Notes
[1]- M. KAMMARI, Bài « Mấy vấn đề lý luận về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc », Tạp chí Cộng sản, số 10 tháng 7-1956, Bản dịch quốc văn của Y.T (Tập san Đại học văn khoa, số 8, tháng 5-1957, Hà-nội).
[2]- Mar và Engels, « Ý thức hệ Đức », Jean Freville trích dịch trong cuốn «Marx-Engels: Sur la littérature et l’art» Editions Sociales, Paris, 1954.
[3]- Marx, Tựa cuốn « Góp phần phê phán kinh tế chính trị học ».
[4]- Plékhanov, « Les questions fondamentales du marxisme » .
[5]- Bài « Những vấn đề của văn học sử xô viết », Tạp chí Cộng sản số 12-1956 (Moscou), trích đăng trong tạp chí Nouvelle critique, số tháng 12-1956 (Paris).
[6]- Đoạn văn này trích trong mục « Lời bình » sau « Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông trào » ; chuyện này là một trong 20 chuyện của cuốn TRUYỀN KỲ MẠN LỤC, tác giả là Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI), bản dịch của Trúc Khê, Nhà xuất bản Tân Việt, 1952 (Sài-gòn).
[7]- Jean Fréville, Phần mở đầu tập Marx, Engels, « S ur la littérature et l’art », Editions sociales, Paris, 1954.
[8]- Trích trong cuốn Karx Marx, F.Engels: « S ur la littérature et l’art », Jean Fréville sưu tập và giới thiệu, Editions Sociales, Paris, 1954.
[9]- Phạm Đình Hổ, « Vũ trang tùy bút », Bản dịch của Đông Châu, đăng trong Tạp chí Nam phong, số tháng 10-1927.
[10]- Phạm Đình Hổ, « Vũ trang tùy bút », Bản dịch của Đông Châu, đăng trong Tạp chí Nam phong, số tháng 10-1927.
[11]- Phạm Đình Hổ, « Vũ trang tùy bút », Bản dịch của Đông Châu, đăng trong Tạp chí Nam phong, số tháng 10-1927.
[12]- Charles Navarre, « Les grands écrivains étrangers », Chương « Shakespeare » , trang 268-269, H. Didier xuất bản, Paris 1947.
[13]- Tạp chí « La nouvelle critique », số 42 (tháng giêng 1953).
[14]- Xem « L’Évolution humaine de l’ origines à nos jours » , tập IV, mục « La diffusion des idées » của Georges Renard và M. LaHy-Hollebecque, trang 539-560, Quillet xuất bản Paris, 1934.
[15]- Stefan Zweig, « Trois maitres », Grasset xuất bản, Paris 1949. Trang 41-43.
[16]- Lỗ Tấn, « Tuyển tập Tạp văn », Phan Khôi dịch, Văn nghệ xuất bản, Hà-nội, 1956.
[17]- K. Marx, « Le 18 Brumaire de Louis Bonaparte » (E.S).
[18]- Hội nghị mở rộng của Ban biên tập văn học sử Trung-quốc, tháng 11-1956, đề ra phương châm biên soạn văn học sử Trung-quốc, có một điểm quan trọng: « Phải nắm được những mâu thuẫn và theo sát những trào lưu đấu tranh trong quá trình phát triển văn học Trung-quốc ». (Xem tập san Văn sử địa, số 26, mục: Hoạt động văn sử địa quốc tế, Hà-nội (1957)).
[19]- Plékhanov, « L’art et la vie sociale » .
[20]- Plékhanov, « L’art et la vie sociale » .
[21]- Plékhanov, « L’art et la vie sociale » .
[22]- Quan điểm này của Georg Lukacz được trình bầy rải rác trong các cuốn sách: « Goethe et son é poque, Balzac et le r é alisme fran ç ais, Le réalisme russe et la littérat ur e mondiale du XIX siècle » . (Xem bài giới thiệu về Georg Lukacz của Joẽl Lefebre trong tạp chí La Pensée, số Mar-Avril 1954).
[23]- Trương Chính: Phần mở đầu tập 1 « Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam, nhóm Lê Quí Đôn » hội biên, Xây dựng xuất bản, 1957.
[24]- Henri Lefebvre, « Contribution à l’esth é tique ». Editions Sociales, Paris, 1952.
[25]- Saint Beuve, « Profils et jugements litt é raires », Tập III, Tủ sách Larousse, 1927.
[26]- Xem những bài nói về tình hình văn học sử xô viết của:
- A. Ninov trong Littératournaïa Gazeia. Moscou tháng 8-1956.
- Vladimir Jdanov trong Littérature soviétique, Moscou 8-1956.
- Metchenco, Dementiev và Lomidze (Tạp chí Cộng sản số 12-1956, Mosscou), v.v…
[27]- Dẫn trong cuốn Goethe , «S a vie, son œuvre » của Witkop, nhà xuất bản F. Paillart, 1932.
[28]- Dẫn trong cuốn Goethe , «S a vie, son œuvre » của Witkop, nhà xuất bản F. Paillart, 1932.
[29]- Tạp chí Cộng sản, Bài: « Về vấn đề điển hình trong văn học và nghệ thuật », Bản dịch ra quốc văn của Cao xuân Huy, Tập san Đại học (Văn khoa) số 6-7-1956, Hà-nội.
[30]- Báo cáo « Những vấn đề hiện thời của văn học Đức » , đọc tại Đại Hội các nhà văn nước Cộng hòa dân chủ Đức ngày 10-1-1956, Joël Lefebvre dịch ra Pháp văn trong đặc san Nouvelle critique «Nước Cộng hòa dân chủ Đức», số tháng 3 – Tháng 4-1956.
[31]- Dẫn trong cuốn « Goethe » của Witkop.
[32]- Dẫn trong cuốn « Goethe » của Witkop.
[33]- Stefan Zweig, « Trois maitres: Dostoïevski, Balzac, Dickens » , Trang 239-240. Grasset, Paris, 1949.
[34]- «… Trong lãnh vực tâm lý người điên, Dostoïevski đã đi sâu hơn tất cả các nhà y học, luật học, hình pháp học, tâm bệnh học. Sau này, nhờ bao nhiêu thí nghiệm, mổ xẻ rất vất vả, khoa học mới khám phá ra được những hiện tượng thần giao cách cảm, thần kinh rối loạn, ảo giác, khủng hoảng tà dục; thì những hiện tượng ấy, nhờ có khiếu đồng cảm và thần nhỡn của kẻ đồng lõa, Dostoïevski đã miêu tả trước cả rồi. Những hiện tượng tinh thần, ông đã dõi theo nó đến tận biên giới của bệnh điên… đến tận bờ tội ác, và như vậy ông đã đi suốt qua những khu vực tâm hồn vô cùng và chưa ai biết đến… » (Stéfan Zweiz: sách đã dẫn )
[35]- I.Daniline, Maupassant, « Recherches soviétiques » số 6 (11-1956): «Littérature soviétiques», La Nouvelle critique xuất bản, Paris, 1956.
[36]- Biélinski, « Textes philosophiques choisis » , Moscou, 1951, trang 71.
[37]- Léon Robel dẫn trong bài « Analyse de Tolstoï » , La nouvelle critique, số Tháng bẩy – tháng tám 1957.
[38]- Stéfan Zweig: sách đã dẫn.
[39]- Sự tương hợp giữa lời nói và hình dáng, tâm trạng, ý nghĩa của vận mệnh nhân vật, trong lãnh vực mỹ thuật, là sự tương hợp giữa cảnh sống thực và nét, mầu, sắc, khối. Trong cuốn Lịch sử mỹ thuật (Nhà xuất bản G. Grès, Paris, 1921), đoạn bàn về Rembrandt, tác giả là ông Elie Faure có viết:
«Khi Rembrandt đã theo d õi cái giây tinh thần nối liền những hình thức vào nhau khi ông đã ngắm kỹ một bà mẹ khi cho con bú thì ẵm đứa bé như thế nào, bà mẹ ấy mặc áo cho con như thế nào, đứa nhỏ chập chững tập đi như thế nào, hai mái đầu nghiêng nghiêng vào nhau như thế nào khi chuyện trò tâm sự riêng hay khi thú tội, và tất cả những dáng điệu cốt yếu mà không ai chú ý nhìn, thì Rembrandt đã có thể đi từ nội tâm ra đến ngoại hình để tái tạo lại những hài hòa hình thức lớn mà chính ông có vẻ như là cũng không tự biết… Ông đã quan sát hàng trăm lần những con người đang cặm cụi làm một công việc, những thính giả đứng chung quanh một vị thầy, những người đứng xem và những trợ tá của một nhà giải phẫu; những người đàn bà quây lấy một sản phụ. Ông đã nhận thấy rằng khi người nào ở đúng chỗ mà việc của người ấy ấn định thì những khối tự nó an bài ra thành tổ chức theo một thế quân bình hoàn bị, thì ánh sáng chiếu đúng vào chỗ cần sáng và không chiếu vào chỗ không cần sáng, bởi vì cái chỗ cần sáng đó là chỗ có ích cho công việc đang tiến hành còn chỗ khác có thể tối mà không hại gì đến công việc… Bí quyết thực sự của cuộc sống là: Một dáng điệu chỉ đẹp khi nó đúng; và đối với một chân lý chức vụ sâu sắc, bao giờ cũng có một liên tục sâu sắc của vận động và khối đáp ứng lại».
[40]- Dẫn trong sách « Esth ét ique » của F. Challaye, Nhà xuất bản Fermand Nathau, Paris, 1929.
[41]- Jean Richard Bloch, « Naissance d’une culture », Rieder xuất bản, Paris, 1936.
[42]- Jean Richard Bloch: tài liệu đã dẫn.
[43]- Nguyễn Du « nhời quê góp nhặt dông dài » không phải là để một mình mình đọc mà là để một số người nào đó « mua vui cũng được một vài trống canh » . Sự khao khát mối thông cảm đồng tình của người người khác, ở Nguyễn Du lúc viết Đoạn trường tân thanh, đã được diễn ra vô cùng thống thiết trong hai câu thơ gần như tuyệt vọng của thi sĩ:
« Bất tri tam bách dư ni ê n hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố như? »
[44]- Từ đây trở xuống, chúng tôi gọi thứ văn học chữ Hán do người Việt-nam viết là văn học Hán Việt để cho đỡ dài dòng.
[45]- Tập san Văn Sử Địa số 5.
[46]- Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam. Tập I. Xây dựng xuất bản, Hà-nội 1957.
[47]- Lê Tùng Sơn: Góp ý kiến vào vấn đề « Những bài văn chữ Hán do người Việt-nam viết có được kể vào văn học sử Việt-nam không ?» (Văn Sử Địa số 14).
[48]- Tạp chí « La Pens é e » . Số Janvier – Février 1954.
[49]- « …Trải qua cuộc Bắc thuộc thứ hai, do ảnh hưởng của văn hoá Trung-hoa, văn hoá cũ của người Việt đã dần dần biến đổi sâu xa và dung hoà rất nhiều với văn hoá của người Hán tộc. Từ các chính sách đồng hoá của các thái thú Tích Quang và Nhâm Diên, những tục lệ của xã hội thị tộc đã dần dần nhường chỗ cho chế độ gia tộc phụ quyền với hôn lễ. Trong phương thức sinh hoạt hàng ngày, do sự hỗn cư của hai giống người Việt và Hán, những phong tục tập quán, từ cách ăn, cách ở, cách mặc, cho đến ngôn ngữ của người Việt đã dần dần mang chứa nhiều ảnh hưởng của Hán tộc. Người Việt vốn không có văn tự. Văn tự của người Trung-hoa đã du nhập vào Giao châu mà dần dần thành thông dụng trong giới quý tộc bản quốc. Vì nó du nhập ở thời thuộc Hán cho nên người ta gọi là chữ Hán. Từ đầu thời Hán, nhất là từ Tích Quang và Nhâm Diên, ở Giao chỉ và Cửu chân đã có những học hiệu để dạy chữ Hán cho con em bọn quan lại và lớp quý tộc bản quốc. Sang thời Đông Hán đã có Trương Trọng, Lý Tiến và Lý Cầm học chữ Hán giỏi và được bổ làm quan như người Trung-hoa… » (Đào Duy Anh: Lịch sử Việt-nam , quyển thượng, trang 51-52, Xây dựng phát hành, Hà-nội, 1955).
[50]- Tạp chí Văn Sử Địa, số 5: Bài đã dẫn .
[51]- Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam, tập I, trang 19.
[52]- Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam, tập I, Trang 23.
[53]- Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam, tập I, Trang 19.
[54]- Trang 25, Những câu in chữ nghiêng là do chúng tôi gạch dưới (T.T).
[55]- Xem Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam, tập I, trang 111.
[56]- Xem Lược thao lịch sử văn học Việt-nam, tập II, trang 5 và 9.
[57]- Lược thảo lịch sử của văn học Việt-nam, tập II, trang 180, 181, 183.
[58]- Nha học chính Đông Pháp xuất bản Hà-nội, 1943.
[59]- Nhà sách Vĩnh bảo xuất bản, Sài-gòn, 1949
[60]- Trường Nguyễn Khuyến phát hành, Hà-nội, 1952.
[61]- Engels, « Dialectique de l a nature» Introduction, Editions sociales, Paris, 1955, trang 29-30-31.
[62]- « Histoire de la littérature anglaise » , trang 699. Hachette xuất bản, Paris, 1924.
[63]- Dẫn trong bài « Le classisme allemand » của André Gis, selbrecht, Tạp chí La Nouvelle critique số 86 (6-1957). Paris.
[64]- Dacier là một nhà bác ngữ học Pháp. Ông có soạn một cuốn sách nói về « Thi luật Aristote » (1692), trong đó ông giải thích rằng Aristote chỉ đề ra có sự duy nhất về thời gian và sự duy nhất về hành động mà thôi, chứ không đề ra tam duy nhất.
[65]- Văn học cổ điển chủ nghĩa Pháp biểu hiện đặc tính của dân tộc Pháp ở một giai đoạn trưởng thành nhất định (thế kỷ XVII) chứ không phải biểu hiện mức phát triển cao nhất của đặc tính Pháp. Theo Engels thì: « N ền văn học duy vật Pháp ở thế kỷ XVIII mới thật sự biểu hiện mức cao tột độ của đặc tính dân tộc Pháp trong dĩ vãng, ở cả nội dung lẫn hình thức» (Engels: Chương trình của những người Bờ-lăng-kít chiến sĩ Công xã trốn ra nước ngoài).
[66]- Philippe Sagnac, « Louis XVI » , quyển X trong bộ « Thông sử các dân tộc và các nền văn minh », Presses universitaires de France, Paris, 1949.
[67]- Nghiên cứu các bài hát dân gian, Herder sáng lập ra được một tâm lý học mới. Theo lý thuyết Herder thì khi sáng tạo văn học, con người phải vận dụng toàn thể những năng khiếu của bản thân: lý tính, giác quan, trí tưởng tượng – chứ không phải chỉ dùng có khối óc, có lý trí. Sự sáng tạo văn học đòi hỏi sự tham gia của con người toàn diện. Vì thế nên văn học cổ điển Đức bao hàm cả tính lãng mạng cách mạng. Lý thuyết này khác với chủ trương duy lý chủ nghĩa của các nhà văn cổ điển Pháp và Anh.
[68]- André Gisselbrecht, « Le classisisme allemand », La Nouvelle critique số 86 (6-1957).
[69]- Bạn nào muốn biết rõ hiện trạng cuộc tranh luận này xin tìm đọc cuốn « Vấn đề hình thành dân tộc Việt-nam » của nhà sử học Đào Duy Anh (Xây dựng xuất bản, 1957).
[70]- Trần đức Thảo, « Bài Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo… » Tạp chí Văn Sử Địa, số 5 (2-1955).
[71]- Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì: « làng Tam-chế ở tây ngạn sông Lam… có chợ xưa rất lớn và có xưởng đóng thuyền. Xưa là một địa điểm đô hội bậc nhất trên đường bộ và thuỷ đi vào Nam ». (Thi Văn Việt-nam, trang 67, Sông Nhị xuất bản, Hà-nội, 1951). Phương thức sản xuất ở xưởng đóng thuyền này tất yếu phải đã vượt ra ngoài phạm vi sản xuất cá thể và biệt lập trong một tiểu gia đình.
[72]- « Lénine tuyển tập » tập I, phần thứ nhất, trang 115, Moscou, 1954.
[73]- Văn Sử Địa, số 16, tháng 4-1956, Nguyễn khắc Đạm dịch.
[74]- « Sách Phủ biên tạp lục chép rằng có người thổ dân ở nguồn Thu-bồn xứ Quảng nam đút lót cho người tay chân của Trương Phúc Loan mà được chiếm cả một quả núi để đào và ng , mỗi năm đem vàng đến bán cho thương khách ở Hội an hàng trên nghìn hốt (nén) » (Đào Duy Anh: Vấn đề hình thành của dân tộc Việt-nam, trang 142, Xây dựng xuất bản, Hà-nội 1957).
[75]- Xem bài Dẫn tập « Đại-nam quốc sử diễn ca », Hoàng Xuân Hãn, Sông Nhị xuất bản, Hà-nội, 1952.
[76]- Tính non yếu này biểu lộ trình độ tiến hóa tương đối thấp của lực lượng công thương và của nông dân nói chung. Trong văn học, nó hiện ra ở thế giới quan thần bí và ở thái độ đấu tranh bị động của các nhân vật chính nghĩa. Ảnh hưởng của Gia tô giáo trong dòng văn học này khá lớn: thái độ tuẫn đạo, hình tượng địa ngục, những hiện tượng tái sinh huyền diệu, sự đề cao những người cùng khổ nhất (ăn mày, đầy tớ…) đối lập với những kẻ quyền thế nhất (hôn quân, bạo chúa, gian thần, ác bá) sự chán ghét giầu sang (hành động vị quan đem ruộng, trâu, tiền chia cho dân làng). Sở dĩ có ảnh hưởng ấy là bởi những yếu tố Gia tô giáo kể trên, lúc đó, hợp với thế yếu của các tầng lớp bình dân phản kháng. Các nhà văn bình dân đã vận dụng nó làm vũ khí đấu tranh để gây tin tưởng cho quần chúng chống Trịnh. Những chính vì phải vận dụng yếu tố thần bí và lòng cuồng tín mà các tác phẩm ở thời kỳ này đã bị hạn chế nhiều về mặt hiện thực tính.
[77]- J. Chesneaux, « Contribution à l’histoire de la nation vietnamienne », Ed. Sociales, Paris, 1955, trang 111.
[78]- Giai cấp tư sản Việt-nam xa rời phong trào dân tộc cho đến tận lúc sự phát triển của nó trở nên đối kháng với đế quốc Pháp (sau chiến tranh 1914-1918) nó mới trở lại con đường cách mạng giải phóng dân tộc (1925-1930). Nhưng vì đã mất liên hệ với quảng đại quần chúng nông dân từ lâu, lại mâu thuẫn quyền lợi với công nhân, nó không thể tập hợp được đa số nhân dân dưới lá cờ của nó: sự thất bại của nó là tất yếu.
[79]- N.Zastenker, « Phê phán những văn thư của Hội nghị Bách chu niên cách mạng 1848 – Nguyên văn chữ Nga đăng trong tập san Những vấn đề lịch sử số 2 Moscou 1951 », Tạp chí Nouvelle critique dịch ra ra Pháp văn và xuất bản thành tập, 1952.
[80]- Trong Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu, có đoạn:
« Cốt trong nước người ta một bụng
Ngàn muôn người cùng giống một người
Phòng khi sưu thuế đến nơi
Bảo nhau không đóng, nó đòi được chăng? »
Trong tài liệu tuyên truyền của Đông kinh nghĩa thục, có bài Cắt tóc đi tu:
« Phen này cắt tóc đi tu
Tạng kinh độc lập, ở chùa Duy tân… »
Vụ đầu bào (cắt tóc) và chống thuế của nông dân Trung bộ năm 1908 đã kết hợp những lời cổ vũ ấy trong một hành động quần chúng có tổ chức làm cho thực dân Pháp hốt hoảng điên cuồng. Cùng với vụ biểu tình nông dân đầu tiên này, vụ bãi công của 200 công nhân viên chức hãng L.U.C.I ở Hà-nội năm 1909, mở đầu những phương thức đấu tranh quần chúng hoàn toàn cận đại trong phong trào Cách mạng Việt-nam.
[81]- Ilya Ehrenbourg, « Vus par un écrivain d’URSS », NRF xuất bản, Paris, 1934.
[82]- Cách mạng Lỗ Tấn nói đến ở đây là cách mạng vô sản; vì ở Trung-quốc đã có cách mạng Tân hợi do giai cấp tư sản chấp hành (1911). Lỗ Tấn cho cách mạng tư sản là cách mạng nhỏ, cách mạng vô sản mới là cách mạng lớn. Tiên sinh còn nói: « Cách mạng lớn thì mới đổi được mầu sắc văn học, còn cách mạng nhỏ thì vì không kể được là cách mạng cho nên không đổi được mầu sắc văn học ».
[83]- Phan Khôi dịch, « Tuyển tập Tạp văn Lỗ Tấn » , Văn nghệ xuất bản, Hà-nội, 1956.