← Quay lại trang sách

Khu Chợ.

Chị Frisby gục đầu vào hai tay. “Tôi chẳng hề được biết,” chị nói. “Tôi chỉ biết một điều là anh ấy không trở lại. Nhưng tôi không biết đã có chuyện gì xảy ra. Tôi còn không biết anh ấy có quen các anh. Tại sao anh ấy chẳng hề cho tôi biết?”

Justin chạm khẽ vào vai chị. “Thật khổ cho chị phải biết chuyện đó đột ngột như thế này,” anh ta nói. “Chúng tôi đã nghĩ có nên nói với chị khi chuyện xảy ra, nhưng lại quyết định thôi. Sẽ chẳng mang lại điều gì hay cả.”

“Bà hỏi vì sao Jonathan không bao giờ cho bà biết về chúng tôi,” Nicodemus thêm vào. “Anh ấy có lý do, một lý do rất chính đáng. Nhưng anh ấy vẫn trăn trở rất nhiều chuyện ấy, và có thể rốt cuộc cũng sẽ kể với bà. Nhưng rồi đã thành quá muộn.”

“Lý do ấy là gì?” chị Frisby ngẩng mặt lên. Trên má chị có vệt nước mắt, nhưng chị đã ngừng khóc.

“Muốn trả lời tôi sẽ phải kể cho bà một câu chuyện rất dài - toàn bộ sự tích về chúng tôi, Nimh, và Jonathan, và việc chúng tôi đến đây bằng cách nào. Anh ấy cũng đi cùng chúng tôi, bà hiểu không. Tôi không phiền kể ra, nhưng không biết có đủ thời gian không.”

“Tôi nghĩ là đủ đấy,” Justin nói, “nếu thầy Ages và tôi đi lấy thuốc trong khi anh kể.”

“Với cái chân này thì,” thầy Ages ủ ê nói, “sẽ đủ thời gian kể hai lần ấy chứ.”

“Tôi quên mất,” Justin nói vẻ hối lỗi. “Hay là tôi đi một mình sẽ tốt hơn?”

“Không được,” thầy Ages nói. “Trong kho nhà tôi có nhiều loại bột khác nhau lắm. Anh chẳng biết phải lấy loại nào đâu. Tôi sẽ đi với anh. Nhưng chúng ta cần đi chậm thôi.”

“Còn tôi,” Arthur nói, “tôi đi soát các dụng cụ cần dùng đêm nay. Chúng ta sẽ cần xẻng, xà beng, ròng rọc, con lăn...” Anh ta bỏ đi, miệng vẫn kể tên dụng cụ.

Nicodemus nói với chị Frisby, “Tôi nghĩ chúng ta cũng nên ra khỏi thư viện. Các chuột khác sẽ vào đây tập đọc giống như Isabella, một số cần nghiên cứu nữa.”

“Nghiên cứu à?”

“Chúng tôi vừa có vài cuốn sách mới về nghề nông - trồng trọt, làm vườn, phân bón, đại loại thế - và chúng tôi cần học. Đấy cũng nằm trong Kế hoạch.”

“Tôi không biết Kế hoạch này là gì.”

“Bà không biết,” Nicodemus đồng ý, “nhưng khi tôi đã kể xong câu chuyện thì bà sẽ hiểu cả phần đó nữa.”

Ông mở cửa dẫn chị Frisby ra hành lang đi quá vài cửa nữa, cửa nào cũng đóng. Ông dừng lại trước một cánh và mở ra.

“Đây là văn phòng của tôi,” ông nói. “Mời bà vào.”

Căn phòng này nhỏ hơn thư viện, nhưng bài trí ở đây tiện nghi hơn nhiều, gần như sang trọng nữa. Trên sàn có thảm (cùng kiểu hoa văn như trên hành lang phía trên, chị nhận ra), đèn gắn âm trên trần và trên tường cạnh bàn. Có nhiều tủ sách, trên một tủ cái đồng hồ điện đang rù rì một mình. Trên bàn mở một quyển sách, bên cạnh có cái ghế tựa, tường đối diện đặt một ghế bành nhỏ phủ vải gọn gàng làm nệm. Nhưng chị Frisby chú ý nhất là cái hộp ở một góc phòng, trên có mặt số và ánh sáng tỏa ra nhè nhẹ, cái hộp phát ra tiếng nhạc dìu dịu. Chị ngẩn người nghe.

“Chị thích âm nhạc à?” Nicodemus hỏi. “Tôi cũng thế.”

“Đấy hẳn là máy thu thanh.” Đây cũng lại là một thứ lờ mờ nhớ được từ những gì Jonathan có lần kể cho chị. Âm nhạc à. Chị mới chỉ nghe thấy có hai ba lần trong đời, khi nhà Fitzgibbon để mở cửa sổ và có người chơi trong nhà. Chưa bao giờ nghe gần cả. Âm thanh thật du dương.

“Phải,” Nicodemus nói. “Tất nhiên chúng tôi mang về không phải để nghe nhạc mà nghe tin tức. Nhưng vì nó đã ở đây rồi thì tại sao không dùng chứ?”

Ông ngồi xuống, và chị Frisby làm theo.

“Giờ thì,” ông nói, “tôi sẽ kể chị nghe về Nimh. Chị sẽ quan tâm, tôi đoán thế, vì chồng chị cũng là một phần trong đó. Và khi kể xong thì tôi nghĩ chị sẽ hiểu sao anh lại thấy anh chẳng thể tự mình kể ra.”

Câu chuyện bắt đầu (Nicodemus nói tiếp) không phải ở Nimh, mà ở khu chợ bên rìa một thành phố lớn. Nơi ấy gọi là Chợ Nông Phẩm, đấy là một quảng trường lớn một phần có mái che nhưng chẳng hề có tường. Mỗi sáng sớm các nhà nông đến đó từ khắp mọi miền quê xung quanh, đánh từng xe tải chở đầy cà chua, ngô, bắp cải, khoai tây, trứng, thịt gà, thịt nguội, thực phẩm mang cho thành phố. Một góc chợ dành riêng cho dân chài, mang bán cua, sò, cá vược, thờn bơn. Đấy là một nơi dễ chịu, ồn ào với đủ loại mùi.

Gia đình tôi sống gần chợ ấy - bố, mẹ, chín người anh chị em và tôi - sống ngầm dưới đất trong một đường ống lớn, ngày xưa thuộc về cống thoát nước nhưng bây giờ không dùng đến nữa. Có hàng trăm chuột cống sống trong vùng. Cuộc sống gian khổ nhưng cũng không tệ như bà chắc hình dung, là nhờ khu chợ.

Mỗi chiều đến đúng năm giờ các nông dân và ngư dân lại đóng quầy, chất đồ lên xe tải về nhà. Đến đêm, sau mấy tiếng đồng hồ, sẽ có công nhân vệ sinh cầm chổi và vòi xả tới. Nhưng giữa hai thời điểm ấy, cả chợ thuộc toàn quyền chúng tôi. Các nông dân để lại bao nhiêu là món ngon vật lạ! Những đậu ván đậu hạt từ trên xe rơi xuống, cà chua và bí, những mẩu cá thịt thừa quẳng đi - tất cả vương vãi trên vỉa hè hay trong rãnh, tràn đầy những thùng lớn lẽ ra phải đậy nhưng chẳng mấy khi. Có đến gấp mười lượng chúng tôi ăn nổi, nên chẳng bao giờ có chuyện đánh nhau tranh giành thức ăn.

Đánh nhau à? Ngược lại là khác, khu chợ là nơi lý tưởng cho việc vui chơi, và chúng tôi đã vui chơi ra trò, ít nhất là các thanh niên chuột, khi đã ăn no. Có bao nhiêu hộp rỗng để nấp khi trốn tìm, có tường để leo, hộp thiếc để lăn, có những sợi thừng đem buộc lại chơi nhảy dây. Thậm chí giữa quảng trường còn có đài phun nước để bơi khi nào trời nóng. Rồi ngay khi nghe tiếng chuông người dọn vệ sinh ở đằng xa, một trong những chuột lớn tuổi hơn sẽ kêu lên cảnh báo, và mọi người gom đồ ăn hết sức mình mang về nhà. Tất cả chúng tôi đều có kho dự trữ, bởi có những hôm - Chủ nhật hay ngày lễ - khu chợ đóng cửa, mà chúng tôi không biết chắc lúc nào thì đến ngày.

Mỗi khi đến chợ tôi thường đi với hai chuột khác, anh trai tôi là Gerald và một người bạn tên Jenner. Đấy là hai bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi cùng thích những trò chơi giống nhau, những câu đùa như nhau, những chủ đề nói chuyện như nhau - thậm chí cả đồ ăn cũng giống nhau. Tôi vô cùng hâm mộ Jenner, anh ấy rất thông minh và nhanh nhẹn.

Một buổi tối đầu thu Jenner và tôi lên đường ra chợ. Độ ấy chắc quãng tháng Chín, vì lá thu vừa chuyển vàng và có vài đứa trẻ đang chơi bóng bầu dục trong bãi đất trống. Gerald tối hôm ấy phải nằm nhà, anh bị cảm lạnh và vì khí trời khá rét nên mẹ tôi không cho anh ra đường. Thế nên Jenner với tôi đi mà không có anh. Tôi còn nhớ chúng tôi đã hứa sẽ mang về một ít đồ ăn ưa thích của anh là gan bò, nếu có tìm được.

Chúng tôi theo đường thường lệ đến chợ, không phải trên phố lớn mà qua hẻm nhỏ giữa các nhà quanh quảng trường, chủ yếu là nhà kho chứa hàng và gara. Trên đường đi có thêm nhiều chuột nữa nhập bọn; giờ ấy tất cả tập trung về khu chợ từ mọi ngả xung quanh. Khi đến quảng trường, tôi nhận ra có một ô tô tải màu trắng hình vuông rất kỳ dị đỗ trên phố rìa quảng trường, cách đó một khối nhà thì phải. Tôi nói là tôi nhận ra nó - tôi không chú ý gì lắm vì ở khu này của thành phố xe tải rất nhiều; nhưng nếu chú ý chắc tôi đã thấy hai bên sườn xe có tô bốn chữ cái nhỏ: NIMH. Tôi cũng sẽ chẳng biết là chữ gì, tất nhiên, vì lúc ấy cả tôi lẫn các chuột khác chưa ai biết đọc.

Trời đang tối dần khi chúng tôi vào đến chợ, nhưng trong bóng chập choạng chúng tôi vẫn nhận thấy có một lượng thức ăn khổng lồ - cả một núi lớn - gần chính giữa quảng trường, cách xa phần che mái. Tôi nghĩ đấy lẽ ra phải là tín hiệu cảnh giác, nhưng chẳng ai nhận ra. Tôi còn nhớ Jenner đã nói, “Hôm nay chắc chợ náo nhiệt lắm,” trong lúc cùng nhau hớn hở chạy về núi thức ăn với vài chục chuột khác.

Ngay khi đến chỗ thức ăn thì chuyện đó xảy ra. Bốn phía xung quanh thình lình bỗng vang tiếng hét. Ánh đèn pha sáng nhức mắt vụt bật lên, chiếu vào chúng tôi cũng như vào núi đồ ăn, nên khi cố chạy cho xa chúng tôi chẳng thấy mình đang đi về đâu cả. Giữa những ngọn đèn và đằng sau chúng có những cái bóng di chuyển rất nhanh, và khi chúng xáp lại gần tôi thấy đấy toàn là người - những người mặc đồng phục trắng mang theo vợt, vợt hình tròn cán rất dài.

“Coi chừng!” Jenner hét lên. “Chúng định bắt bọn mình đấy.” Anh ấy phóng về một phía, tôi phóng về phía khác, và chúng tôi không thấy nhau nữa.

Tất cả chúng tôi đều chạy - chạy thẳng về phía bọn người cầm vợt. Chẳng còn đường nào khác, bọn chúng đã quây tròn lấy chúng tôi rồi. Những cái vợt bổ xuống, múc lên, lại bổ xuống tiếp. Tôi nghĩ cũng có vài chuột thoát được nhờ chui lọt giữa đám người, chạy qua ánh đèn. Tôi nghe có tiếng vút - một cái vợt suýt quét trúng tôi. Tôi quay người chạy trở lại đồi thức ăn, nghĩ có thể trốn trong đó. Nhưng rồi lại một tiếng vút, và lần này tôi cảm thấy những sợi mềm rơi xuống vây bủa lấy tôi. Chúng quấn vào bốn chân rồi cả vào cổ tôi. Tôi bị nhấc khỏi mặt đất cùng ba chuột nữa, và cái vợt khép miệng lại.