Chương THỨ NHẤT VĂN HỌC LÀ MỘT BỘ PHẬN THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC CỦA XÃ HỘI
Theo Marx, bất cứ một xã hội nào cũng có một hạ tầng cơ sở – cơ cấu kinh tế – gồm:
« T oàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của sức sản xuất vật chất» và « trên cơ cấu kinh tế ấy, một thượng tầng kiến trúc pháp lý và chính trị cùng những hình thái ý thức xã hội nhất định tương đương với nó ».
Engels cũng nói:
«Cơ cấu kinh tế của xã hội ở mỗi thời đại nhất định tạo nên cơ sở thực tế cho phép chúng ta giải thích, xét đến cùng, toàn bộ thượng tầng kiến trúc gồm các cơ quan pháp lý và chính trị cùng với những quan điểm tôn giáo, triết học , v.v… của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định ».
Lénine gọi những quan hệ kinh tế là quan hệ vật chất và những quan hệ ở thượng tầng kiến trúc là quan hệ tư tưởng. Lénine viết:
« Các quan hệ xã hội gồm có quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư tưởng chỉ là thượng tầng kiến trúc nằm trên quan hệ vật chất, mà mối quan hệ vật chất là hình thành ngoài ý chí và ý thức conngười ».
Vậy thượng tầng kiến trúc gồm có những gì?
«Nó bao gồm các quan hệ chính trị, pháp trị, tôn giáo, đạo đức, đẻ ra từ chế độ kinh tế. Trước khi xuất hiện, các quan hệ này đều thông qua ý thức con người. Cho nên Lénine gọi các quan hệ đó là quan hệ tư tưởng, khác với quan hệ kinh tế, vật chất. Do đó, tất cả tư tưởng của xã hội, tư tưởng triết học, chính trị học, pháp lý, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và các cơ quan phù hợp với các tư tưởng đó: nhà nước, pháp quyền, các tổ chức chính trị, cơ quan văn hóa, giáo dục , v.v… (trường học, cơ quan khoa học, nghệ thuật, báo chí , v.v…) cũng thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã hội». 1
Văn học là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc «nằm trên quan hệ vật chất», bị hạ tầng cơ sở quyết định «xét đến cùng». Không thể nào giải thích được văn học nếu không đặt nó vào thượng tầng kiến trúc của xã hội «đẻ ra từ chế độ kinh tế». Cũng như các bộ môn nghệ thuật khác, văn học thuộc về phạm trù hình thái ý thức xã hội. Mà, như Marx đã nói: « K hông phải ý thức quyết định sinh tồn; chính sinh tồn quyết định ý thức» . Đây là ý tưởng trụ cột của học thuyết duy vật mác xít, của duy vật lịch sử.
Về điểm lý luận cơ bản này, Marx và Engels đã viết:
« Sự thực hiển nhiên là: những cá nhân nhất định sản xuất theo một phương thức nhất định có những quan hệ xã hội và chính trị nhất định với nhau. Ở mỗi trường hợp riêng lẻ, sự quan sát kinh nghiệm phải vạch ra, một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, không được suy lý và huyền hoặc, cái giây liên lạc nối cơ cấu xã hội và chính trị vào sự sản xuất. Cơ cấu xã hội và Nhà nước bao giờ cũng là kết quả của quá trình sinh hoạt của những cá nhân nhất định, nhưng không phải những cá nhân tự hình dung mình thế này hay thế khác trước mắt mình hay trong mắt người khác, mà là những cá nhân nguyên hình trong thực tại, nghĩa là những cá nhân thực tế hoạt động là sản xuất, vậy là những cá nhân đang tác động đến những cơ sở vật chất nhất định trong những điều kiện và giới hạn vật chất nhất định không thuộc ý chí chủ quan của họ.
« Sự sản xuất ra những ý tưởng, những biểu tượng và ý thức, trước hết, bị gắn liền trực tiếp và mật thiết với sự hoạt động vật chất và sự giao dịch vật chất của những con người. Nó là ngôn ngữ của đời sống thực tế. Những biểu tượng, tư tưởng, sự giao dịch về tinh thần giữa người với người, rõ ràng là xuất hiện như trực tiếp tiết ra ở đời sống vật chất của họ… Chính những con người sản xuất ra những biểu tượng, ý tưởng , v.v… của mình; nhưng đó là những con người thực, hoạt động, bị quy định bởi trình độ phát triển nhất định của sức sản xuất và của những liên hệ tương đương, kể cả những hình thức rộng nhất có thể đạt tới của sức sản xuất và của những liên hệ ấy…
« …Ngược lại với triết học Đức đi từ trên trời xuống đất, chúng ta phải đi từ dưới đất lên trời. Nói một cách khác, không phải khởi điểm từ chỗ những con người phát ngôn, tưởng tượng, tự hình dung mình, hoặc từ chỗ những con người hiện ra qua ngôn từ, qua tư tưởng, qua trí tưởng tượng của họ hay qua sự hình dung của người khác, để tìm đến những con người bằng xương bằng thịt; không; phải khởi điểm từ những con người hoạt động thực tế, từ quá trình sinh hoạt thực tế của họ; rồi từ đấy mới hình dung được sự phát triển của những phản ánh và những âm hưởng ý thức của quá trình sống ấy. Ngay cả đến những hư ảnh nẩy ra trong đầu óc con người cũng là những sản phẩm cao thượng hóa kết quả tất yếu của quá trình sinh hoạt thực tế của họ, quá trình này dựa trên những cơ sở vật chất mà chúng ta có thể nhận thức được bằng cả những ý thức hệ khác cùng những hình thái ý thức tương đương… không còn có vẻ gì là tự lập cả. Những cái ấy không có lịch sử, không có phát triển; trái lại, chỉ có những con người trong khi phát triển sự sản xuất vật chất và những liên hệ vật chất của mình đã biến cái thực tại ấy, đồng thời biến cải cả tư tưởng và và những sản phẩm của tư tưởng mình. Không phải ý thức quyết định sinh tồn, chính sinh tồn quyết định ý thức» . 2
Bởi thượng tầng kiến trúc bị hạ tầng cơ sở quyết định chặt chẽ như thế, cho nên:
« K hi hạ tầng kinh tế biến đổi thì tất cả thượng tầng kiến trúc, hoặc mau hoặc chậm, cũng bị đảo lộn theo. Khi ta nghiên cứu sự biến đổi này, phải luôn luôn phân biệt tình trạng đảo lộn vật chất của những điều kiện sản xuất kinh tế – tình trạng này, ta có thể nhận định một cách thật khoa học, thật chính xác – và những hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, những hình thái ý thức hệ qua đó con người thức nhận cuộc xung đột ấy và đẩy nó đến điểm tận cùng. Cũng như không ai phán đoán một người bằng vào ý kiến của người ấy về mình, không ai lại phán đoán một thời đại đảo lộn như vậy bằng vào ý thức của thời đại ấy về mình; mà phải cắt nghĩa ý thức này bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột giữa sức sản xuất xã hội và quan hệ sản xuất ». 3
Lý luận mác xít trên đây yêu cầu các nhà nghiên cứu văn học sử phải tìm hiểu hoàn cảnh xã hội cụ thể trong đó những sự kiện văn học xuất hiện và biến hóa. Không xét những sự kiện này tương quan với cơ cấu kinh tế của xã hội và bị cơ cấu ấy quyết định thì không thể giải thích được đúng đắn mọi quá trình văn học.
*
Tuy vậy, mối quan hệ giữa cơ cấu kinh tế và đời sống văn học của một xã hội không phải chỉ đơn giản như đã trình bầy ở trên. Muốn hiểu mối quan hệ ấy đúng với tinh thần của chủ nghĩa Marx-Lénine, cần phải đặc biệt chú ý đến mấy điểm dưới đây.
I . KINH TẾ KHÔNG TỰ ĐỘNG VÀ TRỰC TIẾP ĐẺ RA THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚCNhà học giả xô viết M. KAMMARI đã viết:
« Sự phát triển của sự sản xuất vật chất quyết định sự phát triển của tất cả các quan hệ xã hội, kể cả các quan hệ thượng tầng kiến trúc; nhưng điểm đó chỉ đúng nếu chúng ta xét đến cùng. Những sự thay đổi trong nền sản xuất vật chất không được phản ánh trực tiếp vào trong sự phát triển của Nhà nước, pháp quyền, tư tưởng mà là phản ánh thông qua sự thay đổi của tình hình kinh tế, của sinh hoạt xã hội của người ta. Và cả kinh tế nữa không phải bao giờ cũng quyết định thẳng và trực tiếp sự phát triển của tất cả các yếu tố thượng tầng kiến trúc. Trong xã hội có giai cấp, kinh tế tác động đến sự phát triển của tư tưởng thì phần nhiều thông qua chính trị, thông qua đấu tranh giai cấp. Ví dụ như không thể hiểu nội dung tư tưởng của các học thuyết duy vật và vô thần Pháp thế kỷ XVIII bằng cách chỉ dựa vào sự phân tích nền sản xuất và kinh tế nước Pháp thời bấy giờ mà không phân tích tính tương quan giai cấp và đấu tranh giai cấp, vai trò của nhà nước phong kiến, của nhà thờ, của tôn giáo, của khoa học, của văn học, nghệ thuật, đạo đức và pháp quyền trong cuộc đấu tranh đó.
« Kinh tế không «tự động» đẻ ra thượng tầng kiến trúc, vì thượng tầng kiến trúc là do sự hoạt động của người ta, do đấu tranh giai cấp tạo ra, nhưng trên cơ sở của những quan hệ kinh tế nhất định. Kinh tế chỉ quy định phương hướng phát triển có quy luật của thượng tầng kiến trúc chính trị và pháp quyền cùng các hình thái ý thức xã hội trong thời đại đó» . (Tài liệu đã dẫn)
Tóm lại, trong các xã hội có giai cấp thì kinh tế quyết định tư tưởng thông qua đấu tranh giai cấp và nhiều nhân tố môi giới khác . Vấn đề này đã được nhà lý luận mác xít Plékhanov bàn đến dứt khoát từ đầu thế kỷ XIX trong cuốn «Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Marx» (1908). Để công kích những người hiểu chủ nghĩa Marx một cách máy móc, phi biện chứng, Plékhanov đã nói đến mối quan hệ giữa chế độ kinh tế và nghệ thuật như sau:
« Trong xã hội nguyên thủy không phân chia giai cấp thì sự hoạt động sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến thế giới quan và khiến thẩm mỹ của con người. Nghệ thuật trang trí mượn tiết liệu ở ngay kỹ thuật, và nghệ thuật khiêu vũ – môn nghệ thuật quan trọng nhất trong xã hội ấy – thường thường chỉ là biểu tượng mô phỏng một quá trình sản xuất. Điều này, chúng ta thấy rất rõ, đặc biệt ở những bộ tộc săn bắn hiện đang ở một trình độ phát triển thấp nhất mà ta có thể nghiên cứ u được.
« …Nhưng ở một xã hội có giai cấp, ảnh hưởng trực tiếp của sự hoạt động sản xuất đối với ý thức hệ đã không còn rõ rệt nữa. Thí dụ: một điệu nhảy múa nào đó của người đàn bà Úc châu là sự tái diễn một công tác hái rễ cây của họ; nhưng tất cả những điệu khiêu vũ của một phụ nữ trang nhã Pháp thế kỷ XVIII không thể nào lại là sự tái diễn bằng biểu tượng một công tác sản xuất nào của họ, vì một lẽ rất dễ hiểu là họ không hề tham gia sản xuất và chỉ ưa miệt mài trong «khoa ái tình đầm ấm». Muốn hiểu điệu khiêu vũ của người đàn bà thổ dân Úc châu, chỉ cần biết vai trò của công tác hái rễ cây rừng trong một bộ tộc Úc châu đối với đời sống của dân Úc châu là đủ. Nhưng, nếu muốn hiểu, thí dụ điệu vũ nhịp ba chẳng hạn, thì tìm hiểu tình hình kinh tế của nước Pháp thế kỷ XVIII không đủ. Ở trường hợp này, chúng ta gặp một điệu vũ biểu thị tâm lý của một giai cấp không sản xuất. Đại bộ phận những thời tục và ước lệ của đám người gọi là thượng lưu xã hội, đều phải giải thích bằng thứ tâm lý ấy. Ở đây, nhân tố kinh tế nhường chân cho nhân tố tâm lý. Nhưng không được quên rằng sự xuất hiện của ngay cái giai cấp không sản xuất đó cũng lại là sản phẩm của sự phát triển kinh tế trong xã hội ấy. Như vậy nghĩa là nhân tố kinh tế vẫn hoàn toàn giữ vai trò quyết định ngay cả khi nó nhường chỗ cho những nhân tố khác. Điều này lại càng làm nổi bật giá trị quyết định của nhân tố kinh tế, vì như thế lại càng thấy rõ ràng những nhân tố khác sở dĩ có ảnh hưởng được và ảnh hưởng trong giới hạn nào là do nó quyết địnhcả». 4
Ở một tập lý luận khác, Plékhanov lại nhấn mạnh vào sự cần thiết tìm hiểu đấu tranh giai cấp của một xã hội khi nghiên cứu lịch sử văn học. Ông viết:
« Người ta thường nói: nghệ thuật hoặc văn học là phản ánh của đời sống xã hội. Nói như vậy tuy đúng nhưng vẫn còn mơ hồ lắm. Muốn biết nghệ thuật phản ánh đời sống xã hội bằng cách nào thì ít nhất cũng phải hiểu then máy của đời sống này đã. Trong các xã hội văn minh thì một trong những động lực quan trọng của then máy ấy là đấu tranh giai cấp. Bởi vậy, chỉ khi nào đã nhận thức được cuộc đấu tranh giai cấp và khi nào đã nghiên cứu mọi hình thức tiến triển, mọi sắc thái phức tạp của cuộc đấu tranh ấy thì mới có thể giải thích được gọi là chu đáo một chút sự tiến triển tinh thần của một xã hội. Sự tiến triển này chỉ là phản ánh của lịch sử các giai cấp và lịch sử đấu tranh giai cấp trong xã hội đó ».
Trong đoạn văn này, nên chú ý đến chỗ Plékhanov đòi hỏi nhà văn học sử phải nghiên cứu kỹ lưỡng «mọi hình thức tiến triển, mọi sắc thái phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp» ; có thế mới giải thích được lịch sử tinh thần của một xã hội. Đặc biệt, Plékhanov nhấn mạnh vào ảnh hưởng của cuộc đấu tranh đối với tâm lý những giai cấp tham gia đấu tranh:
« Trong một xứ nhất định, ở một thời đại nhất định, cuộc đấu tranh giai cấp càng gay gắt, cuộc ảnh hưởng của nó đến những giai cấp tham gia đấu tranh càng mạnh. Người nào muốn nghiên cứu lịch sử các ý thức hệ của một xã hội giai cấp phải tập trung sự chú ý vào ảnh hưởng ấy. Nếu không, sẽ không hiểu gì cả. Anh hãy thử lấy tình hình kinh tế để cắt nghĩa trực tiếp sự xuất hiện của họa phái David ở thế kỷ XVIII Pháp, anh sẽ chỉ đi đến một giải thích vô nghĩa, đáng buồn cười và ngớ ngẩn. Nhưng nếu anh xét họa phái ấy như sự phản ánh ý thức hệ của cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra trong lòng xã hội Pháp thời đó , ở giai đoạn sắp bùng nổ cách mạng 1789 thì tức khắc vấn đề hiện ra ở một cục diện hoàn toàn khác ngay. Bao nhiêu đặc tính của hội họa David mà người ta tưởng xa lắc xa lơ với nền kinh tế xã hội và không có liên lạc gì với nền kinh tế này, bỗng trở thành dễ hiểu vô cùng» . (Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Marx)
Vậy không phải là bất kỳ sự kiện văn học sử nào cũng cứ máy móc lấy kinh tế giải thích trực tiếp. Và cũng không phải chỉ chú trọng vào các nhân tố ngọn (tâm lý giai cấp, đấu tranh giai cấp) mà quên tìm đến gốc , là cơ sở kinh tế nó quyết định tất cả, xét đến cùng.
« Chính con người làm ra lịch sử của mình, nhưng trong một hoàn cảnh nhất định quyết định lịch sử ấy và trên cơ sở của những quan hệ thực tiễn đã có sẵn; trong những quan hệ này thì những quan hệ kinh tế, mặc dầu bị những điều kiện chính trị và ý thức hệ ảnh hưởng tới, xét đến cùng, vẫn là những điều kiện quyết định; những quan hệ đó là sợi giây suốt xuyên qua từ đầu đến cuối quá trình khiến ta có thể hiểu rõ được toàn bộ ». (Engels: Thư gửi cho Heinz Starkenburg ngày 25-1-1894).
II . SỰ PHÁT TRIỂN TƯƠNG ĐỐI ĐỘC LẬP CỦA CÁC NHÂN TỐ THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚCTrong cuốn Ý thức hệ Đức, Marx và Engels khẳng định rằng:
« Đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và tất cả những ý thức hệ khác cùng những hình thái ý thức tương đương không còn có vẻ gì là tự lập cả. Những cái ấy không có lịch sử, không có phát triển; trái lại, chỉ có những con người, trong lúc phát triển sự sản xuất vật chất và những liên hệ vật chất của mình, đã biến cải thực tế ấy của riêng mình, đồng thời, biến cải cả tư tưởng và những sản phẩm của tư tưởng mình ».
Chủ trương như vậy phải chăng là phủ định sự phát triển tương đối độc lập của những yếu tố thượng tầng kiến trúc? Phải chăng là không thừa nhận văn học, triết học, tôn giáo, pháp lý, v.v… có lịch sử riêng? Không phải. Quan điểm của Marx và Engels căn bản là đúng.
Quyển Ý thức hệ Đức, Marx và Engels khởi thảo năm 1845 là để bác những quan điểm triết học duy tâm Đức đang thống trị ở đương thời. Ngay ở đoạn văn có câu trích ra trên đây, Marx và Engels đã viết:
« Ngược lại với triết học Đức đi t ừ trên trời xuống đất, chúng ta phải đi từ dưới đất lên trời ».
Sự suy luận, ở đây, có tính cách đối chiến rõ rệt. Nghịch lại với triết học Đức cho rằng: Ý tưởng là bản chất của vũ trụ; Ý tưởng tồn tại và phát triển hoàn toàn độc lập không bị quy định bởi một số cơ sở vật chất nào, Marx và Engels thuyết minh rằng: ý tưởng và mọi hình thái của nó đều phát sinh từ một thực tại duy nhất, là:
« N hững con người có thực… hành động và sản xuất một cách vật chất… tác động vào những cơ sở vật chất và trong những điều kiện cùng giới hạn nhất định không thuộc quyền ý chí của họ» .
Ở nhiều nơi và nhiều lần, Marx và Engels đặc biệt nhấn mạnh vào quan điểm duy vật ấy. Như trong tập bút chiến với Proudhon, nhan đề «Sự cùng khốn của triết học» (1847), Marx viết:
« Chính những con người kiến lập ra những quan hệ xã hội phù hợp với sự sản xuất vật chất của họ cũng là những con người đã sản xuất ra những nguyên lý, những ý tưởng, những phạm trù phù hợp với những quan hệ xã hội của họ » .
Trong một bức thư viết cho Paul Annenkov ngày 28-12-1848, Marx phô diễn ý kiến mình một cách cực đoan hơn nữa:
«Xã hội là gì, bất kể ở hình thái nào? Đó là sản phẩm của sự hoạt động tương hỗ của những con người. Con người có được tự do chọn hình thái xã hội này, hay hình thái xã hội khác không? Tuyệt nhiên không. Anh hãy để ra một tình trạng phát triển sức sản xuất nào đó của con người là anh sẽ có một hình thức giao dịch và tiêu thụ nào đó. Anh hãy đề ra một trình độ phát triển của sản xuất, giao dịch nào đó, anh sẽ có một cấu tạo xã hội, một hình thái tổ chức gia đình, những đẳng cấp và giai cấp, tóm lại, một xã hội dân sự tương đương. Anh hãy để ra một xã hội dân sự nào đó, anh sẽ có một Nhà nước chính trị: nhà nước này chỉ là biểu thị quan dạng của xã hội dân sự…
« …Những quan hệ vật chất của con người họp thành cơ sở tất cả những quan hệ của họ. Những quan hệ vật chất ấy chỉ là những hình thức tất yếu trong đó họ thể hiện hoạt động vật chất và cá nhân của họ».
Cuộc đấu tranh triết học chống duy tâm luận Đức, Marx và Engels tiến hành rất quyết liệt và bền bỉ, mục đích làm thắng quan điểm duy vật của mình về sự giải thích xã hội. Đứng về phương diện này mà xét thì – đúng như Marx, Engels đã chủ trương – lịch sử của toàn bộ các yếu tố thượng tầng kiến trúc chỉ là lịch sử của những con người sản xuất vật chất. Không thể quan niệm được một lịch sử của thượng tầng kiến trúc tách ra khỏi lịch sử đời sống của những con người cụ thể lao động trong những điều kiện xã hội nhất định.
Tuy nhiên trên cơ sở của lý thuyết chủ yếu đó, Marx và Engels không bao giờ quên thuyết minh rằng: mặc dầu tiết ra từ cơ cấu kinh tế, mỗi yếu tố thượng tầng kiến trúc vẫn có một lịch sử phát triển riêng, tương đối độc lập. Bàn đến quan hệ giữa xã hội và nghệ thuật, Marx đã nhận thấy:
« N hững thời kỳ thịnh vượng nhất định của nghệ thuật không hề tương quan với quá trình phát triển chung của xã hội và, do đó, của cơ sở vật chất là cái bộ cốt của xã hội ».
Trong một bức thư gửi cho Franz Mehring ngày 14-7-1893, Engels nói rõ hơn:
« Ý thức hệ lịch sử (lịch sử, ở đây, là một tiếng chung bao gồm: chính trị, pháp lý, triết học, tôn giáo – tóm lại tất cả những lĩnh vực thuộc về xã hội chứ không phải thuộc về tự nhiên mà thôi) ý thức hệ lịch sử, ở mỗi địa hạt khoa học, có một chất liệu hình thành một cách độc lập trong tư tưởng những thế hệ trước và phát triển độc lập theo một lề lối riêng ở đầu não của những thế hệ kế tục ».
Trong cuốn Duy vật biện chứng, Engels lại nói:
« Mỗi ý thức hệ, khi đã được cấu thành, sẽ phát triển trên cơ sở một chủ đề biểu tượng có sẵn và làm phong phú thêm chủ đề ấy. Nếu không, nó sẽ không phải là một ý thức hệ nghĩa là sự truy cầu những ý tưởng được coi là những thực thể có một đời sống độc lập, phát triển một cách độc lập và bị những quy luật riêng chi phối ».
Nhưng chúng ta cũng không thể vì chú trọng đến sự phát triển độc lập của những yếu tố thượng tầng kiến trúc mà quên rằng, xét đến cùng, toàn bộ quá trình của mỗi yếu tố ấy (văn học, triết học, tôn giáo…) đều thuộc phạm vi chi phối và quyết định của hạ tầng cơ sở xã hội. Đó là một sự độc lập tương đối:
« Kinh tế… quy định phương hướng phát triển có quy luật của thượng tầng kiến trúc chính trị và pháp quyền cùng các hình thái ý thức xã hội trong một thời đại» . (Kammari: tài liệu đã dẫn)
Quan điểm mác xít trên đây, trước hết, có một ý nghĩa rất quan trọng đối với phương pháp phân chia các thời kỳ lịch sử văn học. Phê phán các nhà văn học sử đã máy móc gắn khít lịch sử văn học xô viết vào lịch sử Đảng cộng sản và lịch sử xã hội xô viết, các ông Metchenko, Démentiev và Lomidzé đã viết:
«Quá trình văn học, mặc dầu có những liên quan nào nối buộc nó vào lịch sử Đảng và lịch sử xã hội xô viết, vẫn không vì thế mà không có những đặc tính riêng. Biên giới giữa những thời kỳ văn học sử có thể, tới một mức độ nào, không phù hợp với trật tự năm tháng của giai đoạn này hay giai đoạn khác của lịch sử Đảng và cả của xã hội xô viết nữa. Sự chia thời kỳ của lịch sử văn học xô viết phải căn cứ vào một công trình phân tích khách quan hơn và đa diện hơn những quá trình và những sự kiện… và, đây mới là điều cốt yếu, phải xuất phát từ sự phát triển của bản thân văn học.
« …Sự định ra những thời kỳ văn học sử xô viết tất yếu phải dựa vào lịch sử xã hội Xô viết, nhưng đồng thời phải lập căn cứ trên những đặc điểm của bản thân quá trình văn học. Theo quan điểm này, còn cần thiết chú ý đến những biến đổi chính yếu xẩy ra trong nội dung văn học cũng như chú ý đến sự phát triển của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa». 5
Sự phát triển tương đối độc lập của thượng tầng kiến trúc còn dẫn đến một nhận định quan trọng khác mà người nghiên cứu văn học sử không thể bỏ qua. Đó là tình trạng:
« K inh tế phát triển thì luôn luôn phá bỏ sự phù hợp giữa từng yếu tố riêng lẻ của thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở» (Kammari).
Về điểm này, Kammari còn viết:
«Sự phát triển tương đối độc lập của nhà nước, pháp quyền, tư tưởng… biểu hiện ở chỗ: trong những điều kiện nhất định, nhà nước, pháp quyền, tư tưởng có thể trở thành và thực tế trở thành mâu thuẫn với cơ sở kinh tế của nó và không phải là tự động phù hợp với hạ tầng cơ sở ấy. Không thể hiểu một cách siêu hình sự phù hợp giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở; không thể cho đó là một sự phù hợp tuyệt đối bất biến, không có mâu thuẫn. Sự phù hợp đó có thể thay đổi, có những mâu thuẫn nội tại không thể tránh được trong một cơ thể sống đang phát triển, phức tạp, như xã hội. Tư tưởng và quan hệ tư tưởng phản ánh chế độ kinh tế, và theo ý nghĩa ấy, thì phù hợp với chế độ đó, nhưng đấy không phải là phản ánh tiêu cực, không phải là phù hợp tự động hình thành mà là một quá trình đầ y mâu thuẫn biểu hiện cuộc đấu tranh giữa các lực lượng và khuynh hướng xã hội» . (Tài liệu đã dẫn)
Marx cũng đã nói:
« Những sức sản xuất thường xuyên tăng tiến; những quan hệ xã hội thường xuyên bị phá hủy; những ý tưởng thường xuyên hình thành… » (Sự cùng khốn của triết học)
Có nắm được quan điểm này, nhà văn học sử Việt-nam mới có thể cắt nghĩa được, chẳng hạn, tại sao trên một cơ cấu kinh tế căn bản là phong kiến, Phật giáo thịnh trị ở xã hội nước ta trong những thế kỷ XI, XII, XIII đến thế kỷ XIV thì lại nhường quyền cho Nho giáo, lại bị Trương Hán Siêu, Lê Quát công kích, và cuối cùng bị Hồ Quý Ly thanh toán mất cơ sở vật chất và uy quyền chính trị; và tới thế kỷ XVI nó lại có thể bị Nho gia thù ghét đến phải thốt ra những lời mạt sát đầy phẫn nộ như sau:
« Than ôi! Cái thuyết nhà Phật thật là vô ích mà có hại quá lắm. Nghe lời nói năng thì từ bi quảng đại, tìm sự báo ứng thì bắt gió mơ hồ. Nhân dân kính tin đến nỗi có người phá sản để cúng cho nhà chùa. Nay xem như cái dư nghiệp ở trong một ngôi chùa nát mà còn gớm ghê như thế, huống ngày thường cúng bái sầm uất phỏng còn tai hại đến đâu… Ước sao có hàng trăm ông Hàn x ương Lê ra đời, xúm lại mà đánh, đốt hết sách và chiếm hết nhà mới có thể được» . 6
Hoặc, tại sao, cuối thế kỷ XVII và suốt thế kỷ XVIII, lúc những quan hệ xã hội bị biến động vì sự phát triển kinh tế hàng hóa đã manh nha tính cách tư bản chủ nghĩa (mặc dầu cơ sở kinh tế của xã hội vẫn là cơ sở phong kiến), trên lãnh vực tư tưởng và văn học Việt-nam lại nẩy ra một thái độ luân lý có mầu sắc cá nhân chủ nghĩa trái nghịch, ở nhiều điểm, với nhân sinh quan Nho giáo là giường cột tinh thần của xã hội phong kiến trong những thế kỷ XIV, XV, XVI? (Khi bàn đến những vấn đề cụ thể này, tôi sẽ nói kỹ).
Cuối cùng, hiện tượng «phát triển tương đối độc lập của thượng tầng kiến trúc» bắt chúng ta phải chú ý đến tính kế thừa của sự phát triển văn học, sự tồn tại lâu dài của thượng tầng kiến trúc (kể riêng từng yếu tố) trải qua hạ tầng cơ sở đã đẻ ra nó và tiếp tục phát triển trên hạ tầng cơ sở mới . Như thế mới cắt nghĩa được những lưu phái hoặc khuynh hướng văn học, nghệ thuật, đẻ ra ở một hạ tầng cơ sở khác mà còn tồn tại được trên một hạ tầng cơ sở mới. Như thế mới cắt nghĩa được vì lẽ gì mà hình thức kinh kịch, một sản phẩm của xã hội phong kiến Trung-quốc, ngày nay, lại vẫn được sử dụng có kết quả tốt trên một hạ tầng cơ sở hoàn toàn mới; vì lẽ gì mà những điệu hát cổ của ta (quan họ, trống quân, cò lả…) và hình thức sân khấu cũ (chèo tuồng) hiện giờ và có lẽ còn lâu nữa vẫn tồn tại.
«Khi xét đến lịch sử của từng yếu tố riêng lẻ trong thượng tầng kiến trúc, như: nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, triết học, tôn giáo… thì chúng ta thấy rằng mỗi yếu tố ấy có lịch sử tương đối độc lập của nó, có tính kế thừa trong sự phát triển, mặc dù trong ấy cũng có những sự thay đổi căn bản, những cuộc cách mạng và cải cách diễn ra lúc mà hình thái xã hội này thay thế hình thái xã hội khác» . (Kammari)
Đặc biệt, những kiệt tác văn học và nghệ thuật vẫn giữ được giá trị cả những khi các điều kiện kinh tế và xã hội đẻ ra nó không còn nữa… Tại sao kiệt tác văn học duy trì được giá trị lâu bền của nó trong lúc mà chung quanh nó mọi sự vật đều đã thay đổi, mà khí hậu tinh thần, chính trị, xã hội, kinh tế đã hoàn toàn biến dịch, mà những điều kiện làm cơ sở cho sự thành công của nó lúc ban đầu đã mất hẳn? Marx đã đặt ra vấn đề này, vấn đề mà các lý thuyết gia mỹ học duy tâm không biết đến hoặc lẩn tránh bằng cách dựa vào những phạm trù muôn thuở – Tinh thần thuần túy, sự vô cùng siêu hình, cái Đẹp phi thời gian.
Hy Lạp của thiên thần và anh hùng, Trung cổ của lãnh chúa và nhà thờ đã thuộc hẳn vào dĩ vãng biệt tăm, nhưng Homère và Dante vẫn muôn đời nói với trí tưởng tượng của loài người. Sự xung đột của Antigone xuất hiện trên cơ sở lòng thành kính của cố nhân đối với tang lễ, lòng thành kính này hiện giờ không còn gợi lên trong tâm hồn chúng ta một âm hưởng gì; thế mà vở kịch đó của Sophocle, đã bị tước hết cơ sở lịch sử, vẫn đẹp chói lọi và làm xáo động chúng ta bằng cái hùng vĩ của nó. Những cuộc đấu thương cưỡi ngựa đời trung cổ, những người khổng lồ và những nàng tiên, những kỵ sĩ nghĩa hiệp đã bị ngọn trào lịch sử cuốn đi rồi mà hình bóng Don Quichotte vẫn cứ hiện lên ở chân trời. Còn đâu những sự đấu kiếm rửa thù, còn đâu những chiến trận phá quân giặc cướp Barbarie mà Le Cid vẫn bắt ta xúc động và phấn khởi. Eugème Onéguine, khắc họa phong tục của giai cấp quý tộc thời 1825, hiện nay, ở Liên xô, vẫn gây được lòng ngưỡng mộ của những con người kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, lòng ngưỡng mộ này chứng tỏ Biélinski đã tiên đoán rất đúng khi ông nói:
« Xã hội Nga có thế lớn lên và vượt quá Onéguine, nhưng dù vượt xa đến đâu, nó vẫn không bao giờ hết yêu quý tập thơ ấy, và lòng yêu quý sẽ chan hòa cả lòng biết ơn nữa ».
Phải chăng vì nó nhắc nhở với nhân loại những thời lịch sử mà nhân loại đã vượt qua nên kiệt tác văn học trở thành vĩnh cửu? Phải chăng nó bắt ta phải trân trọng vì nó không tái hiện lần thứ hai nữa? Vì sao và vì ai mà kiệt tác văn học sống mãi mãi?
Trong bản thảo viết dở dang đăng ở đầu quyển Góp phần phê phán kinh tế chính trị học , Marx cũng chỉ giải đáp vấn đề một cách sơ bộ chưa đầy đủ. Tuy vậy, chủ nghĩa Marx đã cung cấp cho chúng ta những yếu tố của một giải đáp mà chúng tôi phác họa dưới đây.
Trải qua những xã hội áp bức, vô nhân đạo, những kiệt tác văn nghệ dĩ vãng đã biểu hiện con người ký thác vào công trình sáng tạo của mình cái giá trị nhân loại cao nhất, phổ biến nhất. Những kiệt tác này nhập thân vào sự phát triển xã hội của nhân loại, tham dự vào những bước tiến tới của nhân loại. Đại đa số các kiệt tác ấy chẳng đã diễn tả lòng ao ước tự vượt mình của con người đó sao?
Nhưng vì sự khái quát nào cũng phải thể hiện thông qua cái cá biệt, thông qua những số liệu cụ thể, những thực tế lịch sử và, xét cho cùng, như thi sĩ Goethe đã nói, chỉ có người nào «đã sống vì thời đại của mình» mới không bị đời sau quên lãng, cho nên những kiệt tác phổ biến nhất thường thường là những tác phẩm tiêu biểu nhất của một thời đại, một dân tộc. Trong những kiệt tác ấy, được nêu lên, một cách sáng chói và sâu sắc, những vấn đề đang rầy vò người đương thời. Đó là phần đóng góp cho mỗi văn hóa dân tộc vào kho tàng văn hóa chung của loài người 7 . Đánh giá một tác phẩm văn học – nhất là một kiệt tác – không thể quên tính phổ biến vĩnh cửu của yếu tố nhân loại ấy.
III . TÍNH CHẤT ĐỐI KHÁNG CỦA THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC TRONG CÁC HÌNH THÁI XÃ HỘI ĐỐI KHÁNGTrong các xã hội đối kháng (xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản) có đấu tranh giai cấp, lại có cả sự xung đột đôi khi gay gắt giữa những bộ phận của cùng một giai cấp, sự xung đột giữa những tầng lớp trung gian với các giai cấp chính yếu thì thượng tầng kiến trúc, trong toàn bộ cũng như ở từng yếu tố riêng lẻ, tất yếu phải phản ánh những mâu thuẫn nội tại của hạ tầng cơ sở và do đó tất yếu phải có tính chất đối kháng ngay trong bản thân. Vì vậy muốn hiểu biết thượng tầng kiến trúc của một xã hội đối kháng:
« C ần phải phân biệt toàn bộ thượng tầng kiến trúc của xã hội đối kháng với phần chính của nó biểu hiện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị ». (Kammari)
Bên cạnh những quan hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, vẫn tồn tại và phát triển những quan hệ tư tưởng của các giai cấp chống đối lại nó, phủ định nó. Những quan hệ này cũng nằm trong thượng tầng kiến trúc của xã hội và tuyệt nhiên không có nhiệm vụ bảo vệ hạ tầng cơ sở. Trái lại.
Theo sự giải thích này, nhà học giả xô viết Kammari đề nghị phân biệt thượng tầng kiến trúc tư sản với thượng tầng kiến trúc của xã hội tư sản (thượng tầng kiến trúc của xã hội tư sản không phải chỉ gồm các tư tưởng và cơ quan của giai cấp thống trị). Và Kammari kết luận:
«Trong đời sống thực tế của mọi xã hội đối kháng, thượng tầng kiến trúc không những là bao gồm tư tưởng và cơ quan của giai cấp thống trị mà còn bao gồm toàn bộ hệ thống các quan hệ tư tưởng của con người, các quan điểm của họ về tất cả các vấn đề sinh hoạt xã hội, các mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp biểu hiện trong những điểm đó».
Ý kiến này giúp ta nhận định được chính xác chân tướng toàn diện (nghĩa là đầy mâu thuẫn nội tại) của lịch sử văn học dân tộc ở từng thời đại. Thí dụ: ta sẽ phải phân biệt văn học phong kiến và văn học của xã hội phong kiến . Văn học phong kiến là văn học biểu dương tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị, có mục đích và tác dụng bảo vệ cơ sở kinh tế xã hội phong kiến. Trái lại, trong văn học của xã hội phong kiến không những chỉ có văn học phong kiến mà còn có văn học biểu hiện những tư tưởng, tâm lý, nguyện vọng của các tầng lớp chống phong kiến, đối nghịch với tư tưởng, tâm lý, nguyện vọng của giai cấp thống trị, nhằm phá hủy hoặc có tác dụng phá hủy những quan hệ kinh tế và những quan hệ tư tưởng phong kiến, có xu hướng tiến đến sự thanh toán những quan hệ thống trị này. « Tứ thư thuyết ước » của Chu An, « Khóa hư lục » của Trần Thái Tôn (1218-1277), « Ngự chế thi tập » của Minh Mệnh (1791-1840), « Thập điều diễn ca » của Tự Đức , « Nhị thập tứ hiểu diễn ca » của Lý Văn Phức… là văn học phong kiến. Trái lại, những tác phẩm Trê cóc, Thạch Sanh, Lục súc tranh công, Sãi vãi, Chinh phụ ngâm, Truyền kỳ mạn lục, Nhị Độ Mai, Phạm Tài Ngọc Hoa, Sơ kính tân trang, Đoạn trường tân thanh, v.v… và những thi ca của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Yên đỗ, Tú Xương… là văn học của xã hội phong kiến có ý nghĩa và tác dụng công kích chính trị của giai cấp phong kiến cầm quyền hoặc phủ nhận những yếu tố luân lý phong kiến thống trị. Thuộc vào loại văn học chống phong kiến này, còn có đại bộ phận văn học truyền khẩu của các tầng lớp bình dân sống trong xã hội phong kiến.
Tuy nhiên, nói: văn học phong kiến (hay nói: văn học tư sản ) không có nghĩa là văn học ấy, vì phục vụ giai cấp thống trị, mà tất yếu là phản động. Trong những điều kiện lịch sử nhất định nào đó, giai cấp thống trị và các yếu tố thượng tầng kiến trúc phục vụ nó (trong đó có văn học) có tính chất tiến bộ không thể phủ nhận được: đó là lúc nó đang đóng một vai trò lịch sử tích cực. Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, phú Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, thơ ca yêu nước của Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Nguyễn Biểu, Lê Thánh Tông là những biểu hiện rõ rệt của văn học phong kiến tiến bộ.
Một mặt khác, khi nói văn học chống phong kiến của xã hội phong kiến cũng không có nghĩa là văn học ấy hoàn toàn vượt khỏi được tính chất phong kiến – nhất là về thế giới quan, xã hội quan. Bằng chứng là văn học truyền khẩu bình dân của ta, tuy về cơ bản chống phong kiến khá quyết liệt, nhưng vẫn không tránh được ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, ở điểm này hay điểm khác. Một bằng chứng nữa là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Mặc dầu ý nghĩa và tác dụng chủ yếu của nó, xét qua hình tượng nghệ thuật, là đả phá chính trị, tư tưởng và sinh hoạt của bè lũ thống trị phong kiến, đề cao quyền lợi yêu thương tự do, đề cao hành động khởi nghĩa của nông dân, mặc dầu thế, phần tư tưởng triết lý của Nguyễn Du vẫn rơi rớt ít nhiều tính chất phong kiến và giải pháp cứu thế của thi sĩ vẫn không thoát được mầu sắc siêu hình, thần bí.
Nhưng dù sao ta cũng vẫn phân biệt được hai bộ phận đối kháng nhau của thượng tầng kiến trúc trong một xã hội đối kháng. Nói chung thì dòng tư tưởng và tình cảm của văn học thống trị bao giờ cũng nặng về tính cách bảo thủ ở ngay cả lúc nó còn mang một ý nghĩa lịch sử chân chính. Trái lại, dòng tư tưởng và tình cảm của văn học chống giai cấp thống trị bao giờ cũng nặng về tính cách đi tới, tiến thủ, phê phán trật tự hiện hành, nhắm về phía đằng trước . Ảnh hưởng của tư tưởng thống trị cũng không thể làm nhòa được tính cách cơ bản ấy của nó.
Nghiên cứu văn học của một dân tộc ở bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào cũng nhất thiết không thể bỏ qua tình hình đối kháng của hai dòng văn học: chính thống và phản chính thống, với tất cả tính phức tạp của mỗi dòng. Lịch sử văn học của một xã hội có giai cấp tựu trung chỉ là lịch sử của quá trình đối kháng ấy:
« Thượng tầng kiến trúc phản ánh sự mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giai cấp trong cơ sở kinh tế ». (Kammari)
Tác phẩm văn học sử nào không làm nổi bật được quá trình đối kháng của hai bộ phận văn học chính thống và phản chính thống ở từng giai đoạn phát triển của xã hội đối kháng không làm nổi bật được những nhân tố mâu thuẫn ở ngay bên trong mỗi bộ phận ấy, không cho ta thấy quá trình văn học bắt trục vào cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp và các tầng lớp hiện diện trong giai đoạn lịch sử đó, không trình bầy cuộc đấu tranh tư tưởng này bắt gốc ở những mâu thuẫn trong cơ cấu kinh tế xã hội – là chưa đạt được yêu cầu cơ bản của khoa văn họcsử.
Nói: cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp và các tầng lớp hiện diện trong một giai đoạn lịch sử của một xã hội đối kháng tức là muốn nhấn mạnh vào tính phức tạp của những hoạt động thượng tầng kiến trúc trong đời sống thực tế do tính phức tạp của những mâu thuẫn trong cơ cấu kinh tế quyết định. Thí dụ khi nghiên cứu văn học phong kiến Việt-nam ở một giai đoạn lịch sử nhất định – thế kỷ XIV chẳng hạn – không thể coi nó là một khối thống nhất và đơn thuần. Thực tế, trong hàng ngũ giai cấp thống trị, trên con đường tiến triển của xã hội phong kiến, bộ phận này trở thành mâu thuẫn với bộ phận khác và loại trừ nhau không thương tiếc, mặc dầu, về căn bản, chúng vẫn bảo vệ quyền lợi chung của toàn thể giai cấp chống lại sức tấn công của nông dân. Bộ phận quý tộc mới do Hồ Quý Ly đại diện, chẳng hạn, đã xung khắc kịch liệt với bộ phận quý tộc cũ đã trở nên phản động (các vua Trần, nhà Chùa, Trần khắc Chân, Trần nguyên Kháng, Trần nhật Đôn, v.v…) Đồng thời, bọn đại địa chủ bình dân lại cực kỳ bất mãn với chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly. Nhưng ngay trong lúc các bộ phận ấy khuynh loát nhau rất tàn bạo, tất cả đều không sao nhãng công việc đàn áp nông dân bạo động ở các vùng Nghệ-an, Vĩnh-yên, v.v… là kẻ thù chung của toàn thể giai cấp phong kiến địa chủ. Sự xung đột quyền lợi của các bộ phận ấy là gốc rễ cuộc đấu tranh tư tưởng ở đương thời. Trương Hán Siêu, Chu An, Lê Quát công kích Phật giáo, đề cao Nho giáo; Hồ Quý Ly bài bác Tống nho và đặt Chu Công trên Khổng Tử, phê vào tờ biểu của Nguyễn cảnh Chân An phủ sứ lộ Thăng hoa: « Biết được mấy chữ mà hay nói đến Hán, Đường, thực là người câm hay nói chỉ tổ mua cười thôi », và định dùng chữ Nôm làm học thừa chính yếu: những hiện tượng văn hóa ấy đã phản ánh quá trình phân hóa của xã hội phong kiến Việt-nam suốt thế kỷ XIV và của ngay bản thân giai cấp thống trị.
Xét bộ phận văn học chống giai cấp thống trị, ta cũng dễ dàng nhận thấy nó không phải là một khối thống nhất đơn thuần. Trong cái tập thể lớn bị áp bức có khuynh hướng phủ định trật tự xã hội hiện hành, có nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau về nhiều phương diện nhưng chưa đủ thời gian để phân lìa nhau ra thành những lực lượng đối kháng nhau. Thí dụ ở thời phong kiến thì bần cố nông, trung nông, phú nông, trung tiểu địa chủ bình dân, thương nhân, chủ công nhân… đều chống giai cấp quý tộc cầm quyền; nhưng về các mặt nhân sinh quan, tác phong sinh hoạt và làm việc, tâm lý tín ngưỡng và ngay cả về quyền lợi nữa, những thành phần xã hội khác nhau ấy cũng vẫn có nhiều điểm giống nhau, nhiều điểm mâu thuẫn nhau – những mâu thuẫn này sẽ cùng với đà phân hóa của xã hội phong kiến mà lớn dần, rõ rệt dần. Tất cả tình trạng phức tạp này đều được phản ánh trong văn học chống phong kiến của các tầng lớp ấy. Một nhà nghiên cứu văn học sử không thể không chú ý đến tình trạng đó.
Thừa nhận có những bộ phận đối kháng nhau trong văn học của một xã hội đối kháng ở một giai đoạn lịch sử nhất định, thừa nhận có những sự dị biệt, mâu thuẫn ở ngay bản thân của mỗi bộ phận, giải thích những tính cách đối kháng và mâu thuẫn ấy bằng những đối kháng và mâu thuẫn giữa các giai cấp, các tầng lớp ở cơ cấu kinh tế, phản ánh vào văn học thông qua nhiều nhân tố môi giới phức tạp (chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, phong tục, v.v…) áp dụng nhận định này vào từng trường hợp cụ thể theo lời dạy của Lê-nin:
«Linh hồn của chủ nghĩa Marx là sự nghiên cứu cụ thể một tình hình cụ thể» .
Đó là một trong những phương châm chủ đạo mà nhà văn học sử phải tuân theo nghiêm túc khi tìm hiểu một quá trình văn học.
IV. THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI HẠ TẦNG CƠ SỞ« Sự phát triển chính trị, pháp lý, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật , v.v… lấy sự phát triển kinh tế làm cơ sở. Nhưng, tất cả những nhân tố ấy đều tác động lẫn đến nhau và tác động đến cơ sở kinh tế… Xét đến cùng, thì điều kiện kinh tế vẫn là nhân tố quyết định. Thí dụ: Nhà nước tác động đến sự phát triển kinh tế bằng những chính sách bảo hộ mậu dịch, tự do trao đổi hàng hóa, bằng một chính sách thuế tốt hoặc xấu; và, ngay cả đến tình trạng suy nhược, bất lực của tầng lớp trưởng giả tầm thường Đức, do tình trạng cùng khốn của nền kinh tế Đức từ năm 1648 đến 1830 đẻ ra, và biểu hiện ra thành chủ nghĩa kiền thành (piétisme) rồi dần biến ra tính nhu cảm và cuối cùng hóa ra thái độ «quỳ mọp» nô lệ đối với bọn hoàng thân và quý tộc, cũng không phải là không ảnh hưởng đến kinh tế. Chính nó là một trong những sức cản trở lớn khiến cho kinh tế không tái sinh được; phải đợi có những cuộc chiến tranh của cách mạng Pháp và của Napoléon làm cho sự cùng khốn kinh niên kia trở thành gay go mới rung chuyển được nó… » (Engels: Thư trả lời Heinz Starkenburg, ngày 25-1-1894). 8
Tóm tắt ý kiến của Marx-Engels về vấn đề này, ông Kam-mari viết:
«Trong khi nhấn mạnh vào vai trò quyết định của hạ tầng cơ sở đối với thượng tầng kiến trúc, chủ nghĩa duy vật lịch sử hoàn toàn không phủ nhận tác dụng tích cực của thượng tầng kiến trúc, ảnh hưởng ngược lại của thượng tầng kiến trúc đối với hạ tầng cơ sở, sự tác động lẫn nhau giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong quá trình toàn diện của lịch sử. Nhưng đó không phải là sự tác động lẫn nhau giữa hai nhân tố độc lập không phụ thuộc vào nhau và ngang nhau về ý nghĩa. Trái lại, sự tác động lẫn nhau giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở diễn ra trên cơ sở của chế độ kinh tế, chế độ này cũng quyết định sự phát triển của thượng tầng kiến trúc… Lý luận của chủ nghĩa Marx-Lénine về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc giải thích lịch sử một cách toàn diện, điều hòa, theo quan điểm nhất nguyên luận duy vật và biện chứng» . (Tài liệu đã dẫn)
Sự ảnh hưởng của văn học đến hạ tầng cơ sở xã hội là một hiện tượng phức tạp vì nó phải thông qua cả một thế giới nhân tố tâm lý đa diện, thông qua những nhân tố thượng tầng kiến trúc khác (đạo đức, pháp luật, v.v…) thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp, những cuộc xung đột giữa các tầng lớp mâu thuẫn trong một giai cấp. Sự ảnh hưởng ấy thường là xa xôi, lâu dài, ngoắt ngoéo nên gần như là vô hình đối với con mắt những người thực tiễn chủ nghĩa thiển cận. Bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, văn học làm nẩy nở và trưởng thành, trong con người lọt vào phạm vi ảnh hưởng của nó (độc giả, khán giả…) những trạng thái tư tưởng và xúc cảm, những phản ứng tâm lý đối với cuộc sống chung quanh, những yêu cầu tha thiết về một hạnh phúc lý tưởng; những nội dung và cách thức yêu, ghét, giận, vui, buồn muốn, thương, tu thân, xử thế, lao động, chiến đấu. Thông qua tác dụng tâm lý này, văn học làm biến cải thái độ con người đối với những ước lệ xã hội đang thống trị (luân lý, phong tục, pháp luật, tôn giáo, v.v…) tạo điều kiện tinh thần cho những cuộc đấu tranh giai cấp có tác dụng lớn đến sự biến hóa của cơ cấu kinh tế xã hội. Xét theo nhận định này, văn học rõ ràng là một trong những động lực làm phát triển lịch sử xã hội. Do đó, nẩy sinh vai trò và trách nhiệm của văn học đối với vận mạng những con người sống trong xã hội.
Nhiệm vụ của nhà văn học sử là tìm đúng và đánh giá đúng vai trò và trách nhiệm của văn học, của từng sự kiện văn học cụ thể trong một xã hội nhất định luôn luôn tiến triển. Hiện tượng tác động trở lại của văn học đối với hạ tầng cơ sở là một tiêu chuẩn khách quan để xác định tác dụng tốt hoặc xấu của mỗi sự kiện văn học đối với thời đại của nó. Nếu ta biết đúng, hướng tiến lịch sử của một cơ cấu kinh tế trong những điều kiện nhất định, nếu ta biết đúng những nhân tố tinh thần nào góp phần vào sức thúc đẩy cơ cấu kinh tế ấy tiến theo hướng lịch sử của nó (và những nhân tố nào bảo thủ nó hay kéo nó lùi lại), nếu ta nhận định đúng những sự kiện văn học nào biểu hiện những nhân tố tinh thần kia – tất cả những điều này đều có thể dùng quan sát khách quan mà thấy rõ được một cách kinh nghiệm chủ nghĩa – thì tức là ta có một tiêu chuẩn khoa học nhất để xác định giá trị của một sự kiện văn học (một tác phẩm, một nhà văn, một lưu phái văn học, v.v…) trong một giai đoạn nhất định của xã hội. Tuy nhiên, công việc phân tích, phán đoán một sự kiện văn học tương quan với sự phát triển nhiều mặt của một xã hội và, xét đến cùng, tương quan với sự phát triển kinh tế, đòi hỏi nhà văn học sử không những phải có tinh thần khoa học nghiêm túc, mà còn phải nắm vững tính phổ biến vĩnh cửu của những kiệt tác văn học và nhất là phải hiểu thấu triệt tính loại biệt của nghệ thuật văn học nữa. Muốn thực hiện tốt công việc ấy, nhà văn học sử phải tránh lối nghiên cứu hời hợt, tránh tật khái quát hấp tấp không căn cứ vào tài liệu chính xác, tránh thói suy luận siêu hình, phiến diện, võ đoán, tiên thiên chủ nghĩa, phi lịch sử.
Cũng như «hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc», sự «tác động trở lại của thượng tầng kiến trúc đối với hạ tầng cơ sở» là một hiện tượng khách quan phải dùng phương pháp khoa học mà nghiên cứu như bất kỳ hiện tượng khách quan nào. Rời bỏ hay sao nhãng hiện tượng ấy, nhà văn học sử sẽ không còn căn cứ được vào tiêu chuẩn nào chắc chắn để đánh giá những sự kiện văn học, và sẽ tất yếu rơi vào những quan điểm hình thức chủ nghĩa, duy mỹ chủ nghĩa, chủ quan cá nhân, là những quan điểm sai lầm, bất lực khi giải thích hay phê phán một quá trình văn học, một sự kiện văn học. Về phương diện này, lý thuyết mỹ học Marx – Lénine có khoa học tính và có lực lượng hơn tất cả những lý thuyết mỹ học khác.
*
Quan niệm văn học như một yếu tố thượng tầng kiến trúc bị hạ tầng cơ sở quyết định thông qua nhiều môi giới phức tạp – trong các xã hội đối kháng thì chủ yếu là thông qua đấu tranh giai cấp và tâm lý con người do cuộc đấu tranh ấy sản sinh ra; quan niệm văn học có một quá trình phát triển tương đối độc lập, có khả năng mâu thuẫn với hạ tầng cơ sở trong những điều kiện nhất định, có đời sống lâu dài hơn hạ tầng cơ sở đẻ ra nó; quan niệm văn học là sự phản ánh của toàn bộ sinh hoạt xã hội chứa nhiều mâu thuẫn và xung đột giữa các giác giai cấp, các tầng lớp có quyền lợi khác nhau, và vì thế, trong một xã hội đối kháng, có tính đối kháng ở ngay bản thân quá trình văn học; quan niệm văn học tác động trở lại hạ tầng cơ sở thông qua thế giới tâm lý con người, và do đó, coi văn học như một hoạt động có tác dụng và trách nhiệm đối với sự tiến bộ của xã hội: đó là điều kiện lý luận cần thiết của mọi công trình nghiên cứu văn học sử. Thiếu điều kiện này, sự nghiên cứu không còn là một khoa học nữa.