Mê Cung.
Trong những ngày tiếp theo đời chúng tôi dần đi vào nền nếp, và lý do chúng tôi bị bắt giữ dần dần rõ hơn. Bác sĩ Schultz là chuyên gia thần kinh học - nghĩa là ông ấy rất am hiểu về não bộ, dây thần kinh, trí thông minh và cách người ta học hỏi các thứ. Ông ta hy vọng thí nghiệm trên chúng tôi sẽ giúp hiểu rõ liệu những mũi tiêm nào đó có giúp người ta học nhanh và nhiều hơn được không. Hai người trẻ hơn đang làm việc với ông, George và Julie, là các nghiên cứu sinh về sinh học.
“Phải luôn chú ý,” ông bảo họ, “tìm những dấu hiệu tiến triển, tiếp thu nhanh hơn, phản xạ mau hơn ở nhóm A so với nhóm B, và cả hai nhóm so với nhóm đối chiếu.”
Quá trình tập huấn của tôi bắt đầu vào ngay hôm sau mũi tiêm đầu tiên. George là người thực hiện; tôi đoán Julie và bác sĩ Schultz cũng đang làm thí nghiệm đó với những chuột khác. Anh ta mang lồng đựng tôi trên kệ xuống, đem sang một phòng khác, tương tự như phòng kia nhưng có nhiều dụng cụ hơn, và không có kệ sắp lồng. Anh ta đặt lồng vào cái rãnh áp vào tường, kéo cho mặt sau lồng mở ra, mở cái cửa trên tường khớp với cửa lồng - và tôi được tự do.
Đấy là tôi tưởng thế. Cánh cửa nhỏ trên tường dẫn đến một hành lang ngắn, đầu bên kia - trông có vẻ thế - mở ra một thảm cỏ xanh rờn. Tôi nhìn rõ rành rành trước mắt, cả vài bụi cây sau thảm cỏ, và con phố sau bụi cây - thế giới bên ngoài chẳng có gì ngăn cách với tôi ngoài không khí. Thêm nữa tôi còn ngửi thấy mùi gió thoảng mát lành đang thổi vào. Họ đang thả tôi đi thật sao?
Tôi chạy vụt đến đầu bên kia hành lang - rồi giật ngược trở lại. Tôi không đi tiếp được. Vừa qua lồng chỉ khoảng hai bộ (vẫn đang mở đằng sau tôi) là mặt sàn bị hỏng hóc gì đó rất đáng sợ. Khi tôi giẫm lên đó, một cảm giác rung giật kinh khủng lan khắp da tôi, bắp thịt thắt lại, mắt lòa đi còn đầu tôi thì váng cả. Tôi chẳng bao giờ quen được với cảm giác ấy - chẳng ai trên đời này quen được - nhưng tôi đã phải nhận rất nhiều lần, và cuối cùng cũng hiểu đó là gì: điện giật. Không hẳn đau, nhưng không thể chịu nổi.
Thế nhưng tôi đang điên cuồng muốn thoát ra thảm cỏ rộng rãi kia, muốn chạy nhào đến các bụi cây, muốn tránh xa khỏi cái lồng. Tôi thử lại lần nữa - và lần nữa giật ngược lại. Chẳng ích gì. Rồi tôi nhìn thấy một hành lang khác rẽ sang bên trái. Ban đầu tôi không nhận ra vì còn mải háo hức nhìn theo đầu kia hành lang này. Hành lang kia có vẻ chỉ sau năm bộ là bị một bức tường trống chặn lại. Thế nhưng ở đó có ánh sáng - hẳn là phải có một chỗ rẽ nữa. Tôi chạy vào hành lang đó thật thận trọng, hết sức dè chừng mặt sàn. Đến cuối đường thì có lối rẽ sang phải - và trước mặt lại là thảm cỏ, lại là cửa mở. Lần này tôi đã đến gần hơn, rồi vừa lúc tưởng chuẩn bị ra đến nơi thì lại một cú giật nữa. Tôi lùi lại và nhận ra còn một hành lang thứ ba, mở về bên phải. Lại một lần tôi chạy, lại một lần thấy cửa mở thoát ra ngoài, và lại một lần tôi bị cản đường vì điện giật. Chuyện này cứ lặp đi lặp lại, thế nhưng mỗi lần hình như tôi lại đến gần tự do hơn.
Nhưng khi rốt cuộc tôi cũng đến nơi và chỉ một bước nữa là ra thảm cỏ thì một bức vách dây thép sập xuống trước mặt tôi, đằng sau cũng một bức nữa; trần hành lang mở ra bên trên và một bàn tay đi găng thò vào nhặt tôi lên.
Một giọng nói cất lên: “Bốn phút ba mươi bảy giây.”
Đấy là George.
Tôi đã chạy qua bao nhiêu hành lang chỉ để cuối cùng chui vào cái bẫy cách nơi xuất phát có vài bộ, và qua một cửa nóc giấu kín George đã quan sát mọi việc tôi làm.
Tôi vừa ở trong cái gọi là mê cung, một thứ công cụ kiểm tra trí thông minh và trí nhớ. Tôi còn bị đặt vào đó nhiều lần nữa, cũng như các bạn tôi. Lần thứ hai tôi đi qua nhanh hơn, vì còn nhớ được - phần nào - hành lang nào có sàn mắc điện còn hành lang nào thì không. Lần thứ ba tôi đi nhanh hơn nữa; và sau mỗi đợt George, hay có khi là Julie, có khi là bác sĩ Schultz, đều ghi lại thời gian. Chắc bà sẽ hỏi: Vì sao tôi phải mất công chạy qua đó nếu biết đấy chỉ là mánh khóe? Đấy là vì tôi không đừng được. Nếu sống trong lồng bà không thể không chạy, kể cả chỉ là chạy tới một ảo ảnh.
Còn nhiều mũi tiêm sau đó, còn nhiều bài kiểm tra khác nữa, một số còn quan trọng hơn mê cung, vì mê cung chỉ nhằm đo xem chúng tôi học được nhanh đến đâu, trong lúc vài bài khác dạy chúng tôi nhiều điều mới - hoặc ít ra cũng mở đường cho việc dạy dỗ thực sự.
Có một bài bác sĩ Schultz gọi là “nhận dạng hình học”. Chúng tôi được đặt vào một phòng nhỏ có ba cánh cửa dẫn ra ngoài - một cửa tròn, một cửa vuông, một tam giác. Các cửa này đều gắn bản lề và có lò xo tì vào cho đóng, nhưng cũng dễ đẩy mở, và mỗi cửa lại dẫn vào phòng khác có thêm ba cửa như phòng đầu. Nhưng vấn đề ở chỗ: Nếu đi nhầm cửa thì sẽ vào phải phòng có sàn điện và sẽ bị điện giật. Thế nên chúng tôi phải học: Ở phòng đầu tiên dùng cửa tròn, phòng tiếp theo cửa tam giác, vân vân.
Những hoạt động này khiến thì giờ trôi qua rất chóng, nháy mắt đã qua mấy tuần, nhưng không vì thế mà chúng tôi vơi mong mỏi được thoát khỏi đây. Tôi nhớ căn nhà cũ trong đường ống cống, tôi ước gì được gặp lại bố mẹ mình, được cùng anh trai chạy đến khu chợ. Tôi biết mọi chuột còn lại đều cảm thấy như thế, nhưng đấy hình như là một điều vô vọng. Thế nhưng vẫn có một chuột quyết định thử xem.
Đấy là một chú chuột trẻ, có lẽ trẻ nhất trong số bị bắt, và tình cờ lại ở lồng ngay cạnh tôi. Tôi nên nói thêm là cũng như Jenner và tôi, cậu ở trong số bác sĩ Schultz gọi là nhóm A. Tên cậu là Justin.
Một đêm muộn tôi nghe cậu gọi mình rất khẽ bên kia tấm vách gỗ ngăn các lồng. Những vách này nhìn chung ngăn chúng tôi không làm quen được với nhau dễ dàng như chúng tôi có thể muốn, cản trở không cho nói chuyện nhiều, bởi nghe qua vách gỗ rất khó khăn và tất nhiên chẳng bao giờ nhìn thấy mình đang nói với ai cả. Tôi nghĩ bác sĩ Schultz đã cố tình đặt làm từ một vật liệu cách âm gì đó. Nhưng vẫn có thể nghe được, nếu hai bên cùng đi vào góc lồng gần nhau nhất nói vọng qua mặt song chắn đằng trước.
“Nicodemus à?”
“Ừ?” Tôi đi lại góc lồng.
“Chúng ta ở đây bao lâu rồi?”
“Ý cậu là từ đầu ấy à? Từ lúc ta bị bắt hả?”
“Vâng.”
“Tôi không biết nữa. Vài tháng gì đó - tôi nghĩ thế, nhưng không biết cách nào tính được.”
“Tôi hiểu. Tôi cũng không biết. Anh có nghĩ là ngoài kia đã sang đông rồi không?”
“Có thể lắm. Hoặc cũng là cuối thu.”
“Trời chắc lạnh lắm.”
“Nhưng trong này không lạnh.”
“Không. Nhưng tôi sẽ cố thoát ra ngoài.”
“Thoát ra ngoài? Nhưng bằng cách nào? Lồng của cậu đóng chặt rồi.”
“Ngày mai là ngày tiêm nên họ sẽ mở ra. Khi nào lồng mở thì tôi sẽ chạy.”
“Chạy đi đâu?”
“Tôi chưa biết. Ít nhất là tôi sẽ xem xét được xung quanh. Có thể sẽ có đường ra. Tôi có gì để mất đâu?”
“Cậu có thể bị làm hại.”
“Tôi nghĩ là không. Ít nhất thì họ cũng sẽ không làm gì tôi.”
Ý cậu ta nói đến bác sĩ Schultz và hai người trẻ tuổi. Cậu ta tin tưởng nói thêm:
“Bao nhiêu mũi tiêm, bao nhiêu thời gian đã đổ vào ta - bây giờ chúng ta đối với họ quý giá lắm. Họ sẽ cực kỳ cẩn thận.”
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này, nhưng bây giờ tôi nhận ra cậu nói đúng. Bác sĩ Schultz, Julie cùng George đã dành gần hết thời gian làm việc cho chúng tôi trong hàng tháng trời, họ không thể để chuyện gì xảy ra cho chúng tôi được. Mặt khác thì họ cũng chẳng thể để đứa nào trong chúng tôi thoát đi.
Justin thử vận may sáng hôm sau. Chuyện đó quả có gây ra chút ít náo động, nhưng chẳng giống như chúng tôi đã tưởng. Julie là người mở lồng cậu, cầm theo một ống tiêm dưới da. Justin một bước nhảy vọt đã lao ra ngoài lồng, đập xuống sàn (cách khoảng bốn bộ) đánh bẹp, lắc mình rồi chạy thẳng về phía đầu kia phòng hút khỏi tầm nhìn của tôi.
Julie chẳng hề tỏ ra rối trí. Cô bình tĩnh đặt kim lên giá, rồi đi tới cửa phòng thí nghiệm nhấn nút trên tường cạnh cửa. Một ngọn đèn đỏ trên cửa bật sáng. Cô cầm cuốn sổ cái bút trên bàn gần cửa và đi theo Justin khuất mắt tôi.
Vài phút sau bác sĩ Schultz và George vào. Cả hai mở cửa rất thận trọng rồi đóng lại đằng sau. “Cửa ngoài cũng đóng rồi,” bác sĩ Schultz nói. “Nó ở đâu?”
“Dưới này,” Julie nói, “đang điều tra đường dẫn khí.”
“Thật à? Con nào thế?”
“Một con nhóm A, đúng như thầy đoán. Số 9. Em đang ghi chép hành vi của nó.”
Rõ ràng ngọn đèn đỏ là một loại tín hiệu cảnh báo cả ngoài lẫn trong cửa - “động vật thí nghiệm chạy loạn”. Và bác sĩ Schultz không chỉ biết một đứa trong chúng tôi thoát ra mà còn đoán trước chuyện này sẽ xảy ra.
“...sớm hơn vài ngày so với thầy tưởng,” ông ta đang nói, “nhưng như thế càng tốt. Em có thấy...”
“Nhìn này,” Julie nói. “Nó đang xem xét khắp tấm ván lát chân tường - nhưng cũng quan sát các cửa sổ nữa. Thấy nó lùi lại để nhìn lên cao hơn không?”
“Tất nhiên,” bác sĩ Schultz nói. “Và trong lúc đó cũng đang nhìn chúng ta. Các em thấy không?”
“Cậu này khá là trình cao đấy,” George nói.
“Các em có tưởng tượng con nào trong đám chuột thí nghiệm bình thường làm việc đó không? Hay kể cả nhóm đối chiếu nữa? Chúng ta phải thử mới hiểu rõ đang nắm được gì trong tay. Nhóm A bây giờ đã tiến bộ ba trăm phần trăm so với nhóm đối chiếu về tốc độ học rồi, và càng lúc lại càng khôn hơn. Nhóm B chỉ tiến bộ có hai mươi phần trăm. Chính là nhờ loại ADN mới nên mới có chuyện đó. Chúng ta đã đạt được một bước đột phá, và vì đây là ADN nên rất có thể chúng ta có một cuộc đột biến thật sự, một giống chuột mới hoàn toàn. Nhưng chúng ta sẽ phải rất cẩn thận. Thầy nghĩ bây giờ chúng ta nên tiếp tục với lượt tiêm thứ hai.”
“Steroid [1] à?”
(Dù tôi chẳng hiểu thế nghĩa là gì.)
“Phải. Có thể sẽ làm chúng chậm lại một ít - dù thầy cũng không tin lắm. Nhưng kể cả thế thì cũng đáng công, vì thầy đoan chắc lần này sẽ kéo dài tuổi thọ của chúng ít nhất là gấp đôi. Có thể còn hơn nữa. Có thể còn hơn nữa rất nhiều.”
“Nhìn kìa,” Julie nói. “A-9 vừa có một phát hiện. Nó đã tìm thấy đám chuột nhắt.”
George nói: “Xem nó đang quan sát bọn kia kìa.”
“Rất có thể,” bác sĩ Schultz đùa khô khan, “nó đang nghĩ không biết đám này cũng đã sẵn sàng nhận mũi tiêm steroid chưa. Thực tế là thầy nghĩ nhóm G đến lúc rồi. Chúng nó đang tiến triển cũng gần ngang với nhóm A đấy.”
“Em đi lấy vợt bắt nó lại nhé?” George hỏi.
“Thầy nghĩ là không cần đâu,” bác sĩ Schultz nói, “vì bây giờ nó đã hiểu nó chẳng thể thoát ra rồi.”
Nhưng họ đang đánh giá thấp Justin. Điều cậu hiểu chẳng phải là chuyện đó.