Chương 1 ĐIỆP VỤ VENLO
Trở về Berlin, tôi báo cáo với Heydrich về công việc đã làm ở Ruhr và trình bày suy nghĩ của mình rằng việc bố trí một vài nhân viên phản gián ở đó rõ ràng là không đáp ứng đủ đối với một khu vực quan trọng nhường ấy. Heydrich chăm chú nghe tôi nói hết.
— Anh sẽ có dịp làm thay đổi điều đó, - ông ta nói, - nhưng trước khi anh làm việc đó, tôi có một công việc khác cho anh. Chúng ta đã thiết lập một kênh tiếp xúc trực tiếp rất thú vị với tình báo Anh đã được vài tháng. Bằng cách cung cấp các tin giả, chúng ta đã lọt vào tổ chức của họ. Giờ đã đến lúc chúng ta phải quyết định sẽ tiếp tục trò chơi này, hay kết thúc nó; và hài lòng với những gì mà chúng ta đã biết được. Tôi cho rằng anh chính là người phải làm việc này và tôi muốn anh ngay lập tức tập hợp tất cả những tài liệu cần thiết và nghiên cứu chúng để có được ý kiến riêng của mình và sau đó trình bày cho tôi những đề xuất của anh.
Tôi lập tức vùi đầu vào việc nghiên cứu những tài liệu liên quan và dần dần bức tranh đã hiện rõ trước mắt tôi:
Một điệp viên mật mang bí số F479 đã mấy năm liền hoạt động ở Hà Lan. Ông ta đến đó như một nhân vật lưu vong chính trị và tiếp tục hoạt động với tư cách đó ngay cả sau khi bắt đầu làm việc cho chúng tôi. Ông ta đã thiết lập được quan hệ với Cơ quan Tình báo Quân sự Anh. Ông ta làm ra vẻ đã liên hệ được với một nhóm chống đối mạnh trong nội bộ của Wehrmacht[2], mà người Anh vốn rất quan tâm. Họ bắt đầu nghĩ ông ta có ý nghĩa quan trọng đến mức mọi báo cáo của ông ta được gửi thẳng về London và nhờ ông ta chúng tôi có được khả năng cung cấp một luồng tin tức giả liên tục. Ngoài ra ông ta còn thiết lập được một mạng lưới cung cấp tin riêng của mình và bắt được quan hệ với “Phòng Nhì”[3]. Sau khi chiến tranh nổ ra, tình báo Anh lại càng chú ý hơn tới việc thiết lập quan hệ với nhóm chống đối “ma” ấy. Họ nghĩ rằng họ có thể lợi dụng hoạt động của nhóm sĩ quan mưu phản này để lật đổ chế độ của Hitler. Vào thời điểm tôi được bổ sung vào công việc này, điệp vụ đã đạt tới giai đoạn quyết định: người Anh được hứa hẹn gặp gỡ với một đại diện cao cấp của nhóm chống đối.
Sau khi nghiên cứu kỹ càng vụ việc và bàn bạc với những người phụ trách công việc, tôi đi tới kết luận rằng tiếp tục trò chơi có lợi hơn là chấm dứt nó. Vì vậy tôi quyết định đích thân đến Hà Lan để gặp gỡ với các điệp viên của Cơ quan Mật vụ Anh sử dụng các giấy tờ mang tên Đại úy Schemmel, sĩ quan của Cục Liên lạc OKW. Tôi biết rằng ở Cục Vận tải quả thực có một đại úy như vậy nhưng người này đã đi công tác dài ngày sang phía đông.
Sau khi kế hoạch của tôi được duyệt, tôi lên đường tới Dusseldorf, nơi có một cơ sở tình báo ngầm bố trí trong một ngôi nhà không lớn của tư nhân. Cơ sở này được trang bị đầy đủ để hoạt động bí mật, có một đường dây điện tín và điện thoại liên lạc trực tiếp với trung tâm ở Berlin.
Cùng lúc ấy Berlin sẽ liên lạc với điệp viên F749 của chúng tôi, chỉ thị cho ông ta phải thỏa thuận được về cuộc tiếp xúc giữa đại úy Schemmel với các nhân viên tình báo Anh. Rất tiếc là hoàn cảnh không cho phép tôi gặp gỡ trước với F479 và thảo luận về vấn đề này, vì thế tôi buộc phải trông cậy hoàn toàn vào kinh nghiêm và tài năng của ông ta. Tất nhiên ở đây chứa đựng một hiểm họa đáng kể nhưng điều đó là không tránh khỏi trong công tác mật vụ.
Các thông tin tiếp theo được chuyển đến cho tôi từ Berlin qua đường bưu chính hàng không và tôi nghiên cứu chúng một cách kỹ càng. Tôi cần phải học thật thuộc câu chuyện bịa đặt của mình, nhớ kỹ từng chi tiết của âm mưu phản loạn tưởng tượng mà chúng tôi đã lập kế hoạch, cũng như tên tuổi và quan hệ của những nhân vật khác nhau, đồng thời cũng phải nắm vững tất cả những thông tin có được về những tình báo viên Anh mà tôi sẽ phải gặp. Tôi đã nhận được tài liệu chi tiết về đại úy Schemmel, về quá khứ, lối sống, hành vi cư xử và vẻ ngoài của anh ta, giả sử: anh ta luôn mang kính một tròng vì thế tôi cũng phải học cách đeo kính đó; điều này nói chung không khó khăn lắm bởi vì mắt phải của tôi bị cận thị. Có được thông tin mật về nhóm chống đối càng nhiều bao nhiêu, tôi càng có khả năng tranh thủ được lòng tin của người Anh, bởi vì chỉ một sơ xuất nhỏ chắc chắn sẽ làm họ nghi ngờ ngay.
Cuối cùng, 6 giờ chiều ngày 20 tháng 10 tôi nhận được thông báo: “Cuộc gặp được ấn định vào ngày 21 tháng 10 ở Sutfen - Hà Lan”. Một trong những nhân viên của chúng, tôi phải hộ tống tôi. Nhân viên này biết rõ mọi ngóc ngách của công việc bởi vì điệp viên F479 đã nhiều lần làm việc dưới quyền anh ta. Lần cuối cùng chúng tôi kiểm tra lại hộ chiếu mang theo và giấy tờ xe (hải quan và cảnh sát biên phòng Đức đã nhận được chỉ thị không đưa ra những câu hỏi thừa khi chúng tôi qua). Hành lý chúng tôi mang không nhiều và tôi đặc biệt chú ý kiểm tra quần áo, đồ lót, từng thứ một, xem có dấu hiệu gì có thể làm lộ tung tích thực sự của chúng tôi. Sự sơ xuất đối với những chi tiết nhỏ nhặt có thể dẫn đến việc đổ vỡ ngay cả một điệp vụ được lên kế hoạch cẩn thận nhất.
Chiều hôm đó, tôi hết sức ngạc nhiên khi Heydrich gọi điện. Ông ta báo tin là đã nhận được phép cho tôi tiến hành “đàm phán” theo cách tôi cho là cần thiết. Tôi đã được trao quyền hoàn toàn tự do hành động. Cuối cuộc điện đàm ông ta nói: “Tôi muốn nhắc để anh hết sức thận trọng. Thật là hết sức tồi tệ nếu như có chuyện gì xảy ra với anh. Nhưng nếu đột nhiên có chuyện gì bất lợi thì anh nhớ rằng tôi đã báo trước cho tất cả các tiền đồn dọc biên giới. Tôi muốn khi trở về anh gọi điện cho tôi ngay”.
Tôi hơi ngạc nhiên trước biểu hiện quan tâm như vậy. Nhưng tôi hiểu cơ sở của sự quan tâm đó không chỉ là tình cảm con người mà còn là các ý tưởng thực tế.
Sáng sớm ngày 21 tháng 10 chúng tôi lên đường đi về phía Hà Lan. Trời u ám và có mưa. Đồng nghiệp của tôi ngồi sau tay lái, tôi ngồi ghế sau anh ta và ngay lập tức đắm chìm vào suy nghĩ. Tôi không làm cách nào dẹp đi trong tâm trí nỗi bồn chồn lo lắng, chủ yếu là vì tôi không có dịp thỏa thuận trước với điệp viên F479; và khi xe càng gần tới biên giới, sự bồn chồn lo lắng càng tăng. Chúng tôi làm thủ tục ở biên giới Đức một cách dễ dàng và nhanh chóng, nhưng bên phía Hà Lan thì khó chịu hơn: họ đòi khám xét cẩn thận. Rồi cuối cùng họ cũng để chúng tôi đi mà không xảy ra vấn đề nghiêm trọng gì.
Khi chúng tôi đến Sutfen; tại chỗ hẹn có một chiếc xe “Buick” lớn đã đỗ chờ chúng tôi. Người ngồi sau tay lái tự giới thiệu là đại úy Best, nhân viên tình báo Anh. Sau những câu trao đổi xã giao ngắn, tôi vào xe anh ta và ngồi ở phía sau. Đồng nghiệp của tôi lái xé bám theo sau xe chúng tôi.
Đại úy Best cũng đeo kính một tròng và nói tiếng Đức rất tuyệt, vì thế chẳng bao lâu giữa chúng tôi đã thiết lập được mối quan hệ thân hữu. Sở thích chung của chúng tôi đối với âm nhạc - đại úy xem ra cùng là một tay chơi vĩ cầm khá - đã làm tan sự băng giá trong quan hệ, nói chuyên với anh ta dễ chịu thoải mái đến mức tôi giật mình cảm thấy cứ thế này thì một lát nữa khéo tôi quên mất mục đích chuyến đi của mình. Nhưng nếu như bề ngoài tôi tỏ ra hoàn toàn bình thản thì trong lòng tôi lại hết sức căng thẳng chờ đợi. Đại úy Best bắt đầu nói về công việc mà chính vì nó chúng tôi phải hẹn gặp nhau. Xem chừng anh ta không muốn làm điều đó chừng nào chúng tôi còn chưa đến Arnhem, nơi các đồng nghiệp của anh ta - thiếu tá Stevens và trung úy Coppens sẽ nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi tới, họ liền ngồi vào xe và chúng tôi chạy tiếp. Câu chuyện diễn ra vào lúc chiếc “Buick” chạy trên những con đường của vùng nông thôn Hà Lan.
Xem xa họ đã mặc nhiên công nhận tôi là đại diện của một nhóm đối lập mạnh gồm các sĩ quan cao cấp của quân đội Đức. Tôi thông báo với họ rằng lãnh đạo nhóm đó là một vị tướng Đức nhưng tôi không được ủy quyền nêu tên ông ta ở giai đoạn thương thuyết này. Mục đích của chúng tôi là dùng vũ lực lật đổ Hitler và thiết lập một chế độ mới. Nhiệm vụ của tôi trong cuộc đàm phán này là thăm dò thái độ của chính phủ Anh đối với chính phủ mới do quân đội Đức kiểm soát và xác minh xem phía Anh có ý định ký kết một thỏa ước bí mật với nhóm của chúng tôi không, mà kết quả của thỏa ước đó sẽ là một hiệp ước hòa bình ký kết ngay sau khi chúng tôi lên nắm chính quyền.
Các sĩ quan Anh cam đoan với chúng tôi rằng chính phủ của đức Nữ hoàng tối cao rõ ràng là quan tâm tới hoạt động của chúng tôi và rằng chính phủ họ đánh giá xứng đáng ý nghĩa to lớn cửa việc ngăn chặn chiến tranh tiếp tục mở rộng và sự vãn hồi hòa bình. Họ hoan nghênh việc loại bỏ Hitler cùng chế độ của hắn. Họ sẽ dành cho chúng tôi sự giúp đỡ và ủng hộ hết mức trong phạm vi khả năng của họ. Còn việc thỏa thuận cam kết về mặt chính trị thì ở thời điểm này họ chưa được ủy quyền tiến hành. Nhưng nếu như lần gặp sau có mặt người lãnh đạo nhóm chúng tôi hoặc bất kỳ một viên tướng Đức nào khác thì họ tin tưởng rằng có thể cho chúng tôi những tuyên bố cụ thể từ phía chính phủ của đức Nữ hoàng tối cao. Họ cam đoan với tôi là bất kỳ lúc nào cũng có thể liên lạc với Foreign Office và với Downing Street[4].
Rõ ràng là tôi đã phần nào làm cho các sĩ quan Anh tin cậy. Chúng tôi thỏa thuận sẽ tiếp tục thương thuyết vào ngày 30 tháng 10 ở văn phòng Trung tâm Tình báo Anh tại LaHaye. Tôi hứa là lần tới tôi sẽ là người đầu tiên tới để gặp họ; và sau những câu trao đổi tạm biệt, chúng tôi thân mật chia tay nhau với tình cảm bạn bè. Trên đường trở về và đi ngang qua biên giới mọi việc diễn ra suôn sẻ.
Vừa về đến Dusseldorf, tôi lập tức gọi điện về Berlin để báo cáo mình đã trở về. Tôi được lệnh trở về ngay để đích thân báo cáo và thảo luận những bước tiếp theo.
Tôi về đến Berlin lúc trời đã tối và sau một cuộc thảo luận đến tận khuya, cấp trên đã quyết định trao cho tôi toàn quyền soạn thảo kế hoạch tiếp tục đàm phán. Tôi cũng được giao quyền tự do hành động và lựa chọn những nhân viên thích hợp.
Trong vài ngày sau đó tôi soạn thảo kế hoạch của mình. Tôi quen dành thời gian rỗi của mình cho không khí tĩnh lặng và yên ả thường trực trong ngôi nhà người bạn tốt nhất của tôi - Wake de Crinis, giáo sư trường Đại học Tổng hợp Berlin và chủ nhiệm khoa tâm thần của bệnh viện Charite nổi tiếng. Đó là một người chủ nhà đặc biệt lịch thiệp và dễ mến, trong nhiều năm đã đón tiếp tôi như con cái trong nhà. Ở đó tôi có một căn phòng riêng của mình và tôi có thể đến và đi tùy ý. Vào một ngày, khi tôi đang lên kế hoạch thì giáo sư de Crinis bước vào phòng và thuyết phục tôi cùng cưỡi ngựa dạo chơi với ông vì không khí trong lành sẽ làm đầu óc tôi sáng ra. Chúng tôi hăng hái phi nước kiệu, bất chợt trong đầu tôi lóe lên một ý tưởng. Tôi kể cho giáo sư de Crinis về điệp vụ ở Hà Lan và hỏi liệu ông có thể đi với tôi tới LaHaye không. De Crinis nguyên là đại tá quân y của quân đội Đức, sinh ở vùng Graz nước Áo và lớn tuổi hơn tôi nhiều, vốn là một người bệ vệ, sang trọng, văn hóa và trí thức, ông là người lý tưởng với vai trò tôi định ra cho ông, còn giọng nói hơi pha thổ âm Áo của ông sẽ làm cho vai diễn của ông càng thêm thuyết phục. Tôi quyết định trong lần gặp tới với người Anh sẽ giới thiệu ông như là “cánh tay phải” của người lãnh đạo nhóm chống đối của chúng tôi. De Crinis nhiệt tình đồng ý đi với tôi và kế hoạch của tôi đã được Tổng cục An ninh phê duyệt thông qua các thủ tục quy định.
Ngày 29 tháng 10, giáo sư de Crinis, tôi và một nhân viên đã đi cùng với tôi trong cuộc gặp lần trước lên xe rời khỏi Berlin. Dừng lại ở Dusseldorf, suốt đêm chúng tôi làm những công việc chuẩn bị cuối cùng. Tôi quyết định trong suốt đoạn đường còn lại sẽ không nói gì đến nhiệm vụ và đây là chỉ thị cuối cùng của tôi.
Tôi thỏa thuận với giáo sư về các ám hiệu mà tôi có thể dùng trao đổi với ông trong cuộc đàm luận với người Anh: nếu tôi tháo chiếc kính một tròng bằng tay trái có nghĩa là ông phải im lặng ngay và đề nghị tôi thương thảo tiếp; nếu tôi tháo nó ra bằng tay phải nghĩa là tôi cần sự ủng hộ của ông. Ám hiệu ngừng ngay cuộc thương thảo là lời than phiền đau đầu của tôi.
Trước khi lên đường, tôi cẩn thận xem lại hành lý của giáo sư. Lần này chúng tôi qua biên giới mà không xảy ra chuyện gì.
Đến Arnhem, chúng tôi chạy đến ngã tư đường, nơi đã hẹn giữa trưa sẽ gặp những người bạn Anh của mình. Chúng tôi đến đó lúc 12 giờ kém 15, vẫn chưa thấy họ. Nửa giờ trôi qua không có chuyện gì xảy ra trong khi chúng tôi chầm chậm chạy xe hết lên lại xuống dọc theo con phố. Ba mươi phút rồi bốn nhăm phút. Tâm trạng bồn chồn cứ tăng dần từng phút một, vẫn không thấy bóng dáng họ. Giáo sư de Crinis không quen với các tình huống thế này nên dĩ nhiên bị căng thẳng, ông hỏi chúng tôi luôn và tôi cố gắng làm ông yên lòng.
Chợt chúng tôi thấy có hai cảnh sát Hà Lan tiến về phía ô tô của chúng tôi. Một người nói tiếng Hà Lan hỏi chúng tôi ở đây làm gì. Nhân viên mật đi cùng tôi trả lời là chúng tôi đang chờ bạn bè. Người cảnh sát lắc đầu, ngồi vào xe chúng tôi và ra lệnh chạy về đồn. Sự việc có đầy đủ dấu hiệu cho thấy là chúng tôi đã sập bẫy. Việc chính yếu bây giờ là phải giữ được bình tĩnh và tự kiềm chế. Ở đồn cảnh sát họ cư xử với chúng tôi rất lịch sự, nhưng mặc cho chúng tôi phản đối, họ vẫn khám xét người và hành lý của chúng tôi. Họ làm việc đó rất kỹ càng, chẳng hạn, mỗi một đồ vật trong va li xách tay của giáo sư de Crinis được săm soi hết sức cẩn thận. Trong lúc họ làm việc đó, tôi tự điểm lại hành lý của chúng tôi một cách kỹ càng lần nữa vì sực nhớ là lúc ở Dusseldorf, do bận rộn với hành lý của giáo sư, tôi không kiểm tra hành lý của nhân viên đi cùng với tôi. Chiếc va li xách tay của anh ta mở toang nằm ngay trên chiếc bàn cạnh tôi và tôi dựng tóc gáy khi phát hiện ra một vỉ thuốc aspirin mang nhãn mác của quân đội Đức, trên đó ghi rõ ràng “Tổng cục Quân y SS” nằm chềnh ềnh bên trong.
Tôi lén đẩy chiếc va li hành lý của mình lúc đó đã được kiểm tra đến sát chiếc va li đó và ngoảnh lại kiểm tra xem có ai theo dõi mình không. Sau đó tôi chộp vội lấy vỉ thuốc aspirin và đồng thời làm rơi chiếc lược chải đầu xuống gầm bàn. Cúi mình xuống nhặt chiếc lược lên, tôi đút vỉ thuốc vào mồm. Những viên thuốc vừa đắng, vừa chua, hơn nữa lớp vỏ giấy bao chúng mắc ở họng tôi, vì thế tôi buộc phải vờ đánh rơi chiếc lược lần nữa và làm như vẻ tìm nó dưới gầm bàn trong lúc gắng sức nuốt chúng. May mà không ai nhận thấy.
Sau đó là cuộc thẩm vấn: Chúng tôi từ đâu đến? Định đi đâu? Bạn bè chúng tôi sẽ gặp là ai? Gặp để bàn về việc gì? Tôi đáp là sẽ từ chối trả lời cho đến khi họ cho phép chúng tôi được tư vấn với luật sư. Tôi cũng khiếu nại một cách đầy lý lẽ thuyết phục về cách họ đối xử với chúng tôi. Cung cách đó thật là quá đáng, không thể biện minh được. Họ thấy giấy tờ và hành lý của chúng tôi hoàn toàn hợp lệ và không có quyền gì giữ chúng tôi lại. Tôi cố ý cư xử một cách thô lỗ và cao ngạo, xem ra, điều đó có tác dụng. Trong thái độ của một vài nhân viên cảnh sát bắt đầu xuất hiện vẻ phân vân rõ rệt nhưng những người còn lại vẫn cố tiếp tục tra xét. Và chúng tôi đã đấu khẩu gần tiếng rưỡi đồng hồ. Thình lình cửa mở và trung úy Coppens bước vào. Anh ta trình cho đám cảnh sát một tờ giấy gì đó, tôi cố ngó vào nhưng không kịp và thái độ của đám cảnh sát đối với chúng tôi chợt thay đổi hẳn.
Khi chúng tôi ra khỏi đồn cảnh sát thì thấy đại úy Best và thiếu tá Stevens ngồi trong chiếc “Buick”. Họ giải thích việc vừa xảy ra là một sơ xuất nghiêm trọng. Họ chờ chúng tôi ở ngã tư khác, và sau đó đã mất nhiều thì giờ tìm kiếm chúng tôi. Họ cứ xin lỗi mãi, nói rằng những điều khó chịu vừa xảy ra là do sự hiểu lầm đáng tiếc. Dĩ nhiên tôi biết rõ mọi chuyện xảy ra là do họ sắp đặt trước. Họ sử dụng việc bắt giữ, kiểm soát và thẩm vấn như một cách thức kiểm tra tuyệt diệu để khẳng định rằng chúng tôi là những người đúng như chúng tôi tự xưng. Tôi hiểu là chúng tôi cần sẵn sàng cho những cuộc kiểm tra tiếp theo.
Chúng tôi đi rất nhanh tới LaHaye. Đến nơi, chúng tôi bước vào một gian phòng lớn thuộc bộ phận thiếu tá Stevens công tác. Ở đây chúng tôi bắt đầu đàm phán. Nhân vật chính phía Anh là đại úy Best. Sau khi thảo luận kỹ càng và chi tiết, rốt cuộc chúng tôi đi tới thỏa thuận: sau khi lật đổ về mặt chính trị, Hitler và các tay chân thân cận của ông ta phải ngay lập tức ký kết hiệp ước hòa bình với các cường quốc Phương Tây; phải thảo ra các điều kiện để khôi phục lại vị thế quốc gia trước đây của Áo, Tiệp Khắc và Ba Lan, từ bỏ đường lối chính trị kinh tế của đế chế Đức và đưa nó trở lại với các tiêu chuẩn vàng quốc tế. Một trong những vấn đề quan trọng nhất khi chúng tôi thảo luận là khả năng trả lại cho nước Đức các thuộc địa mà nó vốn có từ trước Chiến tranh Thế giới thứ I. Vấn đề này luôn là mối quan tâm của tôi và tôi đã trở đi trở lại bàn về nó mấy lần. Tôi nhấn mạnh rằng điều quan trọng đối với tất cả các bên là làm sao để nước Đức có một chiếc van bảo hiểm đối với sự dư thừa dân số, nếu không, trong trường hợp ngược lại, sức ép của Đức về các đường biên giới phía đông cũng như phía tây luôn tạo nên các lò lửa căng thẳng ở Trung Âu như cũ.
Các đối tác thương lượng của chúng tôi công nhận tầm quan trọng của vấn đề và đồng ý là phải tìm được một giải pháp có thể làm vừa lòng nước Đức. Họ cho rằng có thể tìm được một công thức có thể đảm bảo cho Đức những quyền lợi kinh tế cần thiết và công thức đó về mặt chính trị phù hợp với hệ thống công ước đang tồn tại.
Cuối cùng, chúng tôi soạn thảo các kết quả thương lượng dưới dạng một bản ghi nhớ. Sau đó thiếu tá Stevens đi ra ngoài để thông báo cho London về kết quả đạt được qua điện thoại. Chừng nửa giờ sau ông ta quay lại và tuyên bố London phản ứng thuận lợi nhưng thỏa thuận còn phải được thống nhất với huân tước Golifaks - bộ trưởng ngoại giao nữa. Việc này chắc chắn sẽ được tiến hành ngay và chúng tôi có thể tính đến một quyết định rõ ràng sẽ có trong vòng chiều tối nay. Trong thời gian đó bên phía chúng tôi cần phải có một tuyên bố về các dự định bao gồm những giải pháp cụ thể và dứt khoát của phe đối lập và trong đó phải bao hàm lịch trình chính xác về thời gian.
Cuộc đàm phán kéo dài gần ba tiếng rưỡi đồng hồ. Khi sắp kết thúc tôi bị một cơn đau đầu thật sự, chủ yếu là vì tôi đã hút quá nhiều thứ thuốc lá nặng mà mình không quen của Anh. Trong khi thiếu tá Stevens nói chuyện với London, tôi ra ngoài để cho đầu óc tỉnh táo, vào phòng tắm, đưa cổ tay cho dòng nước lạnh xối xuống và cứ đứng như thế, chìm đắm trong suy nghĩ cho đến khi đại úy Best bất chợt bước vào lúc nào không biết và nhẹ nhàng nói: “Ông lúc nào cũng mang kính một tròng đấy chứ?”. May quá anh ta không nhìn thấy mặt tôi, tôi cảm thấy mặt mình đang đỏ lên. Nhưng chỉ một giây tôi đã kịp trấn tĩnh lại và bình thản trả lời: “Ông biết không, tôi cũng đang định hỏi ông câu đó”.
Khi mọi chuyện đã xong, chúng tôi lên xe để đến ngôi biệt thự của một đồng nghiệp Hà Lan của Best, nơi người ta đã chuẩn bị cho chúng tôi ba căn phòng đầy đủ tiện nghi. Chúng tôi nghỉ ngơi một lát, sau đó thay quần áo vì được mời đi dự tiệc ở nhà Best.
Vợ của Best là con gái của viên tướng Hà Lan Wan Rees, là một họa sĩ vẽ chân dung nổi tiếng. Cuộc nói chuyện quanh bàn tiệc rất dễ chịu và sôi nổi. Stevens đến muộn một chút và giải thích là do bận công việc. Ông ta gọi tôi ra một chỗ và cho biết đã nhận được câu trả lời chấp thuận từ London và đó là một thành công lớn.
Điệp viên F479 của chúng tôi cũng được mời đến dự tiệc và tôi có thể trao đổi với ông ta mà không bị ai quấy rầy trong vòng vài phút. Ông ta rất căng thẳng và không chắc có thể tiếp tục hoạt động trong sự căng thẳng đó nữa. Tôi cố gắng động viên ông ta và nói rằng nếu ông ta kiếm được cớ gì để trở về Đức thì tôi sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình để thu xếp chuyện đó với cấp trên của ông ta ở Berlin.
Bữa tiệc thật tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ được ăn những con sò ngon đến thế. Sau bữa tiệc, Best nói vài lời ngắn ngọn và vui vẻ, còn giáo sư de Crinis đáp lại bằng cái giọng pha âm điệu Áo của mình. Cuộc trao đổi chung sau bữa tiệc rất thú vị và qua đó tôi hiểu hơn thái độ của người Anh đối với cuộc chiến. Họ đối với chiến tranh không phải với thái độ hời hợt và họ sẵn sàng quyết tử. Giả như nước Đức thành công trong việc xâm chiếm nước Anh thì họ sẽ tiến hành chiến tranh từ Canada. Chúng tôi còn bàn luận về hội họa và âm nhạc nữa, và vì trời đã tương đối muộn nên chúng tôi trở lại ngôi biệt thự.
Không may là cơn đau đầu của tôi vẫn chưa chấm dứt và trước khi đi nằm tôi yêu cầu chủ nhà cho tôi thuốc aspirin. Vài phút sau một phụ nữ trẻ đẹp quyến rũ bước vào phòng, mang cho tôi mấy viên aspirin và một cốc nước chanh. Cô ta bắt chuyện với tôi và đưa ra cả một lô câu hỏi. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng đã tìm được cách tống cô ta ra khỏi phòng, hơn nữa lại làm điều đó mà không tỏ ra là bất lịch sự. Sau tất cả những căng thẳng và gắng sức của ngày qua, tôi không còn đủ sức làm thỏa mãn trí tò mò của cô ta mà không gây nguy hiểm cho bản thân mình.
Sáng hôm sau tôi chạm trán với giáo sư de Crinis trong phòng tắm. Với nét mặt rạng rỡ, ông nói với tôi bằng cái giọng Áo lơ lớ: “Thế nào, các chàng trai ấy thực sự biết làm việc đấy chứ, đúng không?”.
Một bữa ăn sáng Hà Lan thịnh soạn được dọn ra cho chúng tôi để có thể lấy sức trước khi lên đường trở về. 9 giờ sáng xe đến đón chúng tôi đi dự cuộc họp bế mạc được tổ chức ở Văn phòng hãng buôn “Thương mại xuyên lục địa”, thực tế là một cơ sở trá hình của tình báo Anh nằm trên đường New Witleg N-15. Chúng tôi được trao một điện đài của Anh và một mã liên lạc riêng giúp chúng tôi có thể liên lạc với trạm liên lạc của tình báo Anh ở LaHaye. Mật hiệu của chúng tôi là O-N-4. Trung úy Coppens trao tận tay chúng tôi giấy tờ có lời đề nghị chính quyền Hà Lan giúp cho người mang giấy này được gọi điện đến LaHaye theo số điện thoại bí mật mà tôi còn nhớ là 556-331 để tránh cho chúng tôi khỏi gặp phải những vụ việc khó chịu tương tự như đã xảy ra vừa qua. Rồi sau khi chúng tôi quyết định thỏa thuận về thời gian và địa điểm cuộc gặp tiếp theo trên điện đài, đại úy Best tiễn chúng tôi đến tận biên giới và chúng tôi qua đó mà không gặp khó khăn nào.
Lần này chúng tôi không dừng lại ở Dusseldorf mà đi thẳng về Berlin. Ngày hôm sau tôi làm báo cáo và đề nghị thử tiếp tục cuộc đàm phán nhằm mục đích đến được London.
Trong suốt tuần sau đó phía Anh đã ba lần yêu cầu chúng tôi ấn định thời gian gặp gỡ tiếp. Chúng tôi ngày nào cũng liên lạc với họ theo mã gọi O-N-4 qua điện đài vốn hoạt động rất tốt. Nhưng tới mồng 6 tháng 11 chúng tôi vẫn chưa nhận được chỉ lệnh của Berlin và tôi bắt đầu sợ rằng sẽ mất cơ hội tiếp xúc với Anh. Vì thế tôi quyết định thể hiện sáng kiến riêng của mình. Tôi đồng ý gặp họ vào ngày mồng 7 tháng 11 và rốt cuộc đã thỏa thuận gặp họ tại một quán cà phê cách biên giới không xa vào lúc hai giờ chiều. Trong cuộc gặp, tôi giải thích cho Best và Stevens rằng chuyến ghé thăm Berlin của tôi kéo dài hơn dự kiến và rất tiếc là phe đối lập ở Đức chưa thể đi tới một quyết định dứt khoát. Sau đó tôi đưa ra đề nghị rằng có thể tốt hơn nếu như tôi đến London cùng với vị tướng (người lãnh đạo phe đối lập không tồn tại trong thực tế) và ở đó quyết định dứt khoát có thể sẽ được thông qua ở cấp cao cùng với chính phủ Anh. Các nhân viên tình báo Anh không có ý kiến phản đối nào và nói rằng ngày mai họ có thể chuẩn bị một máy bay đặc biệt đỗ ở sân bay Sheefan của Hà Lan để đưa chúng tôi tới London. Cuối cùng chúng tôi thỏa thuận là ngày hôm sau tôi sẽ cố gắng đưa người lãnh đạo phe đối lập ở Đức tới chỗ ấy và cũng vào giờ ấy.
Tôi trở về Dusseldorf, nhưng vẫn không có chỉ lệnh của Berlin. Lúc ấy tôi buộc phải gửi đi Berlin một công văn khẩn trong đó cảnh báo rõ là nếu các bước quyết định tiếp theo không được duyệt thì vị thế của tôi sẽ không còn vững chắc nữa. Tôi nhận được lời đáp là Hitler còn chưa thông qua quyết định mà lại nghiêng về hướng chấm dứt đàm phán. Ông ta cho rằng chúng tôi đã đi quá xa. Có lẽ bất kì một cuộc thảo luận nào về việc phế bỏ ông ta, dù là giả vờ, cũng làm ông ta cảm thấy bất an và không thoải mái.
Thế đấy, tôi ngồi ở Dusseldorf cảm thấy hoang mang và bất lực, nhưng cuộc chơi đã lôi cuốn tôi hoàn toàn và tôi quyết định tiếp tục. Tôi liên lạc bằng điện đài với LaHaye và khẳng định lại việc tôi sẽ tham gia vào cuộc gặp ngày mai. Phải thú nhận rằng vào lúc này tôi vẫn chưa hình dung nổi mình sẽ nói gì với những người bạn Anh. Tôi hiểu là đã tự đặt mình vào một hoàn cảnh rất nguy hiểm. Nếu như họ có một thoáng nghi ngờ, dù chỉ là rất nhỏ, đối với tôi, họ sẽ nhanh chóng bắt giữ tôi và tất cả sự việc sẽ kết thúc một cách bi thảm. Tôi thấy bực tức với Berlin dù hiểu rằng ở đấy người ta có những lý do nặng ký để lưỡng lự: Hitler đã ấn định ngày 14 tháng 11 là ngày bắt đầu cuộc tấn công sang hướng tây. Có thể nguyên nhân chính của việc từ bỏ kế hoạch ấy là do thời tiết đột ngột xấu đi đúng vào ngày hôm đó, nhưng sau này Hitler không phủ nhận việc tôi đàm phán với các tình báo viên của Anh đã hỗ trợ cho việc đó.
Tôi trải qua một đêm mất ngủ. Những kế hoạch hết sức khác nhau cứ quay cuồng hỗn loạn trong đầu. Trong lúc ăn sáng tôi lướt qua các báo ra buổi sáng. Những dòng tít thông báo rằng quốc vương nước Bỉ và nữ hoàng Hà Lan đã phát biểu một đề nghị chung là nên bắt đầu đàm phán giữa hai bên tham chiến. Tôi thở ra nhẹ nhõm, đây sẽ là giải pháp cho vấn đề của tôi. Trong cuộc gặp hôm nay tôi chỉ cần thông báo với các tình báo viên Anh rằng phe đối lập của Đức đã quyết định chờ thêm chút nữa để xem Hitler phản ứng thế nào với đề nghị của phía Bỉ và Hà Lan. Tôi sẽ nói thêm là bệnh tật đã ngăn trở người lãnh đạo phe đối lập tham gia vào cuộc gặp gỡ ngày hôm nay, nhưng ông ta nhất định sẽ có mặt vào ngày mai, và có lẽ muốn bay đi London. Đó là kế hoạch thương thuyết ngày hôm nay của tôi.
Cũng sáng hôm đó tôi có cuộc nói chuyện với người mà tôi chọn đóng vai viên tướng lãnh đạo nhóm chống đối của chúng tôi. Ông là một nhà công nghiệp nhưng đồng thời cũng mang một cấp hàm danh dự cao trong quân đội và là một chỉ huy SS. Tóm lại ông hoàn toàn thích hợp cho vai trò này.
Tôi lại vượt biên giới vào tầm trưa, lần này tôi phải chờ trong quán cà phê chừng 45 phút. Tôi nhận thấy có một vài người vẻ ngoài trông giống như các thực khách vô hại đang chăm chú theo dõi tôi: rõ ràng là phía Anh lại nghi ngờ điều gì đó.
Cuối cùng bọn họ cũng đến. Nhưng lần này cuộc gặp hết sức ngắn ngủi và tôi thoải mái giải thích cho họ về tình huống mới nảy sinh như tôi đã lên kế hoạch sáng nay. Sau những giải thích của tôi về nguyên nhân chậm trễ, sự nghi ngờ của họ hoàn toàn tan biến và khi chúng tôi chào tạm biệt nhau, mối quan hệ của chúng tôi đã trở lại nồng ấm chân thành như các cuộc gặp trước. Buổi chiều ở Dusseldorf, chỉ huy đội SS gọi điện cho tôi. Theo lệnh của Berlin, ông ta được bổ nhiệm làm chỉ huy một đơn vị đặc nhiệm được giao nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho chuyến đi qua biên giới của tôi. Ông ta thông báo là Berlin rất lo lắng cho sự an toàn của tôi. Ông ta nhận được lệnh kiểm soát toàn bộ khu vực biên giới và ngăn chặn toàn bộ cảnh sát biên phòng phía Hà Lan trong vùng đó. Nếu như lính Hà Lan dự định bắt tôi, tình hình sẽ trở nên vô cùng phức tạp bởi vì ông ta được lệnh trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được để tôi rơi vào tay đối phương và hậu quả của việc ấy có thể trở thành một vụ xung đột nghiêm trọng.
Khi nghe điều đó, một xúc cảm kỳ lạ xâm chiếm tôi, đặc biệt là khi tôi nghĩ về những kế hoạch dự kiến cho ngày mai và điều sẽ xảy ra nếu như tôi không có dịp trao đổi đúng lúc với viên chỉ huy SS này. Tôi nói với ông ta rằng ngày mai có thể tôi sẽ đi cùng với các tình báo viên Anh bởi vì nhiệm vụ của tôi là phải đến được London. Nếu như tôi đi với họ một cách tự nguyện tôi sẽ ra dấu cho ông ta, Chúng tôi cũng thảo luận về các biện pháp mà ông ta cần áp dụng trong trường hợp sự ra đi của tôi với người Anh là bắt buộc. Ông ta cam đoan với tôi là sẽ lựa chọn những người thích hợp trong quân số của đơn vị mình. Sau đấy tôi đến gặp nhà tư bản công nghiệp, người sẽ phải đi với tôi tư cách là người lãnh đạo của nhóm đối lập. Chúng tôi đã thảo luận hết sức kỹ càng về mọi chi tiết và cuối cùng, khi tôi nằm nghỉ thì đã quá nửa đêm.
Tôi uống một viên thuốc ngủ để khỏi khổ sở vì một đêm mất ngủ nữa và chìm vào giấc ngủ mê mệt.
Tôi bị đánh thức bởi một hồi chuông điện thoại dồn dập. Đường dây trực tiếp nối với Berlin. Còn chưa tỉnh hẳn, tôi đưa tay sờ soạng cầm ống nghe và bực tức hầm hừ vào đó: “Alô!”. Ở đầu dây bên kia tôi nghe thấy một giọng nói xúc động trầm trầm:
— Ăn nói kiểu gì thế hả?
— Còn nhẹ đấy, - tôi đáp - tôi đang nói chuyện với ai đây”.
Một giọng hơi sẵng đáp lại:
— Thông chế SS Hendrich Himmler đây. Thế nào, anh tỉnh hẳn chưa?
Chút ngái ngủ còn lại của tôi bị nỗi sợ làm tan biến, tôi cố đáp bằng giọng bình thản quen thuộc:
— Rõ thưa sếp.
— Nghe cho rõ đây, - Himmler nói tiếp. - Anh đã biết chuyện gì xảy ra chưa?
— Chưa ạ, thưa sếp, - tôi nói. - Tôi không biết gì cả.
— Hừm, tối nay, ngay sau khi quốc trưởng phát biểu tại quán bia (hàng năm vào ngày 8 tháng 11, để kỷ niệm cuộc bạo động của phe nhóm Hitler tại Muynich năm 1920, ông ta đều phát biểu ở quán bia, nơi cuộc bạo động bắt đầu) đã xảy ra một âm mưu ám sát ngài. Một trái bom đã phát nổ. Rất may là ngài đã kịp rời quán trước đó mấy phút. Một vài cựu đồng chí của đảng (Đảng Quốc xã) đã hy sinh. Tổn thất là đáng kể. Không nghi ngờ gì nữa, Cơ quan Mật vụ Anh đã đứng sau tất cả chuyện này. Quốc trưởng và tôi biết chuyện xảy ra khi đang trên tàu về Berlin. Ngài vừa nói và đó là mệnh lệnh rằng khi nào anh gặp gỡ các nhân viên tình báo Anh ở cuộc họp ngày mai, anh phải bắt chúng ngay và đưa về Đức. Việc đó sẽ xâm phạm biên giới lãnh thổ Hà Lan, song Quốc trưởng nói chuyện đó không có ý nghĩa gì. Đơn vị SS có nhiệm vụ bảo vệ anh - mà tiện đây phải nói là anh không xứng đáng được như thế sau tất cả cách cư xử tùy tiện và đỏng đảnh của anh - đơn vị đó sẽ giúp anh hoàn thành nhiệm vụ. Anh hiểu rồi chứ?
— Vâng, thưa thống chế. Nhưng…
— Không nhưng gì cả, - Himmler sỗ sàng cắt lời. - Đối với anh giờ đây chỉ còn mệnh lệnh của Quốc trưởng mà anh phải thực hiện. Đã hiểu chưa?
Tôi chỉ còn cách trả lời:
— Rõ, thưa sếp.
Tôi hiểu tranh cãi trong tình huống này là vô nghĩa.
Như vậy tôi lại vấp phải một tình huống hoàn toàn mới và giờ đây phải quên đi các kế hoạch vĩ đại tiếp tục đàm phán ở London của mình,
Ngay lập tức tôi đánh thức viên chỉ huy phân đội đặc nhiệm SS và truyền dạt cho ông ta mệnh lệnh của Quốc trưởng. Ông ta và viên phó của mình tỏ ra hết sức nghi ngờ về kế hoạch và nói rằng thực hiện nó sẽ không đơn giản chút nào. Địa hình ở đó không thật thích hợp để tiến hành một chiến dịch như vậy, hơn nữa trong vòng mấy ngày vừa qua toàn bộ khu vực biên giới gần Venlo đã bị các đơn vị bảo vệ biên giới và cảnh sát mật phía Hà Lan phong toả rất chặt chẽ, đến mức khó có thể tiến hành bắt giữ người phía họ mà không nổ súng. Bắt đầu nổ súng còn dễ dàng hơn nhiều so với việc chấm dứt nó. Ưu thế chính của phía chúng tôi là yếu tố bất ngờ. Cả hai viên chỉ huy SS nhận định rằng nếu như chúng tôi chờ cho đúng lúc các tình báo viên Anh nhập bọn với chúng tôi trong quán cà phê rồi cùng bắt đầu ngồi đàm phán thì đã quá muộn. Cần phải hành động vào đúng thời điểm chiếc “Buick” của Best đến. Họ đã nhìn kỹ chiếc xe đó mấy ngày vừa qua và tin rằng sẽ nhận ra nó ngay. Vào thời điểm những người Anh đến, những chiếc xe của đơn vị SS chúng tôi sẽ chạy hết tốc độ vượt qua đường biên, bắt giữ những người Anh, lôi họ ra khỏi xe, tống vào xe của mình. Người lái xe của đơn vị SS rất thành thạo lái xe khi cài số lùi, anh ta thậm chí không cần quay đầu xe và điều đó sẽ tạo cho binh lính ss có được một khoảng trống lớn để phát huy hỏa lực, đồng thời lúc đó sẽ có một số lính được bố trí phía bên phải và bên trái để bảo vệ sườn khi rút lui. Hai viên chỉ huy SS đề nghị tôi không tham gia vào chiến dịch và chỉ ngồi chờ bọn Anh trong quán cà phê. Khi xe của bọn chúng đến gần, tôi phải bước ra phố làm ra vẻ chuẩn bị chào hỏi bọn chúng. Sau đấy tôi phải ngồi vào xe riêng của mình và chạy về ngay lập tức.
Kế hoạch này hợp ý tôi và tôi đồng ý ngay. Nhưng tôi yêu cầu giới thiệu mình với mười hai thành viên của đơn vị đặc nhiệm, tôi muốn tất cả bọn họ nhìn rõ mặt tôi. Đại úy Best, mặc dù cao hơn tôi một chút, tầm vóc thân hình cũng tương tự, mặc một chiếc pantô giống tôi và cũng đeo kính một tròng, vì thế tôi muốn tin chắc rằng sẽ không xảy ra một sai sót nào.
Sự việc đã diễn ra đúng như kế hoạch của phía Đức. Ba sĩ quan tình báo Anh đã bị bắt cóc và đưa về cơ quan Ghestapo thẩm vấn, sau đó bị tống vào trại tập trung. Hai người trong số họ đã chết, chỉ còn đại úy Best là may mắn sống sót và được quân đồng minh cứu thoát vào cuối năm 1944.
[2] Wehrmacht: Quân đội đế chế Đức.
[3] Phòng Nhì: Cơ quan tình báo Pháp.
[4] Foreign Office và Downing Street: Bộ Ngoại giao và Chính phủ Anh.