← Quay lại trang sách

Chương 3 Bọn khố rách áo ôm trở về

“Khoan, Giuseppe hét, chờ đã!”

Domenico và Carmela dừng bước, ngoảnh lại nhìn Giuseppe đang nhảy lò cò trên một chân cách đó và mét.

“Có chuyện gì thế? Dominico hỏi.

- Em có một hòn sỏi trong giày.”

Nó ngồi xuống vệ đường và bắt đầu cởi dây giày.

“Nó hành hạ em ít nhất hai tiếng đồng hồ rồi, nó nói thêm.

- Hai tiếng đồng hồ? Dominico hỏi.

- Phải, Giuseppe xác nhận.

- Thế mày không cố chịu được thêm một tí nữa sao? Sắp đến nơi rồi.

- Anh muốn em tập tễnh trở về làng sao?”

Bằng một giọng dứt khoát, Dominico buông một câu “Ma va fan culo [3] ” dõng dạc làm đứa em gái cười phá lên.

Họ dừng lại nghỉ bên vệ đường và thực ra, họ lấy làm sung sướng có được cơ hội này để lấy lại hơi và ngắm đoạn đường còn lại. Họ cảm ơn cái hòn sỏi nhỏ đã hành Giuseppe vì đó chính là cái cớ mà họ chờ đợi. Giuseppe đã cởi giày rất chậm rãi như để nhấm nháp cái khoảnh khắc này. Điều cốt yếu nằm ở chỗ khác cơ. Montepuccio giờ đã ở dưới chân họ. Họ ngắm ngôi làng chôn nhau cắt rốn của mình với đôi mắt thèm khát trong đó ánh lên chút lo sợ. Nỗi lo sợ sâu kín ấy là nỗi sợ của kẻ di trú vào giờ phút trở về. Cái nỗi sợ cố hữu không sao dẹp nổi, rằng mọi cái đã mất tăm trong khi mình ra đi. Rằng người quen đã biến mất hoặc tệ hơn nữa, đón tiếp mình bằng một cái bĩu môi ghê tởm và cặp mắt độc địa như muốn nói: “Chà, bọn bay đấy ư?” Cái nỗi sợ ấy là điều họ chia sẻ khi dừng lại bên vệ đường và viên sỏi trong giày Giuseppe là công cụ của ý trời. Bởi vì mỗi người trong bọn họ đều muốn có thời gian để đưa mắt nhìn bao quát ngôi làng, để lấy lại hơi và làm dấu thánh giá trước khi bắt đầu đi xuống.

Chưa đầy một năm trôi qua từ khi bọn họ rời làng, vậy mà họ đã già hẳn đi. Mặt họ đanh lại. Tia nhìn của họ có một sức mạnh dữ dằn. Cả một cuộc đời đã trôi qua, một cuộc đời cùng quẫn, xoay xở, với những niềm vui bất ngờ.

Domenico, mà mọi người đều gọi là “Mimi va fan’culo” vì câu nào của gã cũng kết thúc bằng những chữ đệm ấy mà gã phát âm bằng một giọng lè nhè như thể đó không phải là một lời chửi tục mà là một kiểu chấm câu mới, Domenico đã trở thành một người đàn ông hẳn hoi. Người ta dễ đoán gã già trội lên cả mười niên so với cái tuổi thật mười tám của gã. Mặt thô, không đẹp, cái nhìn xuyên thấu như được phú bẩm để nhận định giá trị của kẻ đối thoại với mình. Gã cường tráng, hai bàn tay to rộng, nhưng tất cả năng lượng gã dồn vào điều này: làm sao có thể xác định nhanh nhất mình đang phải ứng phó với ai. “Liệu có thể tin cậy được người này không?”

“Có cách nào để kiếm được ít tiền trong chuyện này không?” Những câu hỏi như thế không còn được lập ngôn trong đầu gã nữa mà chuyển vào trong máu.

Giuseppe thì còn giữ được nhiều nét trẻ thơ. Kém anh trai hai tuổi, nó có khuôn mặt tròn, bầu bĩnh. Trong cái nhóm nhỏ ba anh em, nó ráng hết mình, một cách bản năng, để hòa giải mọi xung đột. Nó luôn luôn vui vẻ và đầy lòng tin vào anh trai và em gái đến nỗi họa hoằn lắm người ta mới thấy nó mất hi vọng vào ngày mai. Người ta mệnh danh nó là “Peppe pancia piena (Peppe dạ dày căng)” bởi vì dạ dày căng là trạng thái nó thích nhất trên đời. Được ăn đúng lúc đói, và dư dả nữa, là điều luôn ám ảnh nó. Hôm nào có được một bữa ăn đáng gọi là bữa, nó tuyên bố hôm đó là một ngày tốt lành. Có hai bữa thì là ngày đặc biệt khiến Giuseppe chìm ngập trong một tâm thái hồ hởi có thể kéo dài mấy hôm liền. Đã bao lần, trên đường từ Napoli về Montepuccio, phải, đã bao nhiêu lần nó đã mỉm cười một mình khi nhớ lại món gnochia hay món bột viên vừa được ngốn hôm trước? Và thế là, trong bụi đường mù mịt, nó bắt đầu nói một mình, mỉm cười ngây ngất như không còn cảm thấy mệt, tìm lại được một sức mạnh vui vẻ bên trong khiến nó đột nhiên hú lên: “Madona che pasta! (Mẹ ơi! Cái món bột viên!)” và thèm thuồng hỏi thằng anh: “Anh có nhớ không, Mimi?” Thế rồi tiếp theo, thao thao bất tuyệt mô tả món bột viên đó, nào là vân nó ra sao, vị nó ra sao, nước xốt đi kèm ra sao, rồi lại gặng hỏi: “Mimi, anh có nhớ không, chấm nước sugo đỏ tươi, cảm thấy rõ vị thịt ninh bên trong, anh nhớ không?” và cuối cùng, Mimi sốt ruột vì cái kiểu mê mê sảng sảng ấy, liền văng: “Ma va fan’ culo, cả mày lẫn món bột viên của mày!” Đó là một cách nói rằng đường thì xa, chân thì mỏi, nào biết đến bao giờ mới lại được ăn món bột viên ngon như thế.

Carmela – được các anh trai gọi bằng cái tên âu yếm là Miuccia – thì vẫn còn là một đứa bé. Về cả thân hình lẫn giọng nói. Nhưng mấy tháng vừa qua đã làm nó thay đổi nhiều hơn hai anh nó. Chính nó đã là nguyên nhân những bất hạnh lớn nhất và những niềm vui lớn nhất mà cái nhóm nhỏ này đã từng nếm trải trong cuộc lữ hành của họ. Chẳng ai vì thế mà trách nó bao giờ, nhưng nó hiểu: tất cả đều do lỗi tại nó. Và cũng nhờ nó mà chung cuộc, tất cả đều được cứu vãn. Điều đó đã làm nảy sinh nơi nó một ý thức trách nhiệm và một trí thông minh hiếm thấy ở lứa tuổi nó. Thường nhật, nó vẫn là một bé gái, cười khanh khách khi nghe những câu đùa cợt của các anh, nhưng đến lúc gay go, gian khó, thì nó nghiến răng ra lệnh. Chính nó, trên đường trở về làng, đã cầm cương điều khiển lừa. Hai thằng anh giao phó vào tay nó tất cả những gì chúng có. Con lừa và cả mớ đồ vật linh tinh chất trên lưng nó. Mấy chiếc va-li. Một ấm pha trà. Những chiếc đĩa sứ Hà Lan. Một chiếc ghế đan. Cả một dàn xoong chảo bằng đồng. Chăn mền. Con lừa mang gánh nặng của mình rất có lương tâm. Tách riêng từng cái, không một thứ nào trong trong số những đồ vật ấy có giá trị lớn, nhưng gộp cả lại, đó là cả cái gò của đời họ. Cũng chính con bé là người giữ cái hầu bao trong đó họ bỏ số tiền tích lũy được trong cả chuyến đi. Carmela trông coi kho báu ấy với nỗi khát thèm của những kẻ nghèo khó.

“Anh có nghĩ là họ sẽ thắp đèn lồng đón chúng ra không?”

Tiếng Giuseppe vang lên trong im lặng của núi đồi. Ba hôm trước, một người cưỡi ngựa đã vượt lên trước bọn họ. Sau một lát trao đổi, anh em nhà Scorta giải thích rằng họ đang trên đường trở về nhà ở Montepuccio. Bấy giờ người kỵ sĩ bèn hứa sẽ báo tin họ trở về. Giuseppe đang nghĩ đến điều ấy. Thắp đèn lồng dọc corso Garibaldi như vào những những ngày những người di trú trở về. Thắp đèn lồng đề mừng sự trở về của những “người Mỹ.”

“Tất nhiên là không, Domenico đáp. Đèn lồng…” gã nhún vai nói thêm. Và một lần nữa, im lặng lại bao bọc lấy họ.

Tất nhiên là không rồi. Đừng hòng có đèn lồng cho anh em nhà Scorta. Trong một thoáng, Giuseppe có vẻ buồn. Domenicco đã nói vậy với một giọng hồ như không thể bàn cãi. Nhưng chính gã cũng đã nghĩ đến điều đó. Và giờ đây, gã lại nghĩ đến điều đó. Phải, đèn lồng. Cho riêng họ. Và cả làng sẽ có mặt. Cô bé Carmela cũng nghĩ đến điều đó. Tiến vào corso Garibaldi và nhận ra những gương mặt quen thuộc, tươi cười và đầy nước mắt. Cả ba đều mơ tưởng đến điều đó. Phải. Dù sao, những cây đèn lồng… Nếu vậy thì thật là đẹp.

Gió đã nổi, tung hè những mùi của núi đồi. Những ánh sáng cuối ngày nhẹ nhàng tắt. Bấy giờ, không một lời, họ lại nhất tề cất bước, như thể bị sức hút nam châm của ngôi làng, cùng một lúc vừa nôn nóng vừa sợ sệt.

Họ đi vào Montepuccio lúc ban đêm. Corso Garibaldi nằm đó, trước mặt họ, y nguyên như khi họ rời xa nó cách đây mười tháng. Nhưng lúc này nó trống trơn. Gió ùa vào và rít trên đầu lũ mèo uốn cong lưng chạy nháo nhác. Không còn thấy một bóng người. Làng ngủ vùi và tiếng vó lừa vang lên thanh âm chính xác của cô đơn.

Domenicco, Giuseppe và Carmela tiến bước, hai hàm răng nghiến chặt. Họ chẳng còn bụng dạ nào mà nhìn ngắm. Chẳng còn bụng dạ nào mà trò chuyện. Họ giận mình sao lại ngây thơ bám víu vào cái hi vọng ngu xuẩn ấy – những chiếc đèn lồng… đèn lồng chết tiệc nào chứ?…– để rồi bây giờ chỉ còn biết câm lặng nắm chặt tay lại.

Họ đi qua cái chỗ mà khi họ ra đi vẫn còn là hiệu tạp hóa của Luigi Zacalonia. Hiển nhiên là đã xảy ra chuyện gì rồi – tấm biển hiệu rơi xuống đất, các ô cửa kính vỡ toang. Nơi đây chả có gì để mua hoặc bán. Điều đó chẳng dễ chịu gì đối với họ. Chẳng phải vì họ đã từng là khách hàng trung thành của cửa hiệu này, nhưng đối với họ, mọi thay đổi ở Montepuccio đều có vẻ như là điềm gở. Họ muốn thấy lại tất cả y nguyên như khi ra đi. Rằng thời gian không làm hư hại gì trong khi họ vắng mặt. Nếu như Luigi Zacalonia không duy trì được cửa hiệu tạp hóa của mình thì có trời mà biết còn những điều đáng thất vọng nào khác đang chờ họ.

Đi sâu thêm chút nữa vào corso, họ trông thấy một dáng đàn ông ngủ gục ở một chân tường, giữa những luồng gió thông thốc. Thoạt đầu, họ tưởng là một người say rượu, nhưng khi còn cách vài bước, Giuseppe bỗng kêu lên: “Raffaele! Đúng là Raffaele.” Tiếng kêu làm gã trai giật mình. Gã đứng bật dậy. Anh em nhà Scorta mừng rú lên. Mắt Raffaele long lanh sung sướng nhưng gã không ngớt tự trách mắng mình. Gã lấy làm nhục vì nỗi đã để lỡ một cách thảm hại giây phút các bạn gã về tới nơi. Gã đã chuẩn bị cho cái khoảnh khắc này, tự hứa với mình sẽ thức suốt đêm nếu cần, ấy thế rồi dần dà kiệt sức ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

“Các cậu đã ở đây…, gã nói, nước mắt lưng tròng, Mimi, Peppe… các cậu đã ở đây rồi… Các bạn tôi, để cho mình ngắm nhìn các cậu nào! Miuccia! Thế mà mình lại quay ra ngủ. Mình thật vô tích sự. Mình đã muốn nhìn thấy các cậu từ xa đi tới kia.”

Họ ôm hôn nhau, sờ nắn nhau, vỗ vỗ vào lưng nhau. Chí ít cũng có một điều không thay đổi ở Montepuccio bởi chưng Raffaele đã ở đây. Gã trai trẻ mừng quýnh không biết làm gì. Thậm chí gã cũng không để ý đến con lừa và đống hành lý nó thồ trên lưng. Ngay lập tức gã sững sờ vì vẻ đẹp của Carmela và điều đó càng khiến gã thêm bối rối và lắp bắp.

Cuối cùng Raffaele mới nói gãy gọn được vài câu. Gã đề nghị các bạn nhận lời về nhà gã. Đêm đã khuya. Làng ngủ vùi. Cuộc tái ngộ giữa anh em nhà Scorta với Montepuccio có thể chờ đến ngày mai. Anh em nhà Scorta nhận lời mời và phải tranh đấu để ngăn không cho Raffaele vác tất cả các bọc và va-li lên lưng. Hiện nay, gã ở một căn nhà nhỏ, thấp lè tè gần cảng. Một căn nhà tồi tàn khoét vào đá, quét vôi trắng. Raffaele đã chuẩn bị một bất ngờ. Từ lúc được tin anh em nhà Scorta sắp về, gã đã ráo riết bắt tay vào việc. Gã đã mua mấy ổ bánh mì trắng to tướng. Hầm một nồi xốt thịt. Làm món bột viên. Gã muốn đón bạn bằng một bữa đại tiệc.

Khi tất cả ngồi vào quanh chiếc bàn gỗ nhỏ và Raffaele mang một đĩa lớn orrchiette làm bằng tay, ngập trong nước xốt cà chua đặc, thì Giuseppe bắt đầu khóc. Nó gặp lại những vị của làng quê. Nó gặp lại thằng bạn cũ. Nó chẳng cần gì hơn thế nữa. Những ngọn đèn lồng, nếu có, cũng chẳng làm nó sung sướng hơn cái đĩa orec-chiette đầy tú ụ nghi ngút khói này mà nó sắp nghiến ngấu.

Họ ăn. Họ nhai rau ráu những miếng bánh mì trắng mà Raffaele đã phết cà chua, muối và dầu ô-liu. Họ để những viên bột đẫm nước xốt tan trong miệng. Họ mải ăn không thấy Raffaele ngắm họ với vẻ rầu rầu. Một lát sau, Carmela mới nhận thấy gã lặng thinh.

“Có chuyện gì vậy anh Raffaele?” cô bé hỏi.

Raffaele mỉm cười. Gã không muốn nói trước khi họ ăn xong. Điều gã định nói có thể chờ thêm một lát nữa. Gã muốn thấy các bạn mình ăn cho xong. Muốn thấy Giuseppe khoái khẩu. Để nó thư thả và khoan khoái liếm đĩa thức ăn với vẻ thỏa mãn.

“Raffaele? Carmela gặng hỏi.

- Vậy chứ New York nó thế nào, kể mình nghe xem.”

Gã bật ra câu hỏi với một vẻ háo hức giả vờ. Gã tìm cách nấn ná hoãn binh. Carmela không mắc lừa.

“Anh trước, Raffaele. Hãy nói cái điều anh cần nói đi đã.”

Domenico và Giuseppe ngẩng đầu lên khỏi đĩa thức ăn của mình. Giọng cô em gái cảnh báo cho họ là có một cái gì bất ngờ đã xảy ra. Tất cả nhìn Raffaele. Mặt gã tái nhợt.

“Điều mình cần nói với các cậu…” gã thì thầm, không nói nổi hết câu. Ba anh em nhà Scorta không động đậy. “Mẹ các cậu… Bà Câm…, gã nói tiếp,… mất cách đây hai tháng rồi.”

Gã cúi đầu xuống. Ba anh em nhà Scorta không nói gì. Họ chờ. Raffaele hiểu là mình phải nói rõ thêm. Phải kể tất cả. Gã bèn ngước mắt lên và cái giọng đưa ma của gã khiến cả căn phòng ngập trong buồn thảm.

Bà câm bị sốt rét. Trong những tuần đầu sau khi các con bà ra đi, bà đã cầm cự, nhưng rồi bà xuống sức rất nhanh. Bà cố giành giật thời gian. Bà hi vọng trụ vững được đến khi các con trở về. Chí ít cũng đến ngày có tin chúng, nhưng bà không trụ nổi sau một cơn sốt ác tính.

“Don Giorgio có cử hành tang lễ long trọng cho bà không?” Domenico hỏi.

Câu hỏi rơi tõm hồi lâu không được giải đáp. Raffaele như đang chịu cực hình. Điều gã phải nói ra làm gã đau thắt ruột. Nhưng li rượu đắng này phải uống đến cặn thôi và không được giấu điều gì hết.

“Don Giorgio mất trước mẹ các cậu khá lâu. Cha chết già,với nụ cười trên môi, tay chắp trên mình.”

- Mẹ chúng tôi được chôn cất như thế nào? Carmela hỏi, cô cảm thấy rằng nếu Raffaele không trả lời câu hỏi kia thì chắc chắn sự im lặng đó phải che giấu một tai họa phụ nữa.

- Mình chẳng thể làm gì được, Raffaele thì thầm. Mình đến muộn quá. Mình ra khơi hai hôm liền. Khi về thì bà đã được chôn rồi. Việc ấy là do cha xứ mới phụ trách. Họ đã chôn bà ấy vào huyệt chung. Mình chẳng thể làm gì được.”

Mặt anh em nhà Scorta lúc này đanh lại vì cuồng giận. Hàm răng nghiến chặt. Tia nhìn tối sầm. Hai tiếng “huyệt chung” vang lên trong đầu họ như một cái tát.

“Cha xứ mới tên là gì? Domenico hỏi.

- Don Carlo Bozzoni, Raffaele trả lời.

- Ngày mai, bọn mình sẽ đến tìm ông ấy.”

Domenico cả quyết. nghe giọng gã, tất cả đều cảm thấy rằng gã đã biết gã sẽ hỏi gì nhưng tối nay, gã chưa muốn vội.

Họ đi nằm, bỏ dở bữa ăn. Không ai đủ sức nói thêm gì. Thôi đành im lặng và để cho đau thương tang tóc xâm chiếm tâm hồn.

Ngày hôm sau, Carmela, Giuseppe, Domenico và Raffaele dậy từ sáng sớm. Họ gặp cha xứ mới trong không khí lạnh giá của buổi sớm mai.

“Thưa cha, Domenico nói.

- Phải, các con, ta có thể làm gì cho các con? cha xứ đáp, giọng ngọt lừ.

- Chúng con là con của bà Câm.

- Con ai?

- Bà Câm.

- Đó không phải là một cái tên, don Carlo nói, một nụ cười thoáng trên môi.

- Đó là tên bà, Carmela cộc cằn ngắt lời.

- Ta hỏi các con tên rửa tội của bà ta.

- Bà không có tên khác.

- Ta có thể giúp gì cho các con?

- Bà mất cách đây vài tháng, Domenico nói. Cha đã cho chôn bà ở huyệt công cộng.

- Ta nhớ rồi. Phải. Xin hết lòng phân ưu với các con. Đừng buồn, mẹ các con giờ đây đang ở bên Đức Chúa Trời.

- Chúng con đến gặp cha chính vì chuyện tang lễ, một lần nữa Carmela ngắt lời.

- Chính các con vừa nói bà ta đã được chôn cất tử tế.

- Đó chính là một thành viên nữ của dòng họ Scorta.

- Phải. Một thành viên nữa của dòng họ Scorta. Được. Tốt lắm. Các con thấy đó, thật ra thì bà ta cũng có tên họ đấy thôi.

- Phải chôn cất bà đúng nghi lễ dành cho một người thuộc dòng họ Scorta, Carmela nói tiếp.

- Chúng ta đã chôn cất bà ta như một người Cơ Đốc”, don Carlo đính chính.

Mặt Domenico trắng bệch vì giận dữ. Gã nói bằng giọng đanh thép:

“Không, thưa cha. Phải như một thành viên nữ của dòng họ Scorta. Điều đó đã được ghi rõ ở đây.”

Gã chìa cho don Bozzoni tờ giấy trên đó Rocco và don Giorgio đã ký thỏa thuận. Cha xứ lặng lẽ đọc. Sự phẫn nộ làm má ông đỏ bừng và ông quát:

“Cái này nghĩa là thế nào, những thứ như vậy? Thật không thể tưởng tượng được! Trò mê tín dị đoan, thế đấy. Trò ma thuật. Nhân danh cái gì mà ông don Giorgio ấy đã ký cho nhà thờ? Một kẻ tà đạo, đúng thế. Một thành viên nữ của dòng họ Scorta! Hay hớm nhỉ. Vậy mà các ngươi tự nhận mình là Cơ Đốc. Một lũ vô đạo đầy những nghi lễ lén lút, những người ở đây là thế đó. Một thành viên nữ của dòng họ Scorta ư? Thì bà ta đã được chôn xuống đất như những người khác đấy thôi. Và đó là tất cả những gì bà ta có thể hi vọng.

- Thưa cha…, Giuseppe cố trình bày. Nhà thờ đã có một thỏa thuận với gia đình chúng con.”

Nhưng ông cha xứ không để cho gã nói. Ông đã gầm lên.

“Thật là điên rồ. Một thỏa thuận với gia đình Scorta. Các người mê sảng chắc?”

Ông gạt phắt tay, rẽ lối đi về phía cửa nhà thờ rồi biến mất.

Sự vắng mặt của anh em nhà Scorta khiến họ không thể làm tròn một bổn phận thiêng liêng: tự tay đào huyệt chôn mẹ mình. Lòng hiếu thảo đòi hỏi những người con trai làm cái cử chỉ cuối cùng này. Giờ đây, khi đã trở về, họ quyết định phải tôn vinh thi hài mẹ mình. Sự cô đơn, cái huyệt công cộng, thỏa thuận bị chà đạp, thật quá nhiều xúc phạm. Họ nhất trí rằng ngay đêm nay sẽ đem cuốc xẻng đến khai quật thi thể bà Câm lên. Để bà yên nghỉ trong một huyệt của riêng mình, do các con trai mình đào. Và cho dù có ở ngoài khu nghĩa trang cũng chẳng sao. Thà như thế còn hơn phải vĩnh viễn nằm dưới lớp đất không tên của một cái huyệt công cộng.

Đêm xuống, họ tập hợp như đã hẹn. Raffaele mang xẻng cuốc tới. Trời rét. Họ lẻn vào bên trong tường rào nghĩa trang như những tên trộm.

“Mimi? Giuseppe hỏi.

- Gì thế?

- Anh chắc là chúng mình không phạm một tội ác nào chứ?”

Trước cả khi Domenico kịp trả lời, giọng Carmela đã vang lên:

“Chính cái huyệt công cộng này mới là một tội phạm thánh.”

Giuseppe bèn cầm xẻng lên, vẻ cả quyết và kết luận:

“Em có lý. Không việc gì phải phân vân nữa.”

Họ lặng lẽ đào vào lớp đất lạnh của cáu huyệt công cộng. Càng đào sâu xuống, càng thấy khó xúc. Họ cảm giác là bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ làm cho vô số vong hồn thức giấc. Họ cố không run sợ. Họ cố không lảo đảo trước những luồng tử khí lộn mửa bốc lên từ lòng đất.

Cuối cùng, những lưỡi xẻng va vào nắp gỗ của một cỗ quan tài. Họ phải huy động một sức mạnh ngoan cường mới trục được nó lên. Trên nắp ván bằng gỗ thông, chữ “Scorta” khắc bằng dao. Mẹ của họ ở đó. Trong chiếc hòm xấu xí này. Bị chôn như một kẻ khốn cùng. Không bia đá hoa cương, không nghi lễ. Họ nhấc bà lên vai như những tên kẻ trộm và ra khỏi nghĩa trang. Họ men theo tường rào cho tới khi đến một khu đất ở đó không ai trông thấy họ được. Đó là nơi họ đặt bà yên nghỉ. Chỉ còn việc đào một cái huyệt. Cầu cho bà Câm cảm thấy hơi thở của các con trai bà trong đêm. Đúng lúc họ sắp sửa bắt đầu, Giuseppe quay sang Raffaele hỏi:

“Cậu cùng đào với bọn mình chứ?”

Raffaele ngớ ra. Điều Giuseppe nói không phải chỉ đơn thuần là yêu cầu giúp một tay, đó không phải là chia sẻ mồ hôi với họ, không, đó là an táng bà Câm như thể gã đích thị là một trong những con trai của bà vậy. Mặt Raffaele trắng nhợt như tớ giấy. Domenico và Giuseppe đặt câu hỏi đó là nhân danh cả ba anh em nhà Scorta. Không ai thấy bất ngờ cả. Họ chờ Raffaele lựa chọn. Trước một của bà Câm. Raffaele nắm lấy một cái xẻng, nước mắt lưng tròng. “Tất nhiên rồi,” gã nói. Kể như đến lượt gã trở thành một người thuộc dòng họ Scorta. Như thể cái xác của người đàn bà đáng thương bày ban phước cho gã với tư cách là mẹ. Giờ đây gã là anh em ruột của họ. Y như là cùng một dòng máu chảy trong cả bọn họ. Anh em ruột thịt. Gã xiết chặt cán xẻng để khỏi nấc lên. Đúng lúc bắt đầu đào, gã ngẩng lên và cặp mắt gã bắt gặp Carmela. Cô đứng đó. Kề bên họ. Không động đậy và lặng lẽ. Cô nhìn họ làm việc. Gã cảm thấy nhói một cái ở tim. Một tiếc nuối sâu sắc dâng lên trong mắt gã. Miuccia. Em đẹp biết bao. Miuccia. Từ nay anh phải nhìn em bằng cặp mắt thằng anh trai. Gã nuốt vào tận đáy sâu lòng mình niềm tiếc nuối ấy, cúi đầu và dồn hết sức vào lưỡi xẻng.

Khi công việc đã hoàn tất và cỗ quan tài lại đực phủ đất lên, họ đứng im lặng một lát. Họ không muốn đi mà không dành một phút mặc niệm cuối cùng. Một quãng dài trôi qua rồi Domenico lên tiếng:

“Chúng ta không còn cha mẹ. Chúng ta là những người mang họ Scorta. Cả bốn. Chúng ta đã quyết định như vậy. Chính cái họ ấy từ nay sẽ ủ ấm đời chúng ta. Cầu xin mẹ Câm tha thứ cho chúng ta, chính hôm nay là ngày chúng ta thực sự ra đời.”

Trời rét. Họ còn đứng hồi lâu cúi đầu trước nấm một mới, nép sát vào nhau. Và quả thật cái họ Scorta đủ để sưởi ấm cho họ. Raffaele khóc nhẹ nhàng. Gã đã được ban cho một gia đình. Hai anh em trai và một em gái, gã sẵn sàng hi sinh đời mình vì họ. Từ nay trở đi, phải, gã là thành viên thứ tư của gia đình Scorta, gã thề vậy trước mộ bà Câm. Gã sẽ mang họ đó. Raffaele Scorta. Và sự khinh bỉ của dân làng Montepuccio sẽ chỉ khiến gã mỉm cười. Raffaele Scorta, để chiến đấu với cả thể xác lẫn tâm hồn bên cạnh những người gã yêu thương mà gã đã tưởng mất hút trong thời gian họ đi Mỹ để lại gã một mình ở Montepuccio, cô đơn như một thằng điên. Raffaele Scorta. Phải. Gã thề sẽ tỏ ra xứng đáng với cái họ mới này.

Don Salvatore, con đến để kể cha nghe về chuyến đi New York của bọn con đây. Và nếu không phải là ban đêm thì con chắc sẽ không dám kể. Nhưng bóng tối bao quanh chúng ta, cha từ tốn hút thuốc và con phải hoàn thành nhiệm vụ của con.

Sau đám tang cha chúng con. don Giorgio cho gọi chúng con đến để trình bày kế hoạch của cha. Cha đã tìm được một ngôi nhà nhỏ trong làng, ở đó mẹ chúng con, bà Câm, có thể sống bần hàn mà thanh bạch. Bà sẽ dọn đến đó ngay khi nào có thể. Ngược lại, đối với bọn con thì phải tìm một giải pháp khác. Cuộc sống ở đây, ở Montepuccio, không dành chút gì cho bọn con. Bọn con sẽ phải kéo lê kiếp nghèo đói trong những ngõ ngách của làng với nỗi phẫn uất của những kẻ bị số phận giáng truất khỏi ngôi vị của mình. Chẳng có gì tốt đẹp nảy sinh từ tình cảm ấy. Don Giorgio không muốn bọn con phải chịu một cuộc sống bất hạnh và dơ dáy. Cha đã nghĩ đến một phương án tốt hơn. Cha đã xoay xở kiếm được ba chiếc vé trên một con tàu biển qua lại giữa napoli và New York. Tiền vé do nhà thờ trả. Bọn con sẽ đi đến cái vùng đất ở đó những người nghèo xây cất những ngôi nhà cao hơn trời cao, ở đó vận hội đôi khi làm đầy túi những kẻ khố rách áo ôm.

Bọn con lập tức đồng ý. Con nhớ là ngay tối hôm đó, những hình ảnh hoang đường về những thành phố tưởng tượng đã xoay lộn trong đầu con và con không ngớt nhắc đi nhắc lại như một câu kinh cái địa danh làm mắt con long lanh: New York… New York…

Lúc chúng con rời Montepuccio để đi Napoli, cùng với don Giorgio (cha muốn tháp tùng bọn con đến tận bến tàu), con có cảm giác như đất gầm gừ dưới chân chúng con, như thể mẹ đất làu bàu mắng những đứa con táo tợn dám bỏ lại mẹ. Chúng con rời vùng Gargano, xuống vùng đồng bằng Foggia rộng và buồn, chúng con đã đi suốt chiều ngang nước Italia cho tới tận Napoli. Chúng con đã mở to mắt nhìn cái mê cung toàn những la thét, nhớp bẩn và nóng nực ấy. Thành phố sực nức mùi lán trại và cá ươn. Các ngõ của khu Spaccanapoli đầy trẻ con bụng õng, răng sún.

Don Giorgio đưa chúng con đến tận cảng và chúng con xuống một trong những con tàu được đóng để đưa những kẻ sắp chết đói từ điểm này sang điểm khác của địa cầu…Chúng con kiếm chỗ trên boong giữa những người cùng cảnh ngộ. Những kẻ bần hàn của Châu Âu với con mắt đói ăn. Cả gia đình hay đơn lẻ từng đứa bé. Như tất cả những người khác, bọn con nắm chặt tay nhau để khỏi lạc giữa đám đông. Như tất cả những người khác, đêm đầu tiên bọn con không sao ngủ được, chỉ sợ một bàn tay độc ác nào lột mất tấm chăn mà bọn con đắp chung. Như tất cả những người khác, bọn con đã khóc khi con tàu lớn rời vịnh Napoli. Cuộc đời bắt đầu đây,” Domenico lúc đó đã thì thầm vậy. Nước Italia biến khỏi tầm mắt. Như tất cả những người khác. Bọn con hướng về châu Mỹ, mong ngóng cái ngày thấy bờ biển hiện ra, hi vọng trong những giấc mơ kỳ lạ rằng, ở nơi đó, mọi thứ đều khác, màu, mùi, luật pháp, con người. Tất thảy. To hơn. Êm đềm hơn. Trong cuộc hành trình xuyên biển, bọn con bám vào lan can tàu hàng giờ liền, mơ tưởng đến cái châu lục ấy – không biết nó ra thế nào mà ở đó, đến cả bọn người bẩn thỉu như chúng con cũng được hoan nghênh. Ngày nối ngày dài lê thê, nhưng cái đó không quan trọng, vì những giấc mơ của bọn con cần nhiều giờ liền để phát triển trong tâm trí bọn con. Bất kể những ngày dài, bọn con sung sướng để mặc chúng trôi qua bởi chưng thế giới đang bắt đầu.

Cuối cùng, một hôm, chúng con vào vịnh New York. Con tàu lừ lừ tiến về phía hòn đảo nhỏ Ellis Island. Don Salvatore, niềm vui của ngày hôm ấy con sẽ chẳng bao giờ quên. Chúng con nhảy múa, chúng con hò reo. Cả boong tàu náo động như điên. Ai nấy đều muốn trông thấy miền đất mới. Chúng con hoan hô mỗi chiếc tàu đánh cá chúng con vượt qua. Tất cả đều chỉ trỏ những khu chung cư của Mahattan. Chúng con nghiến ngấu bằng mắt từng chi tiết của bờ biển.

Khi rốt cuộc, tàu cập bến, chúng con xuống đất liền trong tiếng ồn ào vui vẻ và nôn nóng. Đám đông tràn đầy sảnh lớn của hòn đảo nhỏ. Cả thế giới ở đây. Bọn con nghe thấy những thứ ngôn ngữ mà thoạt đầu bọn con tưởng tiếng Milano hay tiếng Roma, nhưng sau đó, bọn con phải thừa nhận rằng những gì diễn ra ở đây rộng lớn hơn nhiều. Cả thế giới bao quanh chúng con. Lẽ ra chúng con đã có thể cảm thấy lạc lõng. Chúng con là những kẻ xa lạ. Chúng con không hiểu gì cả. Nhưng, don Salvatore, một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm bọn con. Bọn con tin chắc mình ở đây là đúng chỗ. Nơi đây, giữa những con người lạc lõng này, giữa láo nháo các giọng nói và các thứ âm sắc, bọn con lại thấy như ở nhà mình. Những người xung quanh là anh em của bọn con bởi lớp cáu ghét trên mặt họ. Bởi nỗi sợ làm ruột họ thắt lại hệt như bọn con. Don Giorgio đã có lý. Đây chính là chỗ của bọn con. Trên cái đất nước chẳng giống nước nào khác này. Chúng con đang ở Mỹ và chẳng gì làm chúng con sợ nữa. Từ giờ, cuộc sống của bọn con ở Montepuccio có vẻ như xa vời và xấu xí. Bọn con đang ở Mỹ và đêm nào bọn con cũng mơ những giấc mơ vui vẻ và đói thèm.

Don Salvatore, xin cha đừng để tâm nếu như giọng con vỡ ra và mắt con cụp xuống, con sắp kể cho cha nghe những điều mà không một ai từng biết. Không một ai ngoài những người trong gia đình Scorta. Cha nghe nhé. Đêm rộng mênh mông và con sắp kể tất cả đây.

Khi tới bến, chúng con phấn khởi xuống khỏi tàu. Chúng con vui vẻ và nôn nóng. Phải nhẫn nại chờ thôi. Nhưng điều đó với chúng con chẳng quan trọng gì. Chúng con xếp hàng dài dằng dặc. Chúng con chạy vạy làm những động thái kỳ lạ mà chúng con chẳng hiểu gì cả. Tất cả đều chậm rề rề. Người ta hướng dẫn bọn con đến một quầy rồi lại sang một quầy khác. Bọn con bám sát vào nhau cho khỏi lạc. Hàng bao nhiêu giờ qua đi mà đám đông không hề giảm sút. Tất cả giậm chân tại chỗ. Domenico vẫn đi đầu. Đến một lúc, anh ấy bảo chúng con sắp được bác sỹ khám, phải lè lưỡi ra, thở sâu nhiều lần và đừng sợ cởi cúc áo nếu người ta yêu cầu. Phải tuân thủ tất cả những điều đó nhưng chuyện ấy chẳng mấy quan trọng, bọn con sẵn sàng chờ cả ngày nếu cần. Cái đất nước ấy đây rồi. Ngay trong tầm tay.

Khi con tớ trước mặt thầy thuốc, ông ta ra hiệu cho con dừng lại. Ông ta ra hiệu cho con dừng lại. Ông ta xem xét mắt con rồi, chẳng nói chẳng rằng, lấy phấn đánh dấu vào bàn tay con. Con định hỏi tại sao nhưng người ta ra hiệu cho con đi tiếp sang phòng khác. Một thầy thuốc khác xem mạch cho con. Lâu hơn. Đặt mấy câu hỏi nhưng con không hiểu nên không biết trả lời ra sao. Hồi ấy, con còn bé, don Salvatore, phải, một con bé con, và đầu gối con run lên trước những người lạ mặt ấy, họ cúi xuống xem xét con như một con vật trong bầy gia súc vậy. Một lúc sau, các anh con mới tới kịp con. Các anh con phải đấu tranh mới được để cho qua.

Phải đến lúc có một thông dịch viên tới, chúng con mới hiểu ra vấn đề. Con bị nhiễm dịch. Quả thật, con đã ốm mấy ngày khi ở trên tàu. Sốt, ỉa chảy, mắt đỏ ngầu, nhưng con nghĩ rồi sẽ qua đi thôi. Con là một bé gái đi New York và con tin là không một chứng bệnh nào có thể quật ngã con. Người kia nói hoài nói hủy, con chỉ hiểu mỗi một điều là đối với con. chuyến đi đã kết thúc ở đây. Đất như sụt dưới chân con. Don Salvatore, con đã bị từ chối. Tất cả thế là hết. Con xấu hổ, cúi gằm mặt để khỏi giao mắt với các anh con. Hai anh lặng thinh đứng cạnh con. Con ngắm hàng dài người di trú tiếp tục qua trước mặt chúng con, và con chỉ nghĩ đến một điều: “Tất cả đều qua, cả cái bà ốm yếu kia và cả cái ông già nọ chắc chỉ sống nổi hai tháng nữa, tất cả những người này đều trót lọt, thế mà mình đây, tại sao mình lại không?”

Người thông dịch lại nói: “Em sẽ trở về…đi tàu miễn phí…không có vấn đề gì…miễn phí…” ông ta chỉ có mỗi chữ ấy ở miệng. Chính lúc đó Giuseppe đã đề xuất là Domenico cứ tiếp tục một mình. “Mimi, anh cứ qua đi. Em ở lại với Miuccia.”

Con chẳng nói gì. Cuộc đời bọn con định đoạt ở đây. Trong cuộc bàn cãi giữa hai gian phòng này. Cuộc đời trong những năm sắp tới của bọn con, vậy mà con chẳng nói gì cả. Con không thể. Con chẳng còn sức nào. Con xấu hổ. Chỉ còn biết xấu hổ thôi. Con chỉ có thể nghe và trông cậy ở các anh con. Cuộc đời của ba chúng con được, mất là ở đây. Do lỗi của con. Tất cả phụ thuộc vào điều hai anh quyết định. Giuseppe nhắc lại: “Thế là tốt nhất, Mimi. Anh cứ qua đi, anh sẽ xoay xở một mình được. Còn em ở lại với Miuccia. Chúng em sẽ quay về nước và sẽ liệu cách thử một chuyến đi nữa.”

Một thời gian bất tận trôi qua. Xin cha hãy tin con, don Salvatore, chỉ trong một phút ấy, con đã già đi mấy tuổi. Tất cả treo lơ lửng. Con chờ đợi. Có lẽ trong thời gian đó, định mệnh cân nhắc ba cuộc đời của anh em con để lựa chọn phương án ưng ý nhất. Thế rồi Domenico lên tiếng và anh nói: “Không. Chúng mình cùng đến thì cùng về.” Giuseppe còn muốn gặng thêm, nhưng Dominico cắt đứt. Anh đã quyết định. Anh nghiến chặt hai hàm răng và chém tay một cái, cử chỉ ấy con không bao giờ quên: “Hoặc cả ba, hoặc không ai cả. Họ không muốn chúng ta. Mặc xác họ.”

[3] Tiếng Italia: đụ đít mày.