còn thấy vài ánh đèn từ phía làng. Thấp thoáng thôi. Và cả phần trên gác chuông nhà thờ đằng kia nữa. Ở đây thì chẳng có gì. Ngoài cái thứ đồ gỗ cũ kỹ này mà nửa phần đã lún xuống đất. Đó chính là nơi con muốn đưa cha đến, don Salvatore. Đó chính là nơi con muốn chúng ta cùng ngồi. Cha có biết cái đồ gỗ này là cái gì không? Đó là chiếc ghế xưng tội của nhà thờ, được dùng vào thời don Giorgio. Nó đã được cha tiền nhiệm của cha thay thế. Đám người thu dọn đã mang nó ra khỏi nhà và vứt nó ở đây. Chẳng ai động đến nó. Nó đã hư nát. Tróc hết sơn. Chất gỗ suy thoái. Nó đã lún sâu xuống đất. Con thường đến đây ngồi. Nó cùng thời với con mà.

Don Salvatore, xin cha đừng tưởng nhầm, con không xưng tội đâu. Nếu con đưa cha đến đây và đề nghị cha ngồi cạnh con trên chiếc ghế băng cũ kỹ này, đó không phải là để xin cha ban phước. Những người thuộc dòng họ Scorta không xưng tội. Cha con là người cuối cùng làm điều đó. Cha đừng cau mày, con đâu có lăng nhục cha. Con chỉ đơn giản là con gái của Rocco và cho dù từ lâu con đã ghét ông ấy, điều đó cũng chẳng thay đổi gì hết. Máu huyết ông ấy chảy trong con.

Con nhớ lúc ông ấy nằm trên giường lâm chung. Người ông bóng loáng mồ hôi. Nước da ông tái nhợt. Cái chết đã lẩn vào dưới làn da ông. Ông chậm rãi nhìn tất cả mọi thứ xung quanh. Cả làng chen chúc nhau trong căn phòng nhỏ. Cái nhìn của ông lướt trên mặt vợ con và lia sang đám đông những kẻ đã từng bị ông làm cho kinh hồn táng đởm và ông nói với nụ cười của kẻ hấp hối. “Hãy vui mừng đi, ta chết đây.” Những lời nói đó làm con bỏng rát như một cái tát vào mặt. “Hãy vui mừng đi, ta chết đây.” Dân làng Montepuccio vui mừng, đó là cái chắc, nhưng còn ba chúng con đứng bên giường, chúng con nhìn ông với cặp mắt thao láo trống rỗng. Liệu rồi chúng con sẽ nếm trải niềm vui nào? Tại sao chúng con phải vui mừng với cái chết của ông? Câu đó nhằm tất cả mọi người, kể cả bọn con, không phân biệt. Rocco bao giờ cũng một mình đối mặt với phần còn lại của thế giới. Lẽ ra lúc bấy giờ con đã phải ghét ông ấy. Chỉ dành cho ông ấy lòng căm ghét của những đứa con bị lăng nhục. Nhưng con đã không thể, don Salvatore. Con nhớ đến một cử chỉ của ông đã làm. Đúng trước lúc về giường nằm để chết, ông đã lùa tay vào mái tóc con. Không nói một lời. Trước đó, ông chưa bao giờ làm thế. Ông đã lướt bàn tay nam nhi của ông lên đầu con, và con không biết cái cử chỉ ấy là một lời rủa nguyền phụ hay một dấu hiệu trìu mến. Con không sao xác định được. Cuối cùng, con cứ coi như ông ấy đã làm cả hai điều cùng một lúc. Ông đã vuốt ve con như một người cha vuốt ve con gái mình và ông đã đặt tai họa lên đầu con như một kẻ thù. Chính bởi cái cử chỉ ấy mà con là con gái của cha con. Ông đã không làm thế với các anh trai con. Con là đứa duy nhất mang dấu ấn đó. Toàn bộ sức nặng đã đè lên con. Con là đứa duy nhất chịu phận là con gái của cha con. Domenico và Giuseppe được sinh ra nhẹ nhàng theo dòng năm tháng. Như thể chẳng có cha mẹ nào hoài thai ra họ. Với con thì có cái cử chỉ ấy. Ông ấy đã chọn con. Con tự hào về điều đó và cho dù ông có làm thế để nguyền rủa con thì cũng chẳng thay đổi được gì. Liệu cha có thể hiểu được điều đó không?

Con là con gái của Rocco, don Salvatore. Cha đừng chờ đợi ở con một lời xưng tội. Thỏa ước giữa nhà thờ và dòng họ Scorta đã chấm dứt. Con đã đưa cha đến cái ghế xưng tội lộ thiên này là vì con không muốn gặp cha trong nhà thờ. Con không muốn nói với cha, đầu cúi gằm, với cái giọng run run của kẻ sám hối. Chính một nơi như thế này mới hợp với họ Scorta. Gió thổi. Đêm bao quanh chúng ta. Chẳng ai nghe thấy chúng ta ngoài những hòn đá trên đó nảy thia lia tiếng nói của chúng ta. Chúng ta ngồi trên một cái ghế gỗ dãi dầu năm tháng. Những miếng ván vẹc-ni này đã nghe biết bao lời xưng tội đến độ những nỗi đau của thế gian đã phủ lên chúng một lớp láng gỉ. Hàng ngàn giọng nói rụt rè đã thầm kể những tội ác, đã thú những lỗi lầm, đã bộc lộ những xấu xa của bản thân. Chính tại đây don Giorgio đã ngồi nghe những lời xưng tội đó. Chính tại nơi đây don Giorgio đã nghe cha con đến phát lộn mửa, vào cái buổi tối ông ấy đến xưng tội. Don Salvatore, tất cả những lời nói đó đã ngấm vào những ván gỗ này. Vào những chiều nổi gió như hôm nay, con nghe thấy chúng lại trỗi dậy. Hàng ngàn tiếng thì thầm tội lỗi tích lại theo dòng năm tháng, những tiếng khóc kìm lại, những lời xưng tội tủi hổ, tất cả lại trào ra. Như những màn sương mù dằng dặc khổ đau mà gió đem phủ thơm mức những trái đồi. Những cái đó hỗ trợ cho con. Con chỉ có thể nói ở đây. Trên chiếc ghế băng cũ kỹ này. Con chỉ có thể nói ở đây. Nhưng con không xưng tội đâu. Bởi vì con không chờ đợi ở cha một sự ban phước nào. Con không tìm cách rửa sạch lỗi lầm của mình. Những lỗi lầm đó trụ ở đây, bên trong con. Con sẽ mang chúng vào cõi chết. Nhưng con muốn mọi chuyện được nói ra. Rồi con sẽ ra đi. Có thể còn lại một mùi hương trong gió, những chiều hè. Mùi hương của cuộc đời, quyện vào những mùi đá và cỏ dại.