Chương 2 CHIẾN TRANH VỚI NƯỚC NGA
Mùa xuân năm 1941 đến lặng lẽ, hầu như không cảm nhận được trong cái nồi hơi chiến tranh có tên là Berlin. Tôi thấy thần kinh căng thẳng và cảm thấy một nỗi lo lắng mơ hồ và một sự thiếu tự tin vô thức, mặc dù không thể xác định nguyên nhân thực sự của những nỗi bất an đó. Dù sao đi nữa, tôi có cảm giác là mình đã cảm nhận được bóng dáng manh nha của các sự kiện vô cùng to lớn đến mức không thể nói chúng là kết quả của sự tác động của bất kỳ cá nhân nào.
Trong những cuộc cưỡi ngựa đi dạo của tôi và đô đốc Canaris vào buổi sáng sớm, chúng tôi thường bàn luận về các tin tức được đưa đến cơ quan của chúng tôi. Rất tiếc là hai cơ quan này thường hoạt động trùng lặp và điều đó thực chất là một sự phí phạm rất vô ích về sức lực và tiền của. Giữa chúng tôi có sự bất đồng về vấn đề nước Nga, và chúng tôi đã tranh luận với nhau về nó trong rất nhiều tháng. Đầu tiên đó là chuyện liên quan đến những dữ liệu về các sản phẩm của nền công nghiệp nặng của nước Nga. Tôi đánh giá số lượng xe tăng họ sản xuất được cao hơn nhiều so với Canaris, và tin tưởng chắc chắn rằng họ đã đưa vào sản xuất những kiểu xe tăng mới có tính năng vượt trội hơn của chúng tôi, nhưng Canaris không chịu tin điều đó. Tôi đi tới kết luận này trên cơ sở một mệnh lệnh khá là bất thường do Hitler ban ra hồi tháng 3 năm 1941 nhằm gây ấn tượng với người Nga: Chúng tôi phải trình diễn cho phái đoàn quân sự Xô Viết xem những nhà máy sản xuất xe tăng tiên tiến nhất và các trường dạy lái xe tăng, và vì lý do đó buộc phải bãi bỏ các biện pháp an ninh vốn được áp dụng cho các cơ sở ấy (tuy nhiên chúng tôi cũng đã không thực hiện hoàn toàn mệnh lệnh của Quốc trưởng và đã giấu đi các kiểu xe mới nhất của mình). Thái độ mà phía Nga biểu lộ trong cuộc tham quan và các câu hỏi của họ đã khiến tôi kết luận rằng họ có những kiểu xe tăng tốt hơn những kiểu của chúng tôi. Sự xuất hiện của một số lượng lớn xe tăng T-34 trên mặt trận Nga vào mùa hè năm 1941 đã khẳng định tính đúng đắn cho những giả thiết của tôi.
Sự bất đồng về quan điểm lại nảy sinh nhân việc Canaris tuyên bố là ông ta có những tài liệu chứng minh rằng các trung tâm công nghiệp xung quanh Moskva, ở phía đông bắc, phía nam và ở vùng Ural, cũng như các trung tâm cung cấp nguyên liệu chủ yếu chỉ được nối với nhau bằng một tuyến đường sắt đơn. Cơ quan Tình báo của tôi lại nhận được các tin tức khác hẳn. Nhưng Canaris tuyên bố những tài liệu của ông ta đã được kiểm chứng, trong khi đó chúng tôi không có khả năng kiểm tra các tin tức của mình.
Phòng Tình báo Quân sự của các tập đoàn quân viễn chinh “Đông” và “Đông Nam” đã tiến hành các công việc tuyệt vời để đánh giá khách quan các thông tin, và chúng tôi đã đạt được sự phối hợp công tác tốt trong Cục Tình báo của chúng tôi. Nhưng sự bất đồng nói trên giữa Canaris và tôi đã chỉ ra rằng đối với Bộ Chỉ huy Quân đội, nơi chịu trách nhiệm điều động quân, thì việc tiến hành đánh giá đúng đắn các thông tin tình báo được cung cấp để họ kiểm định là một công việc vô cùng phức tạp. Và vì điều đó liên quan đến cấp lãnh đạo tối cao nên công việc đó còn khó khăn hơn rất nhiều. Chẳng hạn, cho đến cuối năm 1944, Hitler đã bác bỏ rất nhiều tin tức không hợp ý, ngay cả khi chúng có đầy đủ cơ sở trên thực tế và trên lập luận.
Phòng Đánh giá Thông tin Tình báo của tập đoàn quân viễn chinh phía Tây hoạt động cũng không hiệu quả so với chúng tôi, bởi vì sự thay đổi nhân sự không ngừng của nó đã đưa tới một tình trạng bất ổn đáng kể và điều đó đã ảnh hưởng tới kết quả công việc. Nhân viên của Phòng Đánh giá Thông tin Tình báo trong lực lượng Luftwaff[5] cũng gặp trở ngại vì đúng lý do đó; hơn nữa bất ổn xảy ra còn do việc cơ quan Ghestapo đã bắt đi những cán bộ chủ chốt của phòng - những người bị phát hiện là thành viên trong nhóm gián điệp “Dàn nhạc đỏ” của Nga và kết quả là sự tin cậy đã mất đi không còn khôi phục lại được nữa.
Dù Canaris có khuynh hướng giảm thiểu những thành tựu của nước Nga, nhưng trong các cuộc bàn luận cuối cùng giữa tôi với ông ta đã nổi lên mối lo ngại rằng chúng tôi sẽ bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với tất cả các hệ lụy nguy hiểm của nó. Ý kiến của Bộ Tổng Tham mưu là ưu thế của chúng tôi về người, về trang bị kỹ thuật, về trình độ chỉ huy lớn đến mức chiến dịch tốc chiến đánh chiếm nước Nga có thể hoàn tất trong vòng mười tuần lễ. Lý thuyết riêng của Heydrich, lý thuyết mà ông ta và Hitler cùng chia sẻ, dựa vào sự suy yếu của hệ thống Xô Viết do những thất bại quân sự và việc thâm nhập tiếp theo của các điệp viên chính trị sẽ hoàn toàn làm tan rã nó. Nhưng tôi và cả Canaris đều thống nhất rằng sự lạc quan của Bộ Chỉ huy tối cao của chúng tôi đơn giản là một sự mù quáng. Hơn nữa, Canaris nhận định về mặt chính trị những lý thuyết của Heydrich là cực kỳ đáng nghi ngờ. Thực tế, đánh giá của Canaris về sức mạnh chính trị của ban lãnh đạo Nga ngược hẳn lại với đánh giá của Heydrich. Ông ta thổ lộ với tôi rằng tuy thế ông ta bất lực không thể thuyết phục được Keitel, thủ trưởng của mình, chấp nhận quan điểm của ông ta. Keitel vẫn khăng khăng cho rằng các sách lược mà Hitler đã hoạch định mạnh đến mức mà hệ thống Xô Viết dù có vững chắc đến đâu đi chăng nữa cũng không đủ sức chống lại chúng. Khi nhớ lại những đánh giá sai lầm của các đồng minh Phương Tây về tiềm lực của Hitler trước chiến tranh, tôi lại càng tin chắc rằng ban lãnh đạo của chúng tôi đang phạm phải sai lầm tương tự. Tôi cố chỉ ra điều đó cho Heydrich bằng cách nói với ông ta rằng khôn ngoan hơn lẽ ra khi lập kế hoạch phải tính tới khả năng Stalin có thể sẽ củng cố được cơ cấu đảng và chính phủ của mình, và đối với ông ta, cuộc chiến tranh mà chúng tôi gây ra cho nước Nga chắc chắn sẽ là nguồn sức mạnh mới chứ không thể làm nó yếu đi. Ngay lập tức Heydrich đã gạt phắt lập luận đó và lạnh lùng thốt ra:
— Nếu như Hitler ban hành mệnh lệnh tiến hành chiến dịch, chúng ta sẽ có những vấn đề mới đấy.
Một lần khác, ông ta bảo tôi:
— Lạ thật, mấy ngày trước Canaris cũng nói với tôi đúng những ý kiến ấy. Đôi khi tôi có cảm giác là trong những cuộc cưỡi ngựa dạo chơi với nhau buổi sáng hai người các anh đã phát triển những quan điểm sai lầm tuyệt vời ấy.
Vào tháng 5, tôi lại một lần nữa thử bàn luận về vấn đề này khi nói với Heydrich rằng cho dù giả thiết ông ta đúng một trăm phần trăm đi chăng nữa thì để đề phòng, tốt hơn nên thử nghiên cứu các khả năng khác và chuẩn bị đón nhận những bất ngờ ngẫu nhiên khác. Một lần nữa tôi lại bị đặt vào vị trí của mình một cách tàn nhẫn.
— Hãy chấm dứt ngay những lập luận đạo đức giả, thiển cận và sặc mùi thất bại của anh đi! - Ông ta nói. - Anh không có quyền nói như vậy.
Từ đó trở đi tôi thường ngẫm nghĩ, liệu nguyên nhân của thái độ khó chịu bất thường đối với các tình huống có khả năng như vậy phải chăng là sự cuồng tín của các nhà lãnh đạo Đảng Quốc xã khi tin vào thắng lợi tất yếu của các kế hoạch do Hitler đề xướng, hay là nhiều người trong số họ trong thâm tâm cũng đã có những nghi ngờ nhất định nhưng vẻ ngoài, trong những lần bàn luận công khai, cố phủ nhận chúng vì sợ rằng vị thế, quyền chức của mình sẽ bị đe doạ. Thực tế, với việc rất nhiều người trong số họ không hề lo lắng tới sự an toàn của bản thân trong trường hợp xảy ra thảm họa đã chứng minh rằng giả thiết thứ nhất của tôi là đúng và thực tế họ đã tin tưởng mù quáng vào tài lãnh đạo của Hitler. Nhưng ngay cả bây giờ cũng như khi đó tôi đều tin chắc rằng bộ óc của Heydrich đã thản nhiên tính toán nhầm những phương án có thể xảy ra cho ông chủ của mình. Không ai biết thực tế ông ta đang nghĩ gì. Chẳng hạn vào một ngày hè năm 1941, khi chúng tôi cùng có mặt trong ngôi nhà đi săn của ông ta, Heydrich nói ra một câu như sau về phương hướng mà cuộc chiến tranh đã áp dụng:
— Nếu xét về cách chúng ta tiến hành công việc thì mọi chuyên sẽ kết thúc rất tồi tệ. Đưa ra vấn đề người Do Thái là một sự điên rồ hoàn toàn.
Tôi chỉ hiểu rõ ràng ý nghĩa của câu nói đó về vấn đề người Do Thái khi Canaris, sau cái chết của Heydrich, thông báo cho tôi rằng ông ta đã có đầy đủ chứng cứ về nguồn gốc Do Thái của Heydrich. Sự lo lắng thấp thỏm mà Canaris cảm thấy vào thời gian đó về việc tiến hành chiến tranh trên hai mặt trận dường như là biểu hiện tâm trạng bi quan sâu sắc của ông ta. Trong những cuộc nói chuyện với tôi, ông ta thường bất ngờ nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác - chẳng hạn, đang nói về khả năng sản xuất các máy bay ném bom của Mỹ, ông ta lại đột ngột chuyển sang nói về các vấn đề chính trị ở bán đảo Balkan. Đôi khi những câu nói của ông ta khó hiểu, không rõ ràng và mù mờ đến mức chỉ có những ai thân quen với ông ta mới có thể hiểu ông ta định nói vấn đề gì. Điều đó đặc biệt rõ qua các cuộc trao đổi điện thoại với ông ta. Một lần qua điện thoại tôi nói đùa với ông ta rằng tôi coi mình có nghĩa vụ phải thông báo cho Heydrich và Muller về những lời bi quan của ông ta. “Bạn thân mến,” Canaris đáp lại, “ngay cả tôi cũng quên chúng ta đã nói những gì qua điện thoại rồi.”
Khoảng cuối tháng 4 năm 1941, một lần Heydrich gọi điện thoại cho tôi. Ông ta nói mấy câu bóng gió mù mờ về chiến dịch sắp tới chống lại nước Nga, nhưng khi nhận thấy tôi không hiểu ông ta đang nói gì, ông ta liền nói thêm:
— Chúng ta hãy ăn trưa với nhau, lúc đó chúng ta có thể bình tĩnh nói về chuyện này.
Chúng tôi gặp nhau vào lúc một giờ rưỡi ở phòng ăn của Himmler. Khi tôi bước vào đó thì Himmler cũng xuất hiện, vây quanh là cả một nhóm nhân viên. Ông ta vui vẻ chào tôi, sau đó dẫn tôi ra một chỗ:
— Anh sẽ có rất nhiều việc trong vòng mấy tuần tới đấy. - Ông ta nói.
Tôi trả lời một cách khô khan:
— Điều đó đối với tôi không có gì là mới, thưa thống chế.
Himmler cười:
— Không sao, Heydrich sẽ dúi cho anh vô số việc.
Trong bữa ăn trưa, Heydrich đã bàn rất nhiều về vấn đề liên quan đến Balkan, trong đó có vấn đề về liên lạc giữa các đơn vị Đức khác nhau. Rồi ông ta đề nghị thảo luận vấn đề này với các đại diện của Bộ Chỉ huy Quân đội Đức. Sau đó ông ta bắt đầu nói về chiến dịch ở Nga. Trong chừng mực tôi còn nhớ thì ông ta đã nói đại khái như sau:
— Anh đã đúng, Quốc trưởng đã không đạt được một giải pháp thỏa đáng cho các vấn đề chính trị và quân sự đối với nước Anh. Bây giờ Ngài cho rằng sau khi các cuộc tấn công bằng đường không của chúng ta ít nhiều cũng đã kết thúc một cách hoàn toàn thất bại thì nước Anh sẽ đẩy nhanh quá trình tái vũ trang của mình với sự trợ giúp của Mỹ. Vì vậy Ngài thúc giục xây dựng nhanh hạm đội tàu ngầm của chúng ta. Mục đích của việc đó là tăng cường sức mạnh hạm đội tàu ngầm của chúng ta để bọn Mỹ không còn muốn tham gia tích cực vào cuộc chiến nữa, bởi vì Ngài đã hiểu rõ sự nguy hiểm của việc Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ với Anh. Nhưng Ngài cũng nhận định rằng mặc dù Franco từ chối ủng hộ chúng ta một cách tích cực, nhưng ta vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế ở châu lục này và có thể cai trị nó ít ra là một năm rưỡi nữa trước khi các đồng minh Phương Tây tiến hành các hoạt động quân sự mạnh mẽ và đổ bộ vào đây. Vì vậy điều hết sức quan trọng là chúng ta phải tận dụng thời gian này và Quốc trưởng nhận định rằng giờ đây chúng ta có thể tấn công nước Nga mà không bị đe dọa bởi nguy cơ lâm vào cuộc chiến trên hai mặt trận. Nhưng nếu chúng ta không lợi dụng được thời gian này một cách hợp lý thì chúng ta phải tính đến một cuộc xâm nhập tất yếu từ phía tây, còn nước Nga trong thời gian đó sẽ mạnh lên tới mức chúng ta sẽ không đủ sức để tự vệ nếu như họ tấn công chúng ta. Nước Nga hiện nay đang tiến hành những công tác chuẩn bị quy mô và bất kỳ lúc nào Stalin cũng có thể tận dụng thời cơ khi quân đội của chúng ta đang hoạt động ở Châu Phi và phía tây; và điều đó có nghĩa là ông ta có thể tiên đoán mọi hành động mà chúng ta dự định chống lại ông ta trong tương lai. Vì vậy bây giờ là thời gian thích hợp nhất để hành động một cách quyết đoán. Quốc trưởng tin tưởng rằng sức mạnh tổng hợp của quân đội Đức đủ lớn để giành được thắng lợi trong cuộc chiến với nước Nga, còn nước Nga sẽ bị chiếm đóng trong khoảng thời gian mà chúng ta có. Nhưng nước Đức buộc phải dựa hoàn toàn vào tiềm lực của riêng mình vì Quốc trưởng tin rằng bọn Anh với nếp nghĩ tiểu chủ nhỏ của chúng sẽ không có nổi tầm nhìn xa đủ để nhận ra mối nguy cơ Nga. Những yêu cầu đòi hỏi của nước Nga đối với Phần Lan, Bungari, Rumani cũng như những mưu toan chính trị của họ ở Nam Tư cho ta thấy rõ là Stalin sẽ sẵn sàng bước vào cuộc chiến với chúng ta. Bất kỳ ai muốn giữ gìn một châu Âu mới đều thấy rõ rằng cuộc xung đột với Liên Xô là không tránh khỏi, nó chỉ bắt đầu sớm hay muộn mà thôi. Vì thế tốt hơn hết là hãy gạt bỏ mối nguy cơ đó từ bây giờ, khi mà chúng ta còn có thể dựa vào sức của mình. Bộ Tổng Tham mưu hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi. Họ cho rằng chúng ta phải đánh đối phương khi nó chưa sẵn sàng hành động. Yếu tố bất ngờ có một vai trò rất lớn sẽ giúp cho chiến dịch có thể kết thúc thắng lợi muộn nhất là tới trước lễ giáng sinh năm 1941.
Quốc trưởng hiểu được tất cả ý nghĩa và sức nặng của quyết định này, và vì thế Ngài không muốn để cho một đơn vị nào trong lực lượng vũ trang của chúng ta, dù là nhỏ nhất, lại nằm yên không hoạt động. Ngài không chỉ cho phép mà còn yêu cầu phải sử dụng tất cả các đơn vị cảnh sát an ninh và cảnh sát dân sự (hình sự). Các đơn vị này sẽ chịu sự chỉ huy của tư lệnh các tập đoàn quân. Chúng sẽ được sử dụng chủ yếu ở hậu phương, nhưng kể cả ngoài mặt trận. Quốc trưởng muốn điều đó bởi vì Ngài muốn cảnh sát an ninh và các cơ quan an ninh bảo vệ chúng ta chống lại bọn phá hoại ngầm và bọn gián điệp, cũng như bảo vệ các nhân vật quan trọng và các kho tài liệu, có nghĩa là chịu trách nhiệm về các vấn đề an ninh chung ở hậu phương. Ngài đặc biệt đánh giá cao và chú trọng tới tuyến giao thông được gọi là “Rollban”. Đó là hệ thống những tuyến đường ô tô được xây dựng đặc biệt dành cho các phương tiện vận tải đường dài mà theo tuyến này các đơn vị hậu cần có thể di chuyển cơ động khắp vùng đồng bằng rộng lớn thưa dân của nước Nga. Chắc chắn chiến dịch sẽ phát triển rất nhanh nhờ có một số lượng lớn các đơn vị cơ giới hóa, vì thế các đơn vị cảnh sát an ninh cũng phải được cơ giới hóa để họ có thể hoạt động tích cực ở hậu phương cũng như ngoài mặt trận. Việc này đã được trình bày kỹ càng với Quốc trưởng và Ngài đích thân ra lệnh để những kế hoạch đó được thực hiện. Đây là một chiến dịch đặc biệt, vì vậy mọi khía cạnh kỹ thuật cần phải được thảo luận chi tiết với thủ trưởng của lực lượng hậu cần. Quốc trưởng còn nêu ra một ý mà tôi hoàn toàn tán thành: đầu tiên những đơn vị đặc biệt ấy sẽ hoạt động ở ngoài mặt trận, mỗi một thành viên của đơn vị sẽ có dịp thể hiện mình và được khen thưởng. Điều này sẽ hoàn toàn xoá đi các ấn tượng sai lầm, rằng dường như nhân viên của các cơ quan tư pháp là bọn hèn nhát giấu mình ở những cương vị an toàn, xa mặt trận. Điều này hết sức quan trọng bởi vì nó tăng cường vị thế của chúng ta đối với quân đội và sẽ có một tác dụng thuận lợi cho chúng ta về mặt nhân sự và tài chính. Cuộc thảo luận về vấn đề này với quân đội diễn ra từ tháng 3; Muller đã thương thuyết với OKW[6]. Ông ta đã có những buổi nói chuyện với thủ trưởng của Cơ quan An ninh Quân đội và Bộ Tham mưu của họ. Nhưng Muller là kẻ vụng về quá mức trong các công việc như vậy. Ông ta không tìm được những lời lẽ cần thiết, với cách cư xử lộn xộn điển hình của dân vùng Bavaria, ông ta lại tỏ ra ương ngạnh khi công việc đụng chạm tới những chi tiết không mấy quan trọng. Rốt cuộc ông ta cư xử với người nói chuyện với mình như với bọn mạt hạng đất Phổ, Điều này tất nhiên không thể chấp nhận được. Wagner hoàn toàn có lý khi than phiền với tôi về Muller. Vì thế tôi đã báo cho Muller rằng ông ta phải rút khỏi cuộc thương thuyết. Ông ta sẽ gửi cho anh toàn bộ những giấy tờ liên quan đến công việc vào trưa nay. Tôi đã giới thiệu anh với Wagner và nói với ông ta rằng mặc dù anh còn rất trẻ nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng ông ta sẽ thấy cách tiến hành thương thảo của anh là thích hợp hơn cho việc đạt được kết quả tích cực. Ngày mai ông ta sẽ đích thân tiếp anh và sẽ bắt đầu bàn bạc với anh tất cả vấn đề.
Đến đây, lần đầu tiên tôi ngắt lời Heydrich để hỏi ông ông rằng tôi phải đảm bảo những lợi ích chính yếu nào. Đáp lại, ông ta đã mô tả cho tôi thấy toàn cảnh vấn đề mà qui gọn lại là câu chuyện xưa cũ về sự ghen tức và kèn cựa giữa quân đội và lực lượng SS. Công việc của tôi là phải tìm ra giải pháp trung hòa với tướng Wagner về việc thu xếp các kênh liên lạc, về quan hệ tương hỗ giữa Bộ Chỉ huy, giữa các thủ trưởng dân sự và quân sự, vấn đề giao thông vận tải, cung cấp nhiên liệu và nhiều chi tiết khác nữa. Phải làm sao để trong một thời hạn ngắn nhất có được một giải pháp hữu hiệu làm hài lòng cả đôi bên.
Tôi đã đạt được kết quả trong thời hạn qui định và Heydrich rất hài lòng. Từ thời điểm đó các sự kiện diễn biến nhanh đến chóng mặt. Việc chuẩn bị cho chiến dịch, động viên một số lượng lớn nhân lực và vật lực đòi hỏi một sức lực phi thường đối với những người tham gia vào công việc tổ chức và lập kế hoạch, ai chưa có dịp sống qua những ngày tương tự như thế đều không thể tưởng tượng được mỗi người trong số chúng tôi đã bị yêu cầu làm việc đến mức nào. Điều này đặc biệt đúng đối với công việc của tôi trong tư cách là người đứng đầu một cơ quan phản gián. Đối với chúng tôi, chiến tranh với nước Nga đã bắt đầu và trên trận tuyến bí mật các trận đánh đã diễn ra. Một trong những nguyên tắc làm việc của chúng tôi là phải làm sao bảo đảm được tốt nhất việc theo dõi không ngơi nghỉ các tổ chức gián điệp đã bị chúng tôi phát hiện để có thể thâm nhập vào đó trước khi cuộc chiến thực sự bắt đầu. Đối với chúng tôi việc có tầm quan trọng sống còn là phải che giấu được các cơ quan tình báo nước ngoài về các hoạt động động viên tích cực gấp gáp của chúng tôi. Tôi ra lệnh cho các nhân viên của mình tiến hành các hoạt động phòng ngừa - bắt giam ồ ạt những kẻ tình nghi. Các biện pháp đó đã được thực hiện trong sự cộng tác với cơ quan Abwehr của Canaris và với các cơ quan khác nữa của quân đội, trong đó đặc biệt chú ý tới các khu vực cực kỳ “nhạy cảm” ví dụ như các khu vực sắp xếp, thành lập, đồn tàu của đường sắt hay các chốt biên phòng. Nếu như trước đây tôi trì hoãn việc bắt bớ các nhóm gián điệp Nga đặc biệt quan trọng thì bây giờ không thể để việc đó kéo dài thêm nữa. Hiện nay công việc cần thiết sống còn là phải ngăn chặn mọi kênh thông tin. Nhưng vẫn như trước, chúng tôi sử dụng một hoặc hai trong số các nhóm ấy để cung cấp cho người Nga những thông tin giả do phía quân đội chuẩn bị. Chúng tôi đã làm được việc cung cấp cho người Nga những tài liệu về việc khởi động lại công tác chuẩn bị chiến dịch “Sư tử biển” - đổ bộ lên đất Anh. Việc này hết sức quan trọng để điện Kremlin đánh giá sai lầm về tình hình chính trị và các biện pháp đang áp dụng, và dĩ nhiên sẽ đóng góp vào việc làm cho họ bị bất ngờ. Chẳng hạn các tiểu, đoàn bộ binh Nga ở khu vực pháo đài Brest - Litovxk vẫn đi diễu hành với đội kèn của mình vào buổi trưa ngày 21 tháng 6.
Canaris còn căng thẳng hơn. Cả ông ta, cả Heydrich thường xuyên chịu sức ép của Hitler đòi hỏi ngày càng phải có thêm nhiều tài liệu về tình hình nền quốc phòng của Nga và lực lượng vũ trang Xô Viết. Hitler xem xét các tài liệu báo cáo đó một cách chi tiết. Đã vài lần Quốc trưởng than phiền với Himmler về Canaris: “Abwehr lúc nào cũng gửi cho tôi những chồng báo cáo rời rạc, không có hệ thống gì cả. Tất nhiên chúng là những tái liệu rất quan trọng và phát xuất từ những nguồn đáng tin cậy nhất, nhưng tôi buộc phải tự xem xét sắp xếp lại chúng. Điều đó là không được, và tôi muốn anh ra chỉ thị cho các nhân viên dưới quyền hoàn thành công việc của họ theo một cách hoàn toàn khác.
Tôi đã nghe điều này nhiều lần cho đến tận cuối năm 1944, khi mà rốt cuộc Himmler báo cho tôi rằng Hitler hoàn toàn hài lòng với hệ thống làm việc của chúng tôi.
Mặc cho những việc đang xảy ra, Canaris và tôi, vẫn tiếp tục những cuộc cưỡi ngựa dạo chơi cùng nhau vào buổi sáng như cũ dù chỉ còn hai hoặc ba lần một tuần. Tuy chúng tôi đã thỏa thuận không nói về công việc nhưng vẫn không tránh khỏi đề cập đến những đề tài liên quan đến công việc của chúng tôi. Ganaris hết sức lo lắng về chiến dịch sắp tới. Bằng những lời lẽ cứng rắn, ông ta phê bình Bộ Chỉ huy Quân đội rằng mặc dù có những kiến thức chuyên nghiệp, nhưng lại tỏ ra vô tránh nhiệm và ngu ngốc khi ủng hộ quan điểm của một người như Hitler - kẻ cho rằng chúng ta có thể kết thúc chiến dịch ở Nga trong vòng ba tháng. Ông ta nói rằng mình sẽ không tham gia vào đó và không thể nào hiểu được tại sao tướng Von Brauchitsch, Galder, Keitel và Jodi có thể tự mãn đến thế, thiếu thực tế đến thế, và vô thần đến thế. Nhưng mọi sự phản đối đều vô ích, ông ta đã trở thành kẻ cô lập vì những thiên kiến liên tiếp của mình. Vài ngày trước đây Keitel đã nói với ông ta: “Ngài Canaris thân mến, có thể ngài hiểu được gì đó về công việc của Abwehr, nhưng ngài lại thuộc về hải quân, vì vậy ngài đừng nên cố dạy chúng tôi cách lập các kế hoạch chiến lược về chính trị.”
Mỗi khi Canaris nhắc lại câu nói đó, ông ta thường kìm ngựa của mình lại, nhìn tôi bằng cặp mắt mở to và nói một cách rất nghiêm túc: “Liệu anh có thấy điều đó là rất khôi hài không, nếu như nó đã không nghiêm túc?”
Chủ đề mà chúng tôi thường xuyên trở lại trong các cuộc nói chuyện là Hoa Kỳ và tiềm lực công nghiệp của họ, đặc biệt là số lượng máy bay họ sản xuất và ngành đóng tàu của họ. Có vẻ như vấn đề này là quyết định bởi vì nó xác định độ dài của quãng thời gian dành cho chúng tôi đến khi xuất hiện hiểm họa thực sự của cuộc chiến trên hai mặt trận. Canaris và tôi hợp nhau ở một điều là nếu như tất cả tiềm lực sản xuất của Mỹ đứng về phía ném bom và máy bay tiêm kích.
Để đưa ra một ví dụ về những khó khăn mà chúng tôi vấp phải khi chúng tôi thấy cần thiết để cấp trên lắng nghe một cách khách quan những thông tin xác thực của chúng tôi, xin dẫn ra một trường hợp: đầu năm 1942, dưới sự chỉ đạo của tôi, một bản báo cáo đầy đủ, súc tích đã được thảo ra trên cơ sở các thông tin điệp báo của chúng tôi về nền công nghiệp của Mỹ, đặc biệt là mức sản xuất thép và tình hình xây dựng lực lượng không quân Hoa Kỳ. Việc chuẩn bị bản báo cáo ấy mất gần hai tháng, mọi chi tiết trong đó được rà soát bởi các nhà kinh tế hàng đầu. Thông tin rất đầy đủ và khách quan. Chúng được cung cấp từ những nguồn tin cậy. Heydrich đã ngạc nhiên khâm phục và tôi không bao giờ quên vẻ ngạc nhiên của ông ta khi đọc lướt nó, ông ta đã sững sờ trước các con số như “tổng sản lượng thép từ 85 đến 90 triệu tấn”. Ông ta đã đem báo cáo đến cho Goering và Hitler; họ nghiên cứu nó hết sức cẩn thận và sau đó thảo luận với nhau. Điều khó chịu nhất trong vụ này là buổi nói chuyện giữa tôi và Goering. Thống chế không cao giọng, ông ta buông ra những câu ngắn và nặng trịch. Nhìn tôi một cách khinh bỉ, ông ta đặt bản báo cáo vào tay tôi và nói: “Những điều anh viết trong này toàn là nhảm nhí. Anh nên đến gặp bác sĩ tâm thần để họ khám cho anh.” Và cuộc nói chuyện của ông ta với tôi chấm dứt ở đây. Heydrich còn ở lại chỗ Goering thêm chút nữa và khi bước ra, trông ông ta rất giận dữ. Nhưng ông ta không lợi dụng chuyện đó để làm hại tôi. Vài tháng sau tôi nghe Himmler nói lại rằng bị tác động của Goering, Hitler rất giận dữ sau khi đọc bản báo cáo. Hitler phê phán bản báo cáo là một tài liệu phóng đại và được viết ra với một mục đích duy nhất là phô diễn ý kiến riêng của tác giả và còn nói thêm rằng ông ta không tin bất kỳ một lời nào trong báo cáo.
Sau này, trong thời gian diễn ra phiên toà Nuremberg[7] tôi bị giam trong một xà lim phía bên kia hành lang của xà lim giam Goering. Tôi gặp mặt ông ta hàng ngày và còn có thể trao đổi qua lại vài lời với ông ta. Trước đây tôi chưa từng được ông ta khen bao giờ. Giờ đây ông ta nói vọng sang phía tôi từ xà lim của mình: “Hừ, hóa ra những điều anh nói không phải là nhảm nhí.” Tôi hiểu ngay ông ta ám chỉ điều gì.
Một lần Heydrich gọi điện và yêu cầu tôi chuẩn bị báo cáo cho Himmler về công tác phản gián chống lại Nga. Khi chúng tôi đến, Himmler bắt đầu bằng việc thuật lại buổi nói chuyện dài giữa ông ta và Quốc trưởng ngày hôm đó, đề cập đến cả loạt các vấn đề liên quan tới chiến dịch sắp tiến hành.
— Với anh, Heydrich, tôi muốn thảo luận riêng với anh vài vấn đề. Còn đối với anh, Schellenberg, tôi có hai vấn đề đặc biệt. Thứ nhất, Quốc trưởng đề nghị tuyên bố về việc bắt đầu tiến công trong lời kêu gọi gửi toàn thể nhân dân Đức. Lời kêu gọi đó phải kèm theo bản báo cáo của OKW, cũng như có thể là cả của Bộ Ngoại giao, ngoài ra, tương tự vào thời điểm bắt đầu chiến dịch chống các cường quốc phía tây, thêm vào tài liệu đó còn cần phải có báo cáo của bộ trưởng nội vụ. Quốc trưởng chờ ở tôi một bản báo cáo chi tiết với tư cách là người lãnh đạo mọi lực lượng cảnh sát Đức. Lần trước bản báo cáo rất gây ấn tượng và Ngài muốn có một bản báo cáo kiểu đó về các hoạt động phá hoại của Quốc tế Cộng sản. Rất tiếc, chúng ta chỉ có vỏn vẹn 24 giờ để chuẩn bị. Tôi hiểu rằng anh, Schellenberg, không phải là thần tiên, nhưng hãy cứ cố gắng làm tất cả những gì có thể. Heydrich sẽ theo dõi để người ta cung cấp mọi thứ anh cần. Vậy đừng để mất thời gian nữa. Đó là nhiệm vụ thứ nhất. Thứ hai, trong lời kêu gọi, Quốc trưởng muốn nhắc đến công việc của Horia Sima[8] ở Rumani.
— Anh biết đấy, - Himmler quay sang phía Heydrich, -đó là một vấn đề hết sức tế nhị đối với chúng ta. Liệu tôi có nên bác bỏ ý kiến của Quốc trưởng hay không?
Heydrich nói rằng ông ta coi việc nhắc đến Horia Sima là hoàn toàn thừa.
— Việc đó có ý nghĩa gì? - ông ta hỏi, - Quốc trưởng định sử dụng nó như thế nào để chống lại nước Nga?
Họ lặng thinh nhìn nhau sau đó quay lại phía tôi như muốn biết ý kiến của tôi.
— Vào thời điểm này, - tôi nói, - khi các đồng minh Rumani của chúng ta chuẩn bị tích cực hành động ở sườn phía nam của chúng ta, Quốc trưởng có lẽ muốn làm cho nguyên soái Antonescu tin rằng các mưu toan tương tự nhằm lật đổ chính phủ của ông ta sẽ không lặp lại nữa. Có thể Ngài muốn xoá các trang đen tối trong lịch sử quan hệ hai bên, và không nghi ngờ gì nữa, tất cả sự việc xảy ra sẽ được mô tả thành một âm mưu đen tối của phía Xô Viết. Vụ việc sẽ được công bố rộng rãi cho dân chúng Rumani. Tôi không rõ thực tế các thế lực cộng sản có tham gia vào đó hay không, nhưng ý tưởng của Quốc trưởng sẽ chỉ có hiệu lực trong trường hợp chúng ta đưa ra được bằng chứng có sự tham gia của họ.
Himmler cho tôi ra về, tuy chưa đi đến một quyết định cụ thể nào. Khi ra về, tôi bắt đầu nghĩ xem tốt nhất tôi sẽ thực hiện nhiệm vụ như thế nào. Cục Tình báo của tôi có rất nhiều tài liệu mà tôi có thể dùng, nhưng tôi quyết định nhờ Muller giúp đỡ. Muller ngay lập tức ra lệnh cho các trưởng phòng của mình cung cấp cho tôi sử dụng mọi tư liệu cần thiết.
Khi tôi quay trở lại phòng làm việc của mình thì ngày đã gần tàn. Tôi ra các chỉ thị cần thiết và chỉ trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ, các báo cáo và tài liệu đã chất đầy trên bàn tôi. Tôi ngồi trước một đống giấy tờ lớn và tôi phải thư giãn một chút trước khi có thể lấy dũng khí bắt tay vào công việc. Nhưng mãi đến tối khuya tôi mới lựa ra được những tài liệu quan trọng nhất, đem chúng về nhà để có thể nghiên cứu một cách tĩnh tâm hơn trong yên lặng.
Nhưng Himmler và Heydrich mấy lần gọi điện cho tôi trong đêm đó (Cả hai biết rất rõ khi tôi không ngồi trong phòng làm việc của mình thì có thể tìm tôi ở đâu vào bất kỳ thời gian nào). Himmler đã làm tôi căng thẳng. Hitler chỉ vừa mới đưa ra cho ông ta một câu hỏi nào đó hoặc nói gì đó thôi là lập tức ông ta chạy đến điện thoại và trút cho tôi hàng tràng câu hỏi và lời khuyên: “Schellenberg, Quốc trưởng muốn việc đó phải làm như thế này… và đừng sa đà vào chi tiết, cứ mô tả phương hướng làm việc của Cơ quan Mật vụ Nga…” và… (Tôi nhắc tới điều này chỉ vì muốn chứng tỏ sự lãnh đạo tập trung của hệ thống cảnh sát sẽ dẫn tới trạng thái cực đoan như thế nào mà thôi).
May mà tôi nắm rất vững hầu hết các tài liệu. Vì thế tôi đã kết thúc công việc trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà họ dành cho tôi. Bản báo cáo đã được thông qua không bị sửa đổi, và lời kêu gọi của Hitler tới nhân dân Đức đã được công bố ngày 22 tháng 6 năm 1941 kết thúc bằng những lời hùng hồn đáng sợ sau: “Hỡi nhân dân Đức, đúng lúc này đây đang diễn ra một cuộc huy động quân sự mà về tầm vóc và qui mô đã vượt tất cả những gì thế giới từng được chứng kiến.”
Những biện pháp của chúng tôi nhằm che giấu việc huy động quân đội đối với phía Nga gặp phải khó khăn to lớn. Những khó khăn đó một phần đáng kể xuất phát từ sự cạnh tranh, cãi cọ không ngừng giữa cơ quan của Muller và Canaris về hoạt động của các nhà lãnh đạo dân tộc cực đoan Ucraina như Melnhic và Bandera ở các khu vực biên giới Nga - Ba Lan. Cơ quan Mật vụ Quân đội dĩ nhiên muốn lợi dụng các nhóm vũ trang thiểu số người Ucraina, nhưng Muller phản đối. Ông ta cho rằng các thủ lĩnh dân tộc cực đoan đó theo đuổi những mục đích chính trị riêng của họ bằng các cách không chấp nhận được và điều đó gây nên sự bất bình rộng rãi trong cư dân người Ba Lan. Tôi cố gắng đứng sang một bên, tránh những cuộc cãi cọ ấy, đặc biệt là vì những cuộc hội họp đó thường diễn ra rất dông dài và chán ngán.
Đúng vào lúc đó lại bộc lộ ra những sự kiện không hay trong hoạt động của Cơ quan Thông tin Chính trị Đối ngoại (Cục AMT-VI). Do hậu quả của những biện pháp mà Heydrich áp dụng, nhiều nhân viên đã bị kỷ luật cảnh cáo và thậm chí đã có lời đồn rằng vài người trong số đó sẽ bị khởi tố hình sự. Những cuộc đàn áp không thương tiếc tiếp theo đó chứng tỏ rằng điều gì có thể chờ đợi tôi nếu như lúc nào đó tôi để lộ đuôi cho họ nắm.
Những sai sót về chuyên môn nghề nghiệp của các nhân viên trong cục nghiêm trọng hơn nhiều so với sự tha hóa trong đời sống riêng tư của họ, nhưng ngay cả những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc nhất chắc gì đã đem lại sự cải thiện cho công việc. Hơn lúc nào hết tôi càng tin rằng hiệu quả chỉ có thể đem lại trong trường hợp cục được cải tổ một cách toàn diện. Nhưng trong trường hợp này việc đó buộc phải tiến hành vào giữa lúc chiến tranh, và như người ta thường nói là dưới sự theo dõi của các cơ quan mật vụ phía địch, với sự chỉ đạo của các cấp trên - những người không có lấy một chút hiểu biết về các nhu cầu của một cơ quan mật vụ - và điều đó dĩ nhiên sẽ chỉ làm khó nhiệm vụ đặt ra.
Một điều thú vị nữa là đúng vào lúc này Muller đã ra đòn đánh công khai đầu tiên nhằm vào chính sự tồn tại của cơ quan này. Ông ta đã thuyết phục Heydrich giải tán hoàn toàn AMT-VI, loại bỏ Cơ quan Mật vụ Đối ngoại, không để nó hoạt động với tư cách là một đơn vị độc lập, và thay vào đó, tập trung mọi nỗ lực cho Ban Theo dõi Kẻ địch nằm trong thành phần Cục AMT-IV là cục do chính Mulller phụ trách.
Vào tối hôm đó, Heydrich ra lệnh cho tôi trình báo cáo lên ông ta. Ông ta nói lại cho tôi nghe kế hoạch Muller đề nghị và thêm vào một câu bình luận hài hước: “Dù sao hắn cũng chỉ là một viên chức cảnh sát với năng lực và tầm nhìn hạn chế.” Ông ta yêu cầu tôi suy nghĩ thật kỹ càng về vấn đề này rồi nói tiếp:
— Giờ tôi đã đi đến một quyết định dứt khoát: ngay sau khi cuộc chiến với nước Nga bắt đầu, tôi sẽ bổ nhiệm anh làm phó cục trưởng Cục AMT-VI, rồi sau đó hai tuần sẽ đưa anh lên làm cục trưởng. Chức vụ bổ nhiệm đó đối với anh có thể sẽ là khó khăn nhất trong số những chức vụ mà anh đã từng được bổ nhiệm từ trước tới nay. Vì thế tôi cho anh thời gian để suy nghĩ thật kỹ càng về tất cả mọi điều, và khi nào suy nghĩ xong chúng ta sẽ cùng ngồi với nhau một buổi tối trong ngôi nhà đi săn của tôi, nơi ta có thể bình tâm bàn luận cẩn thận điều đó.
Ông đứng dậy và long trọng chìa tay cho tôi. Tôi rời khỏi phòng làm việc của ông ta với trái tim đập rộn rã. Một mặt, tôi rất hạnh phúc vì cuối cùng đã nhận được chức vụ mà tôi đã chờ đợi rất lâu. Mặt khác, tôi hơi chán nản vì nguyên nhân của việc bổ nhiệm ấy lại là một sự thất bại đáng buồn đến thế. Ngay từ đầu tôi đã cảm nhận hết cái trách nhiệm to lớn đặt lên vai tôi. Tôi sẵn sàng tiếp nhận nó, và có lẽ cũng dễ hiểu rằng dù công việc đã làm tôi ngập đầu, nhưng trách nhiệm mới vẫn làm tôi phấn khởi và ý nghĩ của tôi giờ đây đã bắt đầu hướng về lĩnh vực mới.
Ngày 21 tháng 6 năm 1941, Canaris mời Heydrich, Muller và tôi ăn sáng ở “Horher”, một trong những khách sạn sang nhất của Berlin. Tôi biết nguyên nhân của sự việc này: ông ta định lần cuối cùng cảnh báo cho Heydrich và Muller dừng có thái độ lạc quan quá mức về cuộc chiến với nước Nga. Đó là cách cư xử điển hình của Canaris - lợi dụng một lời mời dường như là ngẫu nhiên để trình bày ý kiến của mình về một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt với ông ta. Ông ta muốn có được sự ủng hộ của Heydrich chống lại lập trường lạc quan của Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội Đức, bởi vì ông ta sẽ cảm thấy tự tin hơn nhiều nếu như có dịp nói rằng: “Heydrich cũng không hoàn toàn lạc quan trong việc đánh giá tình hình.”
Nhưng Heydrich cũng không tỏ ra băn khoăn lắm. Ông ta nói:
— Bữa trưa hôm qua, Hitler ở trong một tâm trạng rất ưu tư. Bormann cố làm Ngài vui. Ông ta nói với Quốc trưởng: “Giờ đây Ngài đang ngập chìm trong những lo toan vĩ đại, kết quả thắng lợi mà cuộc chiến vĩ đại này phụ thuộc hoàn toàn vào một mình Ngài. Đức tiên tri đã chọn Ngài làm công cụ để giải quyết tương lai của toàn thế giới. Không ai biết rõ hơn tôi rằng Ngài đã cống hiến trọn bản thân cho trách nhiệm này và rằng Ngài đã nghiên cứu đến tận những chi tiết nhỏ nhất của vấn đề”.
[5] Luftwaff: Lực lượng không quân Đức
[6] OKW: Bộ Chỉ huy tối cao các Lực lượng Vũ trang.
[7] Phiên tòa Nuremberg: Tòa án quốc tế xử các tội phạm chiến tranh trong Đại chiến Thế giới thứ II.
[8] Horia Sima: Lãnh đạo tổ chức phát xít “Đội cận vệ sắt” nổi tiếng ở Đức. Năm 1940, Heydrich giúp ông ta tổ chức một cuộc bạo loạn chống lại nguyên soái Antonescu, nhà độc tài Rumani. Cuộc bạo loạn thất bại, Sima bị bắt và nhờ lệnh ân xá của Antonescu, ông ta được giao cho chính quyền Đức và quản chế ở Đức. Tình huống bất ngờ này làm Hitler lúng túng bởi vì kế hoạch đánh chiếm Liên Xô đòi hỏi phải củng cố mối liên hệ giữa Đức và nước Rumani của Antonescu. Sự lúng túng và bực dọc của Hitler đối với Himmler và Heydrich, vì cho rằng hai người này chịu trách nhiệm để sự việc xảy ra, lại bột phát mạnh hơn khi cuối năm 1942, Sima chạy thoát sang Italy và cơ quan Ghestapo trong một thời gian không lần ra dấu vết của ông ta. Tình hình lại nghiêm trọng hơn vì Ghestapo hy vọng mau chóng bắt lại Sima nên mãi hai tuần sau mới báo cáo với Hitler về việc đào thoát của ông ta. Điều đó làm tăng thêm mối nghi ngờ của Hitler, mà theo quan điểm của Schellenberg, để có ảnh hưởng quyết định đến kế hoạch của Hitler loại bỏ Ribbentrop với sự trợ giúp của Himmler và như vậy tạo cơ sở cho kế hoạch “xoa dịu” của mình.
[9] RSFT: Phong trào Giải phóng Chống cộng của Nga do phát xít tài trợ.