← Quay lại trang sách

Bị Bắt.

Mà nhân chuyện tiến độ và đếm ngược,” thầy Ages đột nhiên nói, “chúng ta có việc phải làm tối nay đây. Sắp muộn rồi.”

Đồng hồ trên bàn Nicodemus chỉ năm giờ chiều.

“Bà Fitzgibbon cho Rồng ăn lúc sáu giờ.” Thầy nói nhẹ nhàng, nhưng giọng thầy trong tai chị Frisby nghe lạnh người. Tất cả đều nhìn sang chị.

“Tôi sẵn sàng rồi,” chị lặng lẽ đáp, “nhưng vẫn còn ít phút nữa, và vẫn còn một câu hỏi các anh chưa trả lời tôi. Tại sao Jonathan không bao giờ kể gì với tôi về Nimh hay mọi chuyện khác?”

Thầy Ages đáp: “Tôi sẽ cố giải thích xem. Khi Nicodemus và các chuột khác vào sống trong hang gần bụi hồng, họ có mời Jonathan và tôi tới sống cùng - suy cho cùng thì khi ấy chúng tôi cũng ở với họ nhiều tháng rồi - và ban đầu chúng tôi đồng ý. Nhưng sau vài tuần chúng tôi quyết định ra ngoài sống. Như chị thấy đấy, chúng tôi thuộc loài khác. Chúng tôi đều thấy bất an khi lúc nào cũng gặp gỡ chuột cống và chỉ mỗi chuột cống, dù họ có là bạn thân rất tốt của mình nữa. Riêng tôi thì tôi muốn được yên tĩnh hơn, bớt giao lưu đi, Jonathan ngược lại, anh còn trẻ và thấy cô quạnh.”

“Thế là chúng tôi chuyển ra, ban đầu ở cùng nhau trong cái hầm nhà trại cũ tôi vẫn sống bây giờ đấy. Rồi Jonathan gặp chị, cạnh dòng suối đâu đó gần rừng, tôi nghĩ là anh kể thế...”

“Phải,” chị Frisby nói, “tôi vẫn nhớ.”

“Từ đó trở đi anh ấy rất lo lắng. Anh không muốn phải giấu giếm, nhưng anh không biết làm cách nào nói với chị một điều. Tôi tin là Nicodemus đã cho chị biết những mũi tiêm ở Nimh gây ra hai tác dụng, trong đó một là chúng tôi không ai có vẻ già đi tí nào - lũ trẻ thì có lớn lên, nhưng chuột lớn không già đi. Rõ ràng là mũi tiêm đã cho chúng tôi tuổi thọ cao hơn nhiều so với bác sĩ Schultz dự báo.

“Chắc chị hiểu phải thừa nhận chuyện đó với chị là một điều rất đáng sợ cho Jonathan. Chị chưa bao giờ nhận mũi tiêm. Nghĩa là trong lúc anh ấy trẻ mãi thì chị sẽ già đi, già thêm, cuối cùng sẽ chết. Anh ấy yêu chị và ý nghĩ ấy làm anh khổ sở. Thế nhưng, anh nghĩ, nếu anh mà còn buồn khổ thì chị sẽ thấy khốn khổ đến đâu! Đấy là điều anh không đủ sức nói ra với chị.”

“Chắc chắn cuối cùng anh cũng sẽ nói thôi, tôi biết là anh đã định vậy. Thực tình là nếu không chị cũng sẽ tự nhận ra, sẽ chứng kiến nó diễn ra trước mắt. Nhưng khó quá. Anh ấy cứ lần lữa mãi, và cuối cùng thì đã muộn.”

“Tội nghiệp Jonathan,” chị Frisby nói. “Đáng ra anh ấy nên kể cho tôi. Tôi chẳng bận tâm đâu. Nhưng liệu lũ trẻ...”

“Có sống lâu không à?” Nicodemus nói. “Chúng tôi còn chưa biết. Chúng tôi nghĩ là có, nhưng con cái chúng tôi vẫn chưa lớn đến mức kiểm nghiệm được. Chúng tôi có biết chúng thừa hưởng được khả năng học. Chúng biết đọc gần như không cần tập.”

Ông đứng dậy, bỏ kính ra và nhìn đồng hồ. Nhưng chị Frisby lại ngắt lời.

“Còn một chuyện nữa,” chị nói. “Jenner đã gặp chuyện gì?”

Nicodemus nói: “Anh ấy bỏ đi. Anh ấy chống đối Kế hoạch ngay từ đầu. Trong lúc thảo luận, anh ấy tìm cách thuyết phục tất cả cùng phản đối. Chỉ có vài chuột hưởng ứng, mặc dù một số khác vẫn còn nghi ngại, nhưng họ quyết định ở lại và cùng thử với chúng tôi.”

“Việc tranh cãi diễn ra cũng khá hòa hảo đúng lý, nhưng giọt nước cuối cùng với Jenner là khi chúng tôi quyết định hủy hết máy móc.”

“Hủy à!”

“Có hai lý do. Thứ nhất là để nếu cái hang có bị tìm thấy thì cũng không còn dấu vết về những việc chúng tôi đã làm - người ta sẽ chỉ thấy những mẩu kim loại vỡ, đầu thừa đuôi thẹo, như rác thông thường. Chúng tôi sẽ gỡ hết dây điện, đèn đóm, ống nước. Mọi đường hầm dẫn vào cũng sẽ bịt.

“Lý do thứ hai quan trọng hơn. Khi chuyển sang Thung lũng Gai, chúng tôi sẽ phải đối mặt với nhiều vất vả. Chúng tôi biết vậy nên đang chuẩn bị tinh thần. Nếu hang này vẫn mở, máy móc đèn đóm vẫn nguyên, thảm trải và nước máy vẫn còn, đấy sẽ là cám dỗ ghê gớm gọi chúng tôi bỏ cuộc và quay lại cuộc sống dễ dàng. Chúng tôi muốn diệt trừ cám dỗ ấy.”

“Nhưng khi Jenner nghe thấy quyết định ấy - thông qua trong một buổi họp - anh ấy nổi xung thiên. Anh ấy mắng tất cả lũ chúng tôi là ngu xuẩn viển vông. Anh ấy đùng đùng bỏ ra khỏi cuộc họp, và mấy ngày sau anh ấy bỏ nhóm vĩnh viễn, mang theo sáu đệ tử đi cùng. Chúng tôi không biết họ đi đâu, nhưng chắc họ sẽ cố tìm nơi nào đó để dựng lại một cuộc sống mới giống thế này.”

“Tôi cầu mong họ gặp may, nhưng họ sẽ khốn đốn lắm. Lần này sẽ chẳng có ông Đồ chơi rong nào cả. Họ sẽ phải ăn cắp máy móc - và mọi thứ. Chuyện đó khiến chúng tôi lo lắng, vì nếu họ mà bị bắt thì ai biết sẽ có chuyện gì? Nhưng chúng tôi cũng chẳng làm gì được. Chúng tôi vẫn tiếp tục Kế hoạch thôi, và khi nào đến được Thung lũng Gai rồi thì tôi nghĩ có thể thôi lo lắng.”

Justin đứng dậy. “Đến lúc phải đi rồi.” Anh cầm theo gói giấy đựng bột thuốc ngủ.

Chị Frisby, Justin và thầy Ages cùng đi dọc hành lang dài dẫn lên bụi hồng.

“Nhớ kỹ nhé, khi nào chị trồi lên lỗ dưới sàn bếp,” thầy Ages nói, “là chị đã ở dưới tủ bếp. Tủ rất thấp nhưng vẫn đủ rộng có thể đi được. Bước lên trước vài bước, chị sẽ nhìn được vào trong phòng.”

“Bà Fitzgibbon sẽ ở trong phòng chuẩn bị bữa tối cho gia đình. Nhà họ ăn độ sáu giờ. Khi nào nấu xong bữa tối bà sẽ cho con Rồng ăn. Nó không ở trong bếp đâu mà đợi ngoài hiên ngay cạnh cửa bếp. Bà không cho nó vào lúc nấu vì bản thân nó cũng rất quấy nhiễu, cứ cọ mình vào mắt cá chân và luẩn quẩn giữa hai chân bà.”

“Nhìn sang phải chị sẽ thấy cái bát. Cái bát màu xanh, trên có chữ Miu Miu viết vòng quanh bát. Bà ta sẽ lấy bát lên, đổ thức ăn mèo vào rồi đặt xuống đúng chỗ cũ.”

“Lúc đó thì nhìn thật kỹ. Bà ta sẽ đi ra cửa mở cho nó vào, đấy là thời điểm hành động. Bà sẽ quay lưng về phía chị. Bà phải đi chừng hai chục bộ - bếp nhà họ khá rộng. Cái bát cách chị khoảng hai bộ. Nhớ là gói giấy phải mở - rồi chạy vọt ra, đổ thuốc vào thức ăn rồi chạy vọt về. Chị không được lộ mình khi con Rồng vào tới. Cái này tôi cam đoan từ kinh nghiệm bản thân.”

“Thầy gãy chân là vì thế à?”

“Tôi tới muộn vài giây. Tôi nghĩ vẫn còn đủ thời gian. Tôi đã nhầm.”

Tới cổng vòm trong bụi hồng thầy Ages từ giã họ. Với cái chân bó bột thầy chẳng thể trèo qua hố vào bếp được; có đi thêm cũng chỉ vô ích.

Chị Frisby và Justin ra khỏi bụi hồng nhìn quanh. Trời vẫn còn sáng dù mặt trời đã xuống gần đường chân trời. Ngay trước mặt, cách chừng hai trăm bộ là ngôi nhà to màu trắng. Con Rồng đã ngồi sẵn trên hiên, ngay ngoài cửa, mắt nhìn mong ngóng. Bên phải là nhà xe, sau nữa là hàng rào nhà kho và chính cái nhà kho đổ bóng dài. Đằng sau họ là rừng núi lừng lững, đằng bên trái chị Frisby nhìn thấy tảng đá lớn giữa vườn, gần đó bầy con đang đợi. Chỉ cần nhiệm vụ hoàn thành, chị nghĩ, chị sẽ lập tức phóng về với chúng chuẩn bị chuyển nhà.

“Ta đi luồn dưới phía bên phải nhà,” Justin khẽ nói. “Theo tôi.” Họ đi vòng theo mép sân, chạy trong bóng tối, mắt theo dõi con Rồng. Justin vẫn đeo cặp và đã bỏ gói thuốc trong cặp.

Phần chính của ngôi nhà Fitzgibbon có tầng hầm ở dưới, nhưng cái bếp lớn xây sau này, dựng trên móng bê tông chỉ chừa bên dưới một khoảng đủ để trườn. Khi đến gần tảng móng xám, chị Frisby nhận thấy ở gần chính giữa, cách mặt đất vài phân, có một hình vuông xám đậm hơn. Đấy là một cái lỗ chừa lại để thông hơi, có lưới chắn. Khi đến nơi, Justin nắm lấy lưới giật một góc. Cái lưới mở tung.

“Chúng tôi đã nới lỏng một chút,” anh giải thích và mở cho chị vào. Chị Frisby bò vào.

“Cẩn thận nhé,” anh nói. “Trong đấy tối lắm. Có một quãng rơi khoảng chừng một bộ. Cứ thế nhảy thôi. Chúng tôi có lót rơm ở dưới cho êm.”

Nín thở, chị Frisby nhảy bừa vào bóng tối, cảm thấy chân chạm xuống đệm rơm. Trong nháy mắt Justin đã rơi xuống bên cạnh. Cả hai đã vào dưới bếp nhà Fitzgibbon.

“Giờ thì,” anh thì thầm, “nhìn sang bên trái. Thấy mảng sáng không? Cái lỗ ở đấy. Ánh sáng từ bếp chiếu xuống. Chúng tôi đã dồn đất lại ở dưới để dễ trèo lên. Đi thôi.”

Chị Frisby chạy theo, đến gần cái lỗ sáng chị đã nhìn thấy đôi chút xung quanh. Cả hai đang đi trên đất trống, chạm vào thấy khô và mát; trên đầu có những xà gỗ nặng đỡ sàn nhà, trên nữa là ván sàn. Ngay dưới lỗ có một gò đất tròn nhỏ. Họ trèo lên đỉnh gò, rồi Justin thì thầm:

“Tôi chỉ đi được đến đây thôi. Trên đó không đủ rộng cho tôi qua. Tôi sẽ đợi ở đây. Khi nào xong chị nhớ trở xuống ngay nhé. Thuốc đây.” Anh đưa chị gói giấy. “Nhớ phải xé trước khi ra chỗ bát con Rồng. Nhanh lên đi. Tôi nghe thấy tiếng bà Fitzgibbon đi lại rồi. Bà ta đang dọn cơm. Cẩn thận nhé, và chúc may mắn.”

Chị Frisby trước hết đẩy gói giấy lên qua lỗ. Rồi thật nhẹ nhàng, bám vào hai bên, chị đẩy mình lên vào bếp.

Ở đây rất sáng. Nhưng thầy Ages không đùa khi nói trần rất thấp. Từ sàn nhà lên đáy tủ chỉ hơn hai phân, chị không thể đi bình thường được mà phải ép mình xuống bò. Chị bò lên được vài bước, nhận ra mình đang run rẩy. “Yên nào,” chị tự ra lệnh. “Đừng có cuống lên, nếu không mày sẽ làm điều ngu ngốc và hỏng hết mọi việc.”

Vừa quở trách mình, chị vừa bò lên trước đến khi ra gần mép tủ. Chị dừng lại. Từ vị trí này có thể quan sát bếp khá rõ. Thẳng trước mặt chị là một bếp ga trắng lớn, còn đứng trước bếp, đang đậy vung lên nồi, là bà Fitzgibbon. Vì mép tủ thấp quá nên chị Frisby không nhìn thấy đầu, chỉ thấy đến vai bà.

“Rồi,” bà Fitzgibbon như nói một mình. “Thịt hầm đã chín, bánh mì trong lò, bàn đã xếp xong.”

Cái bát mèo ở đâu? Chị Frisby nhìn sang phải theo lời thầy Ages dặn. Nó ở ngay đó, màu xanh với hàng chữ vòng quanh thân. Nhưng có một chi tiết không đúng. Không phải nó cách tủ hai bộ mà có vẻ là bốn hay năm thì đúng hơn. Ở góc phòng nơi lẽ ra đặt bát thì có bốn chân gỗ tròn. Chị nhận ra đấy là một cái ghế nhà bếp.

Chẳng sao cả, chị nghĩ. Chỉ thêm có hai bộ thôi mà. Thầy Ages không nói có ghế, nhưng chắc cái đó di chuyển quanh phòng. Chị bò sang phải, tiến đến gần bát mà vẫn chưa ló ra ngoài, và xé cái bọc.

Vừa lúc đó thì bà Fitzgibbon đi từ bếp lại gần. Bàn tay bà hiện ra, nhặt lấy cái bát, và chị Frisby nghe tiếng nó đập xuống mặt bếp trên đầu. Có tiếng xoèn xoẹt - là cái mở hộp, tiếng thìa cạo loẹt quẹt, rồi cái bát đã nằm lại trên sàn. Thức ăn mèo bốc mùi cá nồng nặc. Bà Fitzgibbon bước đi.

Làm thôi.

Chị Frisby chạy vọt ra giữa phòng, băng qua sàn trống, nắm chặt túi thuốc, mắt chăm chăm nhìn cái bát. Chị không còn run nữa. Chị dốc thuốc, bột lập tức tan vào thức ăn mèo rất ẩm. Vẫn nắm chắc gói giấy, chị quay người chạy nhanh về phía tủ.

Uỳnh một cái, ánh sáng mờ đi. Trần nhà không hiểu sao bỗng cong tròn, phủ đầy những mặt trăng tròn nhỏ. Chị Frisby vẫn chạy tiếp, và va mặt vào bức thành kim loại cứng lạnh.

Có tiếng hét lên:

“Mẹ ơi! Đừng cho Rồng vào vội. Con vừa tóm được một con chuột.”

Billy, con trai út nhà Fitzgibbon, lúc đó đang ngồi trên ghế nhà bếp, chân gác lên thanh ngang, ăn quả mọng trong rổ. Cái rổ lúc này lật ngược, đang úp lên chị Frisby.