← Quay lại trang sách

Thung Lũng Gai.

Có lẽ kể tên những gì không có trong đó còn dễ hơn nhiều,” Nicodemus kể tiếp. “Cái xe tải ấy rộng không thua một xe buýt nhỏ, và ông già chẳng để phí tấc nào. Mà bên trong lại chẳng hề bừa bộn gì hết; ngược lại mọi thứ đều sắp xếp gọn gàng trên kệ, trên móc hay trên tủ.”

Mất một lúc chúng tôi mới hiểu mình đã tìm thấy một kho tàng vô cùng quý giá. Trong xe là một kho đồ chơi lớn như bà hẳn đoán được. Trong đó còn là chốn sinh hoạt giản dị của ông già: giường gấp, bàn làm việc, ghế gấp, xô đựng nước, đĩa, nồi, chảo và các vật dụng khác. Có một tủ lạnh tí xíu đựng thức ăn, với ít đồ đóng hộp - đậu xanh, quả đào vân vân.

Phần lớn chỗ đồ chơi - như ban đầu chúng tôi tưởng - chẳng có tác dụng cần thiết nào. Có ô tô và xe tải, cối xay gió và đu quay, máy bay, tàu thủy và nhiều loại khác, phần lớn đều chạy pin. Nhìn chúng rất hấp dẫn và một số còn được đem ra chạy thử, lúc đó trên sàn trông như buổi sáng ngày Giáng sinh.

Chơi mãi cũng chán, chúng tôi đi sâu hơn xem xét bên trong. Gần phía đầu xe chúng tôi tìm thấy vài hộp các tông lớn, mở ra thì thấy trong toàn các động cơ điện thuộc đủ kích cỡ - máy dự trữ thay thế các đồ chơi cũ hỏng. Có đến hàng chục, từ những loại rất nhỏ chỉ cỡ cuộn chỉ đến loại nặng đến nỗi chúng tôi gần như không nhấc được.

Rồi bên cạnh chúng tôi tìm thấy vật báu thực sự: đồ nghề của ông già. Tất cả sắp xếp gọn gàng thành từng hàng sáng lóa trong một tủ thép to như cái rương. Trong đó là tuốc nơ vít, cưa, búa, kìm bóp, ê tô, cờ lê, kìm cắt. Có dụng cụ hàn, mỏ hàn, khoan điện. Điều đáng nói nhất là, vì những món này dùng để sửa đồ chơi nên gần như tất cả đều nhỏ xíu, vừa đủ nhỏ cho chúng tôi sử dụng. Nhưng bản thân chúng thì lại không phải đồ chơi, chúng đều làm từ thép tôi rất quý, như đồ nghề nha sĩ hay thợ sửa đồng hồ.

Arthur là người nhận ra đầu tiên:

“Các anh có hiểu chúng ta vừa bắt được gì không? Ở đây có đủ để mở cả cửa hàng điện máy ấy chứ. Có các dụng cụ và bao nhiêu động cơ này rồi ta muốn gì là làm được nấy.”

“Phải rồi,” Jenner nói, “ngoại trừ chú quên mất một điều.”

“Điều gì?”

“Chúng ta làm gì có điện. Ông già không thể dùng pin chạy các dụng cụ này được. Mấy động cơ đồ chơi nhỏ thì được, nhưng mấy món đồ thực, mấy món cắm điện thì không. Ông ta phải cắm vào nguồn điện nhà thì mới dùng được. Nhìn xem trên tường có dây nối dài kìa.”

Một cuộn dây cáp đen dài treo vào móc trên tường. Một đầu dây có phích cắm còn đầu kia có ổ điện.

Lúc này một chuột khác phát biểu, tên cậu ta là Sullivan. Cậu ta là bạn rất thân với Arthur, và cũng như Arthur đặc biệt thích thú máy móc và điện.

“Có lẽ,” cậu ta nói, “chúng ta cũng có thể cắm vào điện nhà ai đó.”

“Ai?” tôi hỏi. “Ai sẽ cho chúng ta cắm?”

“Anh có nhớ cái hang ta vừa xem hôm trước không? Cái hang ta bảo là quá gần nhà nông trại ấy?”

Tất cả bắt đầu từ đó. Đoạn kết thì bà đã tự thấy rồi. Hang cậu ta nói chính là cái hang hôm nay bà tới.

Chúng tôi quay trở lại hang xem xét kỹ lưỡng hơn. Hang quả là quá gần, ít nhất cũng gần nơi ở con người hơn chúng tôi dự định trước đó. Nhưng rồi chúng tôi thấy bụi hồng rất lớn gần nhà để máy kéo, nếu đào xới thật nhiều có thể đặt một lối vào ở đó. Nhưng quan trọng hơn cả là chúng tôi nhìn thấy bóng đèn điện trong nhà để xe.

Ông Fitzgibbon đặt đường dây điện ngầm từ nhà mình ra nhà xe. Chúng tôi đào đường hầm đến chỗ nó, nối dây vào là có điện dùng thoải mái. Đường ống nước cũng chạy gần đó. Chúng tôi cũng mắc luôn cả nước, vậy là đã có nước vòi. Rồi, ít một, chúng tôi chuyển dụng cụ và động cơ từ xe ông Đồ chơi rong vào hang. Chúng tôi đã gần chuyển hết thì chiếc xe biến mất. Một hôm chúng tôi trở lại, xe đã không thấy đâu - chỉ còn lại cái hố nơi bánh xe sụp xuống. Chắc kiểm lâm đã tìm thấy lôi nó đi rồi. Nhưng họ chẳng bao giờ phát hiện, cũng chẳng bao giờ quấy quả gò đất có chôn ông già.

Thế là chúng tôi xây đắp cuộc đời mà bà thấy ở đây. Khu định cư ngày càng lớn mạnh, bây giờ đã có một trăm mười lăm chuột. Chúng tôi dạy các con học đọc học viết. Chúng tôi có thừa thức ăn, có nước máy, có điện, có quạt thông khí, có thang máy và tủ lạnh. Vì ở sâu dưới đất nên nhà chúng tôi vẫn ấm trong mùa đông và mát mùa hè. Đấy là một cuộc sống êm dịu, gần như xa hoa nữa.

Nhưng vẫn có gì không ổn. Sau những ngày hăng hái đầu tiên, vận chuyển máy móc, đào hầm hào, phòng ốc - sau khi tất cả đã xong thì cảm giác bức xúc trùm lên chúng tôi như một căn bệnh dễ lây.

Ban đầu chúng tôi đều ngại không muốn thừa nhận nó. Chúng tôi cố gạt cảm giác ấy đi, hoặc cưỡng lại bằng cách xây thêm nhiều nữa - phòng to hơn, đồ đạc hoành tráng hơn, hành lang trải thảm, những thứ chúng tôi không thật cần. Điều đó làm tôi nhớ lại một câu chuyện đã đọc ở Điền trang Boniface khi đang tìm sách vở viết về chuột. Đấy là chuyện một bà nội trợ trong thị trấn nhỏ đi mua máy hút bụi về. Bà ta tên là bà Jones, và đến lúc đó thì cũng như láng giềng xung quanh bà vẫn dọn dẹp nhà sạch bóng chỉ bằng chổi và giẻ lau. Nhưng máy hút bụi làm việc chóng hơn và sạch hơn hẳn, và dần dà bà Jones trở thành đối tượng ghen tị của mọi bà nội trợ khác trong thị trấn - và họ cũng đều đi mua máy hút bụi.

Máy bán chạy đến nỗi công ty sản xuất mở hẳn một nhà máy riêng ở thị trấn đó. Nhà máy dùng rất nhiều điện, dĩ nhiên, và các bà nội trợ hút bụi bằng máy cũng tốn điện, thế là công ty điện địa phương phải xây thêm một trạm điện lớn để cung cấp cho tất cả. Trạm điện đốt than trong lò, các ống khói xả khói đen ngày đêm, muội bám đen cả thị trấn khiến sàn nhà bẩn hơn bao giờ hết. Nhưng vì chịu khó làm việc gấp đôi và bỏ thời gian gấp đôi, các bà trong thị trấn vẫn có thể lau sàn nhà sạch gần bằng trước khi bà Jones mua cái máy hút bụi khởi thủy.

Câu chuyện nằm trong một cuốn các bài chính luận và tôi háo hức đọc quyển đó chỉ vì cái nhan đề “Cuộc đua của chuột” - mà như sau này tôi hiểu, nghĩa là cuộc đua mà có chạy nhanh đến đâu thì ta cũng chẳng tới đâu. Nhưng trong sách chẳng nói gì về chuột hết, và tôi rất bất bình với nhan đề vì, như tôi nghĩ, đấy chẳng phải cuộc đua của chuột chút nào, đấy là Cuộc đua của Người, và chẳng con chuột sáng suốt nào lại làm điều ngớ ngẩn như thế cả.

Thế mà chúng tôi, đàng hoàng là chuột, lại đang mắc bẫy trong một dạng Cuộc đua Người, mà chẳng vì lý do nào xứng đáng. Mà tệ nhất là với bao nhiêu dự án giết thời gian ấy, chúng tôi vẫn chẳng có mấy việc để làm. Cuộc đời chúng tôi quá dễ dàng. Tôi nghĩ lại những gì nhà khoa học kia đã viết về các tổ tiên chó đồng cỏ và trở nên lo lắng.

Nhiều chuột khác cũng có cùng cảm giác. Chúng tôi triệu tập một cuộc họp - đúng hơn là cả một chuỗi cuộc họp kéo dài hơn một năm. Chúng tôi bàn bạc, tranh cãi rồi tính toán, và nhớ lại những buổi tối trong thư viện tại Điền trang Boniface từng suy nghĩ nền văn minh chuột nếu có sẽ như thế nào. Rất lạ là Jenner, người bạn thân lâu năm nhất của tôi, lại không tham gia thảo luận mấy; anh chỉ im lặng có vẻ khá ủ ê, dường như không quan tâm. Nhưng phần lớn số còn lại thì cũng thấy như tôi, và dần dần một vài chuyện được sáng tỏ. Chúng tôi nhìn nhận được vấn đề của mình và suy nghĩ, trong chừng mực có thể, nên làm thế nào.

Trước hết chúng tôi nhận ra chính việc tìm được xe tải của ông Đồ chơi rong, dù lúc đó có vẻ là vận may vô bờ, đã đẩy chúng tôi vào cái bẫy lẽ ra nên tránh. Vì chuyện đó mà bây giờ chúng tôi còn ăn cắp nhiều hơn nữa: không chỉ thức ăn mà còn cả điện nước. Ngay cả không khí đang hít thở cũng thổi vào nhờ cái quạt ăn cắp, chạy bằng dòng điện câu trộm.

Tất nhiên, chính điều đó đã cho chúng tôi cuộc sống dễ dàng đến mức thành vô nghĩa. Chúng tôi chẳng có nhiều việc cần làm, bởi cuộc sống của tên ăn trộm bao giờ cũng dựa trên lao động của người khác.

Hai nữa, lúc nào cũng còn lại nỗi sợ lẩn quất trong vô thức rằng chúng tôi sẽ bị bắt. Có lẽ cũng không phải bắt - chúng tôi rất cẩn trọng phòng ngừa - mà là bị phát hiện. Ông Fitzgibbon chắc chắn biết một phần hoa màu của mình bị lấy đi. Mà nhóm chúng tôi càng đông lên thì càng phải lấy thêm nhiều nữa.

Lúc này ông ta đã bắt đầu đặt tấm thép chắn mấy vựa ngũ cốc rồi. Riêng cái đó thì không cản trở mấy, vì chúng tôi có cách mở cửa. Nhưng nhỡ ông ta lắp khóa thì sao? Tất nhiên chúng tôi vẫn có thể cắt khóa, thậm chí cắt xuyên vách thép, dụng cụ có đủ. Nhưng như thế sẽ tiết lộ rành rành. Liệu ông Fitzgibbon sẽ nghĩ thế nào về đám chuột biết cắt xuyên kim loại?

Tất cả những chuyện đó chúng tôi đã lo lắng, bàn luận đến nát óc. Nhưng chúng tôi chẳng tìm được giải pháp dễ dàng nào - bởi thứ đó chẳng có trên đời.

Tuy vậy, giải pháp khó khăn thì lại có.

Tôi bắt đầu có thói quen đi dạo lâu trong rừng. Có một ý đồ lấp ló trong óc tôi. Đôi lúc tôi đi một mình, có khi với vài chuột khác.

Cái hôm ấy tôi đi với Jenner. Tôi vẫn chưa nói ý tưởng mình cho anh nghe, buổi sáng ấy khi đi ra cũng không nói mà chỉ đề nghị đại khái hướng đi. Chúng tôi mang thức ăn vừa đủ bữa trưa. Tôi còn nhớ đó là mùa thu, một ngày quang đãng mát mẻ, lá xào xạc khi gió thổi, vài chiếc đang ngả vàng.

Những lần đi dạo tôi đã lần theo các đường mòn chạy xe, tìm xem chúng dẫn đi đâu và nơi nào không có, tìm khu vực hoang dã nhất trong rừng, những nơi ngay cả kiểm lâm cũng không ló mặt.

Vài lần tôi cố dò hỏi thông tin. Chẳng hạn có lần tôi hỏi hai con sóc, có biết bên kia ngọn núi đang dựng lên trước mặt tôi đây là gì không. Nhưng đấy là những con vật ngốc nghếch sợ sệt, sau khi ngạc nhiên nhìn tôi thì cả hai chạy tuốt lên ngọn sồi và la lối om sòm chẳng ra nghĩa gì cả, đuôi phất lia lịa, đến lúc tôi bỏ đi. Tôi hỏi lũ sóc chuột, chúng tỏ ra lịch sự hơn. Chúng không trả lời được (vì chưa bao giờ đi quá một trăm thước khỏi nơi chôn nhau cắt rốn!) nhưng cũng khuyên tôi hãy hỏi lũ chim - cụ thể hơn là hỏi một con cú rất già, nổi tiếng khắp khu rừng. Chúng còn chỉ dẫn cho tôi làm sao tìm đến được cái cây khổng lồ nó sống.

Tôi làm quen với ông cú từ đó. Ông ta biết từng cái cây, từng lối mòn, từng tảng đá trong rừng. Ông ta (chắc bà biết) thông thường không thân thiện với chuột, chuột cống hay chuột nhắt cũng thế, nhưng khi nghe tôi kể về cuộc sống tại Nimh và hành trình trốn thoát thì ông ta bắt đầu quan tâm. Dù không nói ra nhưng tôi nghĩ ông ta đã bắt đầu quan sát từ trên cao một vài hoạt động của chúng tôi vào buổi tối. Dù sao thì ông ta cũng tò mò và lắng nghe rất kỹ khi tôi kể về các rắc rối của cả nhóm và ý tưởng giải quyết của tôi. Từ đó trở đi tôi đã nói chuyện với ông nhiều lần nữa.

Chính ông đã cho tôi biết về Thung lũng Gai.

Thung lũng ấy nằm tận sâu trong rừng, đi quá cả cái cây lớn. Các đường mòn xe chạy không đi qua đó, thậm chí chẳng đến gần vì rặng núi bao quanh quá hiểm trở, dốc và gập ghềnh đến xe jeep cũng không chạy được, lại mọc đầy bụi gai. Ông cú bảo rằng bay qua đó bao nhiêu năm, chưa bao giờ ông ta thấy có người đến gần đó cả.

Thế nhưng đáy thung lũng lại bằng phẳng rộng rãi và dài đến gần một dặm; khắp bốn phía xung quanh là vách đá dựng đứng. Có ba cái ao hay hồ nhỏ trong thung lũng, có vẻ đều được tiếp nước từ suối vì không bao giờ thấy cạn. Ông cú nói những ngày quang mây thỉnh thoảng còn thấy có cá nhỏ bơi trong đó. Tôi nghĩ: Không biết chuột có đan lưới hay làm lưỡi câu được không?

Chính thung lũng này là thứ tôi muốn tìm hôm rủ Jenner đi cùng. Tôi được chỉ dẫn đường rất cặn kẽ nhờ ông cú, thế mà đi thật nhanh vẫn mất nửa ngày mới đến được chân núi. Rồi trèo lên, lên mãi, đường dốc đứng, mất hơn một giờ - không hẳn khó khăn lắm vì chuột trèo giỏi hơn người, hơn nữa chúng tôi thấp hơn nên không sợ những bụi gai thấp. Cuối cùng lên được tới đỉnh núi nhìn xuống, thung lũng trải ra trước mắt chúng tôi.

Nơi ấy rất đẹp và tĩnh lặng, trông vừa hoang dã vừa cô quạnh. Qua những ngọn cây xanh và vàng dưới kia tôi thấy một hồ nước lấp lánh trong ánh nắng. Tôi có cảm giác mình - chúng tôi - là những kẻ đầu tiên đưa mắt nhìn vào đây. Nhưng không phải thế, vì đang lúc tuột xuống thung lũng thì có một con hươu thình lình xuất hiện giữa đám cây trước mặt và nhảy vọt đi theo sườn dốc. Ở đây rất nhiều thú rừng, và tôi tự hỏi có bao giờ chúng tưởng tượng nổi bên ngoài vách núi kia lại có thành phố, đường sá, loài người không.

Phần lớn lòng thung lũng có rừng che phủ, những cây sồi hay thích lớn sum suê, nhưng gần một hồ nước tôi nhìn thấy đúng như đã hy vọng: một khoảng quang đãng tự nhiên, một trảng cỏ chỉ có cỏ xước và hoa dại, thêm vài bụi mâm xôi đen. Khoảng trống này ở đầu bên kia thung lũng, cạnh đó đã lại là vách núi dốc đứng, có những tảng đá lớn trồi ra - những gờ đá granite nhô ra độ sáu đến mười thước khỏi mặt đất.

“Chúng ta có thể sống ở đây,” tôi nói với Jenner.

“Anh nghĩ là được,” anh nói. “Chốn này rất đẹp. Nhưng ở đây lại cách nhà kho rất xa. Nghĩ xem ta sẽ phải tha thức ăn đi bao lâu. Lại không có điện nữa.”

“Chúng ta có thể tự trồng lấy ăn,” tôi nói. Tôi định nói thêm nhưng lại thôi: và có thể đến một ngày sẽ tự làm ra điện nữa, nếu thấy cần thiết.

“Chúng ta đâu biết cách. Mà có thì cũng trồng ở đâu được?”

“Ngay đây này. Phạt hết những cỏ dại và cây bụi này cũng dễ thôi. Và nếu đục vào sườn núi kia dưới mấy vách đá chìa ấy, ta sẽ có hang to cỡ nào mình muốn, vừa khô vừa ấm, lại có mái che. Muốn đủ chỗ cho cả ngàn chuột cũng được.”

“Chúng ta đâu đến một ngàn.”

“Có thể sau này sẽ đến.”

“Nhưng tại sao? Vì sao phải chuyển chỗ cơ chứ? Ngay lúc này ta đang sống ở nơi tốt hơn nhiều. Ta có đủ thức ăn mình cần. Ta có điện, có ánh sáng, có nước máy. Anh không hiểu nổi vì sao mọi người cứ nói mãi chuyện thay đổi.”

“Vì mọi thứ ta có đều là của ăn cắp.”

“Ngớ ngẩn. Nông dân vắt sữa của bò, lấy trứng của gà thì có phải ăn cắp không? Đấy là vì họ thông minh hơn bò và gà, chấm hết. Người là bò của chúng ta, thế đấy. Nếu chúng ta thông minh hơn thì sao không được lấy đồ ăn của họ?”

“Hai chuyện không giống nhau. Người nông dân cho bò và gà ăn và chăm sóc chúng. Chúng ta chẳng làm gì đổi lấy thứ ta lấy cả. Hơn nữa nếu cứ tiếp tục, thế nào ta cũng bị phát hiện.”

“Vậy thì sao? Bị phát hiện thì sao? Con người đã cố tiêu diệt chuột hàng thế kỷ nay rồi nhưng có thành công đâu. Và chúng ta lại thông minh hơn hẳn số còn lại. Họ sẽ làm gì? Đặt thuốc nổ à? Cứ thử làm xem. Ta sẽ tìm ra họ để thuốc nổ ở đâu và cho nổ họ trước.”

“Đến lúc đó ta sẽ bị phát hiện thực sự đấy. Jenner, anh không thấy à, nếu ta có bao giờ làm gì như thế thì họ sẽ đoán ra ngay ta là ai và ta biết gì. Lúc đó thì chỉ có một trong hai khả năng. Một là họ sẽ truy đuổi tất tật chúng ta rồi giết hết, hai là họ sẽ tóm chúng ta đem trưng bày, hoặc có khi mang lại về Nimh cũng nên. Và lần này chúng ta vĩnh viễn không thoát ra được nữa.”

“Anh chẳng tin có những chuyện đó,” Jenner nói. “Em cứ bị ám ảnh bởi ý nghĩ đó. Chúng ta phải bắt đầu từ số không, chúng ta phải chăm chỉ làm việc, chúng ta phải xây dựng nền văn minh chuột. Anh thì nghĩ việc gì phải bắt đầu từ số không nếu có thể bắt đầu từ mọi thứ chứ? Chúng ta đã có một nền văn minh rồi.”

“Không, chúng ta chưa có. Chúng ta chỉ đang sống bên rìa người khác, như bọ chét sống trên lưng chó. Nếu chó chìm bọ chét cũng chìm theo.”

Từ đó bắt đầu một cuộc tranh cãi chưa bao giờ đạt đến kết luận nào hợp ý. Jenner không chịu nhún theo quan điểm của tôi, tôi cũng vậy. Không phải là anh lười biếng không muốn làm việc. Chỉ là anh yếm thế hơn số còn lại, chuyện lấy cắp chưa bao giờ khiến anh băn khoăn. Và anh lại là một kẻ bi quan. Anh chẳng bao giờ tin chúng tôi có thể tự mình thành công được. Có lẽ anh nghĩ đúng. Nhưng tôi cũng như hầu hết số còn lại nghĩ, ít ra chúng tôi cũng phải thử xem. Nếu thất bại - chậc, tôi nghĩ lúc đó sẽ phải quay lại đây, hay tìm một trang trại khác. Hoặc cuối cùng quên hết những gì đã học và trở lại đánh cắp rác rưởi.

Thế là chúng tôi bắt tay vào Kế hoạch. Cho đến giờ cũng đã khá lâu rồi. Giờ này mùa xuân ba năm trước chúng tôi bắt đầu quan sát ông Fitzgibbon để xem ông làm gì, làm như thế nào, mà lại khiến mặt đất sinh ra thực phẩm. Chúng tôi tập hợp sách báo tạp chí về nghề nông. Từ đầu chúng tôi đã nhận thấy muốn thôi trộm cắp, trước mắt chúng tôi sẽ phải ăn trộm hơn nhiều so với trước. Chúng tôi đã tích trữ thức ăn đủ cho hai năm, để nếu không trúng vụ ngay năm đầu thì cũng không phải đói. Chúng tôi đã chuyển được hai phần ba vào Thung lũng Gai và đã đào xong cái hang khô ráo để cất giữ rồi, dưới một tảng đá lớn. Chúng tôi có hạt giống, có máy cày, chúng tôi đã phát quang và cày xới khoảnh đất gần hồ, chỉ vài ngày nữa sẽ bắt đầu gieo hạt. Chúng tôi còn đào cả ít mương dẫn nước, phòng khi trời hạn.

Chúng tôi đã lập một bảng tiến độ, như kiểu đếm lùi, và tới đầu tháng Sáu chúng tôi sẽ ra khỏi hang này, ra khỏi nhà kho của ông Fitzgibbon, hy vọng là vĩnh viễn.