Trong Lồng.
Chị Frisby hỏi: “Nhưng sao họ lại muốn bắt các ông? Và làm sao các ông lại thoát ra được?”
“Ban đầu,” Nicodemus nói, “tôi tưởng là vì chúng không thích chúng tôi lấy trộm đồ ăn. Nhưng làm sao có thể gọi đấy là trộm được - toàn là đồ ăn bỏ đi, và con người cũng chỉ lôi đến lò đốt rác thành phố là cùng. Vậy thì chúng tôi ăn bớt một phần có hại gì chứ? Tất nhiên có nhiều kẻ chỉ là ghét chuột cống, dù chuột cống có làm hại gì đến họ hay không.”
“Cả chuột nhắt nữa,” chị Frisby nói.
“Đúng thế,” Nicodemus nói. “Dù không ghét bằng chuột cống, tôi nghĩ thế. Tuy nhiên đấy cũng chẳng phải là lý do, lý do thực là gì thì phải một thời gian sau tôi mới biết. Còn việc thoát ra thì, cả chuyện ấy cũng phải mãi về sau.”
Không, tôi đã bị tóm chặt hết đường cựa quậy, trói chặt trong cái vợt, hoàn toàn không có lối thoát (Nicodemus kể tiếp). Khi cái con người cầm vợt thấy đã tóm được bốn chuột cống, hắn ta rút một sợi dây thắt miệng vợt lại. Hắn ta bỏ vợt xuống nhặt một cái rỗng khác lên. Hắn ta tiếp tục đi vào quảng trường, mặc chúng tôi nằm đó. Tôi cố gặm vợt thoát ra, nhưng những sợi lưới làm bằng loại nhựa gì đó cứng như sợi thép.
Tiếng ồn và cảnh láo nháo cuối cùng cũng lắng lại. Tôi đoán là chuột trong quảng trường đã bị bắt hết hoặc đã thoát ra rồi. Tôi nghe một người gọi một người khác: “Có lẽ thế là đủ rồi.” Một kẻ khác đang chiếu đèn bốn bề, tìm kiếm những góc chợ còn lại.
“Chẳng thấy con nào.”
“Ta có thể nấp đợi một đợt mới.”
“Sẽ chẳng còn đợt nào nữa đâu. Ít ra là đêm nay. Có thể phải thêm bốn năm đêm nữa.”
“Tiếng dữ đồn xa.”
“Anh nghĩ là chúng truyền tin cho nhau à?” Giọng thứ ba.
“Chắc chắn là chúng truyền tin cho nhau. Và lần sau chúng còn đến thì anh có thể biết chắc chúng sẽ dò xét khu này thật cẩn thận. Chúng ta gặp may đấy. Tụi chuột này không bị ai đụng đến nhiều năm nay rồi. Chúng trở thành bất cẩn.”
“Phòng lab đòi bao nhiêu?” Có ai đó đang tắt đèn từng cái một.
“Sáu chục. Chúng ta có bao nhiêu?”
“Khoảng đó. Có thể hơn.”
“Xếp lên xe thôi.”
Sau khoảng một phút tôi thấy mình bị nhấc lên, đung đưa qua lại trong lòng vợt, tôi cùng ba người bạn bị đưa đến cái xe tải trắng đã thấy lúc đầu hôm. Cửa thùng xe mở, bên trong thắp đèn. Tôi thấy cả thùng xe là một cái lồng thép lớn. Cái vợt đựng chúng tôi bị thọc vào trong, rồi người kia rút dây thắt miệng và chúng tôi bị dốc xuống sàn xe phủ đầy mạt cưa. Những vợt còn lại cũng bị đổ ra như thế từng chiếc một; và chỉ sau vài phút chúng tôi đã thành một đám khá đông đảo trên sàn, tất cả đều có phần choáng váng và tất cả (nếu tôi là điển hình) đều hoảng kinh. Cái lồng bị khóa, hai cánh cửa đóng xoạch, đèn tắt ngóm. Tôi nghe máy xe nổ, rồi một giây sau sàn xe đã lắc lư dưới chân. Chúng tôi đang di chuyển. Chúng đưa chúng tôi đi đâu? Để làm gì?
Rồi trong bóng tối, tôi nghe có giọng nói bên mình.
“Nicodemus à?” Đấy là Jenner. Bà tưởng tượng xem tôi mừng biết bao khi nghe giọng anh. Nhưng tôi cũng rầu rĩ nữa.
“Jenner. Em tưởng anh chắc đã thoát rồi.”
“Anh ở trong cái lưới cuối cùng. Anh đã nghĩ là nhìn thấy em trên sàn.”
“Chúng ta đi đâu đây?”
“Anh không biết.”
“Phòng lab là cái gì?”
“Phòng thí nghiệm.”
“Vâng, nhưng thế nghĩa là gì?”
“Anh không biết. Anh mới chỉ nghe chữ đó ở đâu đấy thôi.”
“Chậc, em nghĩ là chúng ta đang đến đấy. Dù nó là cái gì đi nữa.”
Cái xe ì ầm đi trong màn đêm, ban đầu qua những đường phố mấp mô, rồi sau đó tăng tốc trên đường cao tốc phẳng phiu. Thùng xe chẳng có cửa sổ, nên chẳng thấy được chúng tôi đang đi đâu - mà có thấy tôi cũng không biết, vì chưa bao giờ đi xa nhà quá sáu dãy phố. Ước chừng xe đi mất khoảng hai giờ, mà cũng có thể ít hơn, rồi chậm lại, rẽ ngoặt, và cuối cùng cũng dừng hẳn.
Cửa sau lại mở ra, và qua bức tường thép của cái lồng tôi thấy chúng tôi đã tới một tòa nhà bằng xi măng trắng và kính trông rất hiện đại. Ngôi nhà hình vuông, rất lớn, cao khoảng mười tầng. Đêm đã xuống hẳn, phần lớn cửa sổ tối đèn, nhưng bậc thềm mà xe tải đang nhằm đến thì sáng và có nhiều người đang đứng đợi chúng tôi.
Một cánh cửa mở cho ba người đàn ông đi ra. Một kẻ mang theo xe đẩy hàng, loại chở hành lý sân bay, chất đầy những lồng thép nhỏ. Đi bên cạnh là một người mặc áo choàng dày, đi ủng, đeo găng da dày. Người thứ ba đeo kính gọng sừng mặc áo choàng trắng. Rõ ràng là kẻ cầm đầu.
Mấy người trong xe tải, những kẻ đã bắt chúng tôi, bây giờ nhập bọn với đám này.
“Anh bắt được bao nhiêu?” người mặc áo trắng hỏi.
“Khó đếm lắm, chúng cứ chạy loanh quanh. Nhưng tôi ước lượng khoảng sáu mươi đến bảy mươi gì đấy.”
“Tốt. Có rắc rối gì không?”
“Không. Dễ như bỡn. Chúng gần như hiền lành là khác.”
“Tôi hy vọng không phải thế. Tôi có quá nhiều con hiền lành rồi.”
“Ôi, chúng cũng hoạt bát lắm mà. Và trông có vẻ khỏe mạnh lắm.”
“Cho chúng ra thôi.”
Người đi găng vận ủng lúc này trùm thêm cả mặt nạ lưới rồi trèo vào giữa chúng tôi. Hắn ta mở cánh cửa sập ở đuôi lồng; một người đứng ngoài giơ một cái lồng nhỏ áp vào cửa, và chúng tôi từng đứa một bị đẩy vào những nhà tù tí hon nhốt riêng. Vài chuột cống gầm gừ tìm cách cắn lại, tôi không phản ứng và Jenner cũng vậy, chúng tôi thấy rõ làm thế chỉ vô ích. Khi đã xong người áo trắng bảo: “Sáu mươi ba, tốt đấy.” Một trong số ở xe đáp, “Cảm ơn ông, bác sĩ Schultz.” Còn chúng tôi bị chất lên xe đẩy và đẩy vào trong tòa nhà.
Bác sĩ Schultz. Lúc đó tôi còn chưa biết, nhưng tôi sẽ phải làm tù nhân (và học trò) của ông ta suốt ba năm tiếp theo.
Từ đó đến sáng chúng tôi ở trong một phòng dài màu trắng. Đấy thực tế đúng là một phòng thí nghiệm, có rất nhiều dụng cụ ở một đầu phòng mà hồi đó tôi còn chưa hiểu tí gì - chai lọ, những đồ kim loại sáng loáng, những hộp đen mọc ra đủ thứ dây nhợ. Nhưng đầu bên chúng tôi chỉ có hàng dãy lồng đặt trên kệ, mỗi lồng có gắn nhãn riêng, bị chắn khỏi hai lồng bên bằng hai bức vách gỗ. Ai đó mang theo một giá những hũ nhỏ đến, gắn một hũ vào lồng tôi, có ống nhỏ dẫn qua các song lồng như ống hút - đấy là nước uống. Rồi đèn tối đi và chúng tôi còn lại một mình.
Lồng ấy sẽ thành nhà tôi trong một thời gian dài. Trong đó không phải không dễ chịu: sàn lồng bằng một chất nhựa gì đó mềm vừa phải và khá ấm; thành và trần chỉ toàn song chắn nên cũng thoáng mát. Nhưng nội việc đây là một cái lồng cũng đáng sợ lắm rồi. Tôi trước nay vẫn chạy nhảy bất cứ nơi nào mình muốn thì bây giờ chỉ có thể nhảy lên trước ba bước, nhảy về sau ba bước là hết đường. Nhưng kinh khủng hơn nữa là cái cảm giác đáng sợ - tôi biết tất cả chúng tôi đều có - rằng chúng tôi hoàn toàn nằm trong tay một kẻ chúng tôi không biết là ai, vì một lý do chúng tôi chẳng biết là gì. Họ có kế hoạch nào cho chúng tôi?
Như sau này thấy, nỗi băn khoăn ấy là điều tệ nhất chúng tôi phải trải qua. Chúng tôi được đối xử khá tử tế, ngoại trừ vài đợt đau đớn rất nhẹ và rất nhanh, cũng nằm trong việc tập huấn. Và chúng tôi luôn được ăn uống đầy đủ, dù thức ăn là những viên nhỏ điều chế theo tính toán khoa học chẳng ngon lành gì.
Nhưng tất nhiên những điều đó chúng tôi chưa thể biết khi mới tới, và tôi nghĩ đêm đầu tiên ấy chẳng đứa nào ngủ nổi. Tôi thì chắc chắn không. Thế nên tôi có phần nào nhẹ nhõm khi sáng sớm hôm sau đèn bật sáng và bác sĩ Schultz đi vào. Cùng với ông ta còn có hai con người khác, một đàn ông và một đàn bà, đều còn trẻ. Ông ta đang dở câu chuyện với họ khi cả ba đi vào phòng tiến đến lồng chúng tôi.
“...ba nhóm. Hai mươi sẽ tập huấn dùng mũi tiêm loạt A, hai mươi loạt B. Như vậy là còn hai mươi ba con trong nhóm đối chiếu. Chúng không được tiêm gì - ngoại trừ ta sẽ chích bằng kim không thuốc để cho kết quả tuyệt đối cân bằng. Ta hãy gọi là nhóm A, B và C là nhóm đối chiếu. Hãy đeo thẻ và đánh số chúng từ A-1 đến A-20, B-1 đến B-20 và cứ thế. Lồng cũng đánh số như thế và mỗi con chuột ở nguyên trong một lồng. Thức ăn cho tất cả đều như nhau.”
“Khi nào thì ta bắt đầu tiêm?”
“Ngay khi đánh số xong. Chúng ta sẽ bắt đầu ngay bây giờ. George, em đánh số thẻ và lồng. Julie, em đeo thẻ vào chuột. Thầy sẽ giữ.”
Vậy là người đàn bà trẻ tên Julie, người đàn ông trẻ tên George. Tất cả họ đều đeo găng vào, thứ găng nhựa dai dài đến tận khuỷu. Chúng tôi từng đứa một bị bắt ra khỏi lồng, bị nắm nhẹ nhưng rất chắc trong tay bác sĩ Schultz trong khi Julie buộc quanh cổ mỗi đứa một dải nhựa vàng hẹp mang số. Sau cùng tôi cũng biết mình là số A-10.
Bọn họ đều rất hiền từ, nhất là Julie. Tôi vẫn nhớ khi một chuột được đeo thẻ, cô ta nhìn nó nói: “Cậu nhỏ tội nghiệp này đang sợ hãi quá. Nhìn nó run lẩy bẩy kìa.”
“Em là nhà sinh vật học kiểu gì vậy?” bác sĩ Schultz nói. “‘Cậu nhỏ tội nghiệp’ của em thực ra là một ‘cô nhỏ’ đấy.”
Khi đến lượt tôi, cửa lồng chỉ trượt ra một khoảng đủ để bác sĩ Schultz thò bàn tay đi găng vào. Tôi rúm người nép vào cuối lồng, chính là điều ông ta muốn, một bàn tay ấn tôi sát vào thành lồng, rồi những ngón tay nắm lấy vai tôi. Bàn tay kia nắm đầu tôi ngay sau tai, thế là tôi hoàn toàn bất lực. Tôi được nhấc ra khỏi lồng và cảm thấy cái đai nhựa bập vào quanh cổ. Tôi được trả lại trong lồng chỉ trong chưa đầy một phút. Cái đai không chặt lắm, nhưng có co giật hay giẫy giụa và vặn vẹo thế nào tôi cũng không tuột nổi ra.
Tôi nhìn qua các song mặt trước lồng thấy những chuột khác lần lượt bị tóm và đeo thẻ. Cách khoảng sáu lồng cũng trên kệ của mình tôi thấy họ đeo đai vào cổ Jenner, nhưng một khi anh đã vào lại lồng tôi không nhìn thấy anh nữa.
Quãng cuối buổi sáng họ trở lại phòng, lần này đẩy theo cái bàn có bánh xe. Trên bàn đặt một chai đựng chất lỏng không màu gì đó, một giá cắm đầy kim nhọn, và một cái pit tông. Lần này George giữ trong khi bác sĩ Schultz cắm một cây kim vào pit tông. Tôi cảm thấy đau nhói bên sườn, rồi thế là xong. Chúng tôi đều quen dần với việc đó, vì từ ngày đó trở đi chúng tôi bị tiêm ít nhất tuần hai lần. Người ta tiêm gì và để làm gì, tôi còn chưa biết. Nhưng với hai mươi đứa chúng tôi, những mũi tiêm ấy rồi sẽ biến đổi cả cuộc đời.