← Quay lại trang sách

TÓM TẮT PHẦN THỨ HAI

Trong các chương sách của Phần thứ hai này, chúng tôi đã phát biểu những ý kiến sau đây:

1) Vì những điều kiện đặc biệt của lịch sử dân tộc Việt-nam, suốt khoảng thời gian xây dựng nền tự chủ quốc gia và bước đầu của Nhà nước phong kiến tập quyền (thế kỷ XI – thế kỷ XIII) các nhà văn học chỉ vận dụng có Hán văn và Hán tự để trước tác; bộ phận văn học chữ Hán do người Việt soạn trong giai đoạn lịch sử này – ta thường kêu bằng văn học Hán Việt – mặc dầu không được trước tác bằng ngôn ngữ và văn tự dân tộc, vẫn là một thành phần của di sản văn học Việt-nam. Nó đã có tác dụng lớn đối với sự rèn luyện ý thức dân tộc. Nội dung tư tưởng tình cảm của nó, cũng như phần lớn các hình tượng văn học mà nó đã hư cấu, có một tính chất dân tộc rõ rệt. Tuy nhiên vì không vận dụng ngôn ngữ dân tộc, nó đã bị giới hạn rất nhiều về phương diện dân tộc tính. Bởi vậy nó chưa thực sự là một văn học dân tộc. Nhưng nó vẫn là một bộ phận khăng khít của văn học sử Việt-nam. Có thể nói thời kỳ 939-1284 là thời kỳ ưu thế tuyệt đối của văn học HánViệt.

2) Văn học dân gian là một văn học vô danh, do quần chúng sáng tác một cách tập thể và phổ biến bằng cách truyền khẩu. Đó là văn học ở hình thái tự nhiên «tuy thô sơ nhưng lại linh động nhất, phong phú nhất, căn bản nhất… nguồn gốc duy nhất vô cùng vô tận của văn học ở hình thái quan niệm» (Mao Trạch Đông).

Đại bộ phận văn học dân gian không có thời điểm tính minh bạch. Do đó, trong bộ lịch sử văn học Việt-nam, nên xếp văn học dân gian vào từng hình thái lịch sử xã hội của dân tộc. Tuy vậy, ở mỗi giai đoạn văn học sử, nếu có những tục ngữ ca dao, chuyện cổ… nào mang dấu vết cụ thể của lịch sử tính thì ta sẽ dùng những tài liệu hãn hữu ấy để soi sáng nền văn học gọt giũa đồng thời.

Không nên lẫn văn học dân gian với văn học bình dân. Khái niệm «văn học bình dân» nên hiểu theo nghĩa một tính chất – tính chất bình dân đối lập với tính chất quý tộc. Nó là tính chất nhân dân trong thời đại phong kiến. Có thể có một bài ca dao, một chuyện cổ tích ít bình dân tính hơn một tác phẩm cổ điển hữu danh hay khuyết danh. Có thể một áng văn do một tác giả ở giai cấp quý tộc làm ra mà lại thiếu bình dân tính – nhân dân tính – hơn một áng văn do một tác giả xuất thân ở một tầng lớp bình dân sáng tác ra.

3) Văn học cổ điển Việt-nam, khác với văn học cổ điển ở Tây phương, hình thành trong điều kiện xã hội phong kiến chưa có giai cấp tư sản. Những nhà văn cổ điển Việt-nam không phải là những nhà tri thức đại diện cho giai cấp tư sản mà lại xuất thân ở những tầng lớp nho sĩ quan liêu và nho sĩ bình dân. Nội dung tư tưởng của văn học cổ điển Việt-nam căn bản là sự kết hợp của những giá trị phong kiến tương đối chân chính với những giá trị bình dân chân chính (chủ yếu là thị dân tính) trên cơ sở một trạng thái phát triển tương đối cao của kinh tế hàng hóa đã bắt đầu có tính chất tư bản chủ nghĩa. Ngoài đặc điểm ấy, văn học cổ điển Việt-nam giống với văn học cổ điển Tây phương ở chỗ nó xuất hiện trong giai đoạn thành hình của dân tộc, và góp sức vào sự thành hình ấy. Nó biểu hiện tính thuần thục cao độ của ngôn ngữ văn học dân tộc, tính thống nhất cao độ của nội dung và hình thức, tính nhân đạo chủ nghĩa chống phong kiến, tính hiện thực và chiến đấu. Cũng như ở Tây phương, văn học cổ điển Việt-nam là kết tinh của cả một quá trình xây dựng và phát triển của văn học dân tộc song song với quá trình hình thành dân tộc.

Ở Việt-nam quá trình ấy diễn ra từ đầu thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII. Thời kỳ văn học này có thể gọi là thời văn học tiền cổ điển . Năm xuất hiện Chinh phụ ngâm (1745) mở đầu thời cổ điển của văn học Việt-nam. Thời này chia làm ba giai đoạn: một giai đoạn toàn thịnh của văn học cổ điển, từ 1745 đến 1820 (truyện Thúy Kiều kết thúc giai đoạn này); một giai đoạn suy nhược của văn học cổ điển, từ 1820 đến 1862 (Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ kết thúc giai đoạn này); một giai đoạn văn học hậu cổ điển từ 1862 đến 1905.

4) Văn học cận đại Việt-nam xuất hiện với sự thành hình của xã hội Việt-nam cận đại, năm 1905. Đứng về mặt tính chất lịch sử mà xét thì xã hội Việt-nam cận đại chỉ là xã hội thuộc địa bán phong kiến. Quá trình biến hóa chung của xã hội Việt-nam từ 1905 đến 1945, căn bản, là quá trình biến hóa trong chu vi của chế độ thuộc địa bán phong kiến và do chế độ này quyết định. Cách mạng tháng Tám chấm dứt chế độ và quá trình ấy, mở ra một thời đại mới của lịch sử xã hội Việt-nam.

Ý thức hệ chủ yếu của văn học cận đại Việt-nam là ý thức hệ tư sản, tiểu tư sản. Lý tưởng thẩm mỹ, chủ đề sáng tác, nhân vật văn học, loại văn, ngữ ngôn, bút pháp cũng như các điều kiện hoạt động của nhà văn, thành phần các độc giả, đều mang tính chất tư sản và tiểu tư sản. Văn học cận đại Việt-nam, căn bản là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản trong chế độ thuộc địa bán phong kiến. Nó gồm hai giai đoạn lớn: từ 1905 đến 1930 là giai đoạn xây dựng nền móng của văn học tư sản và tiểu tư sản; từ 1930 đến 1945 là giai đoạn thịnh vượng và dần dần bế tắc của văn học tư sản, tiểu tư sản.

Trong thời văn học cận đại này, sự hoạt động cách mạng của Đảng Cộng sản Đông-dương và sự đấu tranh của quần chúng lao động (từ 1930 về sau) có tác dụng tăng cường tính phê phán tố cáo của khuynh hướng văn học hiện thực chủ nghĩa và tính chiến đấu dũng cảm chống chế độ thuộc địa bán phong kiến của các nhà văn tiểu tư sản tiến bộ. Vì không gặp điều kiện khách quan thuận lợi nên Đảng chưa thể tiến hành lâu dài và làm thắng được một cuộc vận động cách mạng văn học trên cơ sở ý thức hệ vô sản giai cấp. Văn học Việt-nam 1905-1945, tựu chung, vẫn là một văn học thuộc vào phạm trù tư tưởng và nghệ thuật tư sản và tiểu tư sản – một phạm trù cận đại.

5) Văn học hiện đại Việt-nam là một văn học xuất hiện trên cơ sở của chế độ dân chủ nhân dân thiết lập từ sau Cách mạng tháng Tám và được củng cố trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc (1945-1954). Đồng thời với quá trình biến đổi của xã hội Việt-nam, văn học kinh qua một biến đổi triệt để, quyết định. Cả hai (xã hội và văn học) đã nhập hẳn vào hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Những nhân tố mới phân biệt dứt khoát văn học sau Cách mạng tháng Tám với nền văn học trước Cách mạng tháng Tám là: ưu thế gần như tuyệt đối của lập trường tư tưởng văn nghệ vô sản giai cấp trong văn học; nhà văn thâm nhập quần chúng, phục vụ chính trị và tham gia cải tạo xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng tiền phong; sự biểu hiện những anh hùng hiện đại của dân tộc và cuộc sống mới của xã hội do quần chúng nhân dân sáng tạo ra; sự nẩy nở một quần chúng độc giả cách mạng ảnh hưởng càng ngày càng quyết định đến hướng phát triển của văn học. Đó là bốn nhân tố mà trước Cách mạng tháng Tám văn học Việt-nam chưa thể có được. Với bốn nhân tố ấy, văn học Việt-nam tự gắn chặt mình vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới của giai cấp vô sản, nội dung lịch sử cơ bản của thời hiệnđại.

Hà-nội, tháng Mười 1957