Chương 1
Bà Mùng sai nó đi mua rơm về đốt lấy tro nhét vào con chuột để lót chỗ kín vì bà biết sắp bẩn mình. Đàn bà con gái ở quê đều làm như vậy. Thấy má con hây hây, mùi sữa nhạt dần là các bà dạy con lấy áo rách khâu thành con chuột, túm miệng lại, tro sẽ không bung ra ngoài.
Mọi lần bà chỉ đun sôi ba ấm nước là nó về vì làng Mỹ Đức cách nhà không xa. Mỹ Đức năm cấy hai vụ nên sẵn rơm. Hôm nay nó đi từ trưa nhưng giời xâm xẩm mới về, mặt lại hơn hớn. Linh tính mách bảo có điều gì đó bất thường, bà vờ lại gần, đúng như bà nghĩ, người nó có mùi lạ. Mùi bị đàn ông làm phiền.
- Mày nói thật cho dì nghe đi?
Nó ngơ ngác ra điều không hiểu.
- Từ trước đến nay đã bao giờ cháu nói dối dì chuyện gì đâu. Dì nói vậy là thế nào, Mỹ Đức năm nay có lễ hội nộm rơm nên không nhà nào chịu bán, cháu phải vào tít trong Thượng Ân mới mua được. - Nó lý sự.
Bà Mùng quát:
- Con muỗi vo ve tao còn biết con đực hay con cái, chiều nay mày ăn nằm với ai?
- Sao dì nghĩ cháu hư hỏng thế...
Nói xong nó đi vào gian trong. Bà lo lo. Hơn năm trước ở quê ra, người nó còn bốc mùi đồng chiêm ung ủng, da mai mái như ngã nước, giờ phổng phao, da mịn màng dù bữa nào cũng cơm rau với mắm. Mùa hè, nó lên đê hóng mát, gió đông nam luồn vào bên trong cái yếm nâu cổ xây làm mảnh vải căng như buồm hé một nửa bộ ngực tròn rắn. Có hôm nó tắm sông, lúc lên bờ, cái yếm dính chặt làn da, chũm cau nhu nhú làm miếng vải lồi lên khiến mắt phu già, phu trẻ muốn đớp, chỉ có chồng bà phải quay mặt đi. Bà mắng bao lần “con gái phải giữ ý giữ tứ”, nó vâng dạ rồi đâu lại vào đấy. Bữa cơm tối bà lẫm lũi ăn, không kể chuyện nhặt nhạnh ở quán nước như mọi ngày còn chồng bà cũng chẳng nói gì, chốc chốc đưa chén rượu lên môi nhấp nhấp. Lan thấy không khí căng thẳng, và vội hai bát, nó ra đường hóng gió. Nó nghe loáng thoáng tiếng chú:
- Thì nó đến tuổi lấy chồng rồi còn gì?
- Nào tôi có cấm đoán nhưng hoàn cảnh nó như thế, cũng phải tìm đám nào cho nó đỡ khổ...
Ra dì nó cũng nghĩ đến chuyện đó, mà sao mãi không thấy gì khi khát khao trong lòng nó cứ lớn dần. “Gái phải hơi giai như thài lài gặp cứt chó”, các cụ nói rồi nên đêm ấy bà Mùng khóc thầm mà tai vẫn vểnh lên nghe ngóng sợ nó bỏ trốn. Nghe tiếng con Mực sủa, bà ngồi dậy vớ cây gậy, tiếng con Mực gừ gừ nhỏ dần rồi im hẳn. Bà lại khẽ khàng ngả lưng vì sợ cái giường phát ra tiếng cọt kẹt. Tay vẫn nắm cây gậy, bà ấm ức với tiếng thở đều đều đầy thỏa mãn của nó. Lũ đàn ông cũng như giống chó, vớ được cục xương thế nào cũng trở lại chỗ ấy tìm tiếp. Chồng bà vác hàng cả ngày, lại rượu vào ngáy khò khò. Chập tối, bà định kể người nó có mùi lạ nhưng sợ chồng khinh họ nhà mình nên bà cắn răng tự chịu. Gà gáy canh một, buồn ngủ rũ mắt, bà móc cái tăm trong túi lần mò trong bóng đêm chống hai mi. Cái tăm mềm lại phải đỡ mí trên quá lâu đã làm hai mắt ngứa ngáy, không chịu nổi, bà chớp mắt, hai cái tăm đổ sập, thế là bà ngủ. Cây gậy cũng tuột khỏi tay. Bà ngáy còn to hơn chồng.
Lan biết dì đã ngủ say, nó nhẹ nhàng trở dậy. Hóa ra nó ngáy giả vờ. Nó nhẹ tay nhấc cái liếp, nghiêng người lách ra ngoài. Một bóng đen tiến đến bế bổng nó đặt lên vai vác ù ra bờ sông. Bóng đen đặt nó xuống tấm cót, tốc váy nó lên tranh thủ thời gian. Quấn lấy nhau, ngấu nghiến. Nó rên khe khẽ rồi bỗng hét lên. Bóng đen biết nó sướng, vội lấy tay bịt chặt miệng nó. Rồi cả hai nằm ngửa nhìn bầu trời đầy sao li ti. Chợt nhớ phải về, nó chạy xuống sông vén váy lội mấy bước rửa vội. Bóng đen chạy theo, nó quát khẽ:
- Về nhanh không dì thức giấc bây giờ!
Bóng đen nhanh chóng rúc đầu vào váy nó rồi mới quay đầu cuốn lá cót lao như tên bắn vào bóng đêm. Sóng sông Đào vỗ vào bờ oàm oạp, oàm oạp.
Từ hôm phát hiện mùi lạ trên người nó, bà luôn để mắt, gầm gừ, sợ nó sa sẩy. Gái chưa chồng mà có con không chỉ mang tiếng với làng mà còn có lỗi với bố mẹ nó. Tiếng người đi chợ sớm léo xéo làm bà tỉnh giấc. Ngó sang giường cháu, nó vẫn thở đều đều. Nhấc cái liếp bước ra đường nhưng không thấy con Mực chạy lại liếm chân như mọi sáng, bà gợn gợn vội đi quanh nhà, rồi bất ngờ chửi toáng lên:
- Mẹ cha lũ khốn nạn!
Nghe tiếng vợ gầm, ông Vẹn bật dậy lao ra, con Dọc, thằng Tơi mắt nhắm, mắt mở cũng lao ra. Cả nhà vây quanh con Mực nhe răng, sùi bọt mép nằm bất động. Mấy hôm nay nó ốm bỏ ăn bà nghĩ đá còn đổ mồ hôi nữa là con vật nhưng nó sùi bọt mép chắc chắn bị đánh bả. Bà sờ người nó thấy lạnh ngắt, chứng tỏ nó chết trong đêm. Bà nghi cái thằng gây mùi lạ trên người con Lan đã đánh bả để đêm mò đến không bị phát hiện.
Thằng Tơi lấy tay gạt nước mắt. Con Dọc thấy anh khóc cũng hu hu. Nghe tiếng khóc, Lan bật dậy, bước thấp bước cao ra cửa. Nhìn con Mực chết thảm, nó giật mình và tỉnh hẳn. Không nhẽ thằng kia đánh bả? Để dì khỏi nghi ngờ, nó chăm chắm vẻ thương tiếc. Bà Mùng điên ruột. Đâu mà ngu thế, dây vào thằng đểu giả để rồi mất thứ nghìn vàng còn kèm theo con chó tinh khôn.
- Thôi mang chôn đi, đến phiên chợ tới u mày mua cho con khác.
Nói với thằng Tơi xong ông Vẹn đi vào. Lan bực bội, thằng kia đổ thêm dầu vào lửa. Nó định chạy đến hỏi cho ra nhẽ nhưng sợ lộ. Sáng hôm đó bà Mùng không mở quán. Ngồi thừ ra. Lan cũng chẳng có gì để làm ngoài việc cứ đun đi đun lại ấm nước.
Ba ngày sau, một thằng gầy nhẳng, cao như đi cà kheo, mắt hơi xếch, hai vạt áo lương che trước che sau mà vẫn rõ hai chân dạng háng như chó đi kiết bê cái tráp son, thếp vàng loại nhỏ vào. Bà Mùng giật mình. Nó là ai, ở đâu, gia cảnh thế nào mà tự dưng mang trầu cau đến hỏi cháu bà, hẳn nó và con Lan phải quen biết nhau từ lâư nhưng đây là lần đầu bà thấy nó. Chạy vào gian trong, bà nói cốt để thằng kia nghe tiếng.
- Thế này là thế nào?
Lan gãi đầu:
- Cháu cũng không biết...
- Mày có quen nó không?
- Dạ có...
Ra những điều bà nghi ngờ là đúng và mắng nó không oan. Chắc hôm đi mua rơm, thằng này tán tỉnh làm nó cỡn lên cho cưỡi. Bà cũng biết ở cái tuổi nó nỏ lắm, như rơm rạ tháng Chạp, chỉ cục than nhỏ tí cũng bùng lên. Mẹ nó vừa hiền lành, vừa tồ, cưới xong ở nhà chồng đến nửa tháng vẫn còn đòi về nhà mình ngủ vì “tối nào anh ấy cũng đòi nằm lên bụng”. Bố nó quanh năm đánh dậm, mưa phùn gió bấc cũng không nghỉ, cái dậm mà khô là treo niêu. Thế mà lại lòi ra cái của nợ này. Hết điên với nó bà lại điên với thằng kia. Mà một mình đi hỏi vợ chắc không bình thường. Thằng dạng háng rụt rè:
- Thưa dì... Cháu tên Hà... quê ở phủ Thái Bình... cháu đang bán bún xáo trâu ở ven đường cái. Chúng cháu mới quen nhau... cháu đã ướm ý Lan, cô ấy đồng ý... nên hôm nay... cháu có cơi trầu... cháu xin được thưa chuyện với dì... - Nó bắt đầu như vậy.
- Cháu xin dì cho em nó làm người nâng khăn sửa túi cho cháu...
Bà đoán không sai.Trông cái mặt tối như đêm ba mươi mà cũng nói như kẻ biết chữ thánh hiền làm bà thêm ức. Bà xổ cái khăn vuông trên đầu phẩy mạnh mấy cái.
- Bố mẹ cậu đâu, họ hàng nhà cậu đâu? Cháu tôi có hư hỏng cũng không phí của dâng không cho cậu, cậu ra khỏi nhà tôi ngay.
Nó rúm ró nhưng vẫn kiên trì.
-Thưa dì... sự tình là bố mẹ cháu mất cả... họ hàng cũng chẳng còn ai... hàng xóm cũng không có... nên cháu liều... mong dì hiểu cho...
Nó nói vậy khiến bà Mùng đâm bí. “Bí dí tốt”, bà quát:
- Con Lan đâu rồi! Ra ngoài này tao hỏi đây!
Cái Lan lấm lét như chó bị khua gậy.
- Mày nghe cậu ta nói rồi đấy, ý mày thế nào?
Nó không trả lời mà gật gật cái đầu. Mặt bà đỏ như say trầu. Định đuổi đi luôn nhưng kịp hãm lại cơn giận. Đuổi nó mang tiếng với đằng họ nội và nó liều lên vác bướm về ở với thằng kia là mất dì, mất cháu. Mà đồng ý thì bà không có quyền vì bà bên ngoại. Bà hạ giọng:
- Tôi đằng ngoại không có quyền, chú nó còn sống, cậu về thưa chuyện với ông ấy.
Nó nì nèo:
- Thưa dì... dì cũng biết hoàn cảnh nhà...
Ra con Lan đã tông tốc. Con gái đâu có cái loại ấy, gặp đàn ông một lần đã dốc hết chuyện nhà. Máu bà lại dồn lên mặt. Ức đến độ không nói được gì. Thằng kia thấy thế cũng sợ. Còn nó đứng trơ giữa nhà, không ngờ chuyện nhanh thế.
Lan là cháu gọi bà bằng dì, mẹ nó chết lúc nó còn bé, bố vay mượn tiền của lý trưởng bao năm không trả được, cụ lý bảo sẽ trừ hết nợ nếu bố nó gả nó làm vợ ba. Cứ ngửi thấy mùi hôi của kẻ nghiện thuốc phiện xông lên từ xa, bố nó biết ngay cụ lý đến, thế là xấp ngửa xin khất “cho cháu nó lớn thêm chút nữa”. Nhiều nhà cũng muốn xin nó làm dâu nhưng lý trưởng đã đóng cọc, chẳng ai dám chống nạnh thách cụ lý. Các bà trong tổng có con trai lớn cũng chừa nó ra. Vào ngày cuối cùng phải trả lời có gả hay không thì đêm trước bố nó cho trốn ra thành Nam, đoán con đã xa làng, bố nó treo cổ lên xà ngang. Chết mà mắt trợn trừng, lưỡi thè ra, mặt tím ngắt. Ông Sáng, em ruột bố nó đỡ xác anh xuống, ấn mãi cái lưỡi mới chịu vào mồm, miệng lầm rầm khấn, tay vuốt năm lần hai mắt mới khép. Cụ lý nghe tin đến tịch thu nhà ngay, sai người rào cổng nên họ mạc phải dựng rạp phát tang ngoài ngõ. Chú nó uất ức nhưng làm gì được kẻ vừa có tiền, vừa có quyền, lại đang là chủ nợ của anh mình. Ra điều tử tế, chờ chú nó cúng ba ngày, lão mới tóm thằng Lân em trai nó về ở đợ trừ dần nợ. Chẳng biết bố nó nợ bao nhiêu vì không có giấy song cụ lý tuyên bố “thằng Lân ở đến lúc chết mới hết nợ”.
- Nếu cậu không thể gặp ban ngày thì chờ đêm đến mà nói chuyện.
Nó gãi đầu, gãi tai:
- Thưa dì... cháu sợ chú không đồng ý vì... chưa giỗ hết... dì thương chúng cháu...
- Cậu biết thế sao còn vác mặt đi hỏi vợ? Để qua giỗ hết có xin xỏ gì thì xin chứ?
Bà Mùng giọng cương quyết rồi xuống bếp. Cái Lan ra hiệu, thằng kia bám theo. Bà lên nhà, nó lẽo đẽo ăn vạ.
- Tôi nói với cậu rồi, tôi bên ngoại, tôi không có quyền, giá như đằng nội không còn ai thì dì cũng như mẹ, tôi quyết được, nhưng chú ruột nó còn sống sờ sờ, sao tôi dám có ý kiến. Nó gặp chồng hiền không sao, nó gặp thằng cờ bạc, “rượu cả vò, chó cả con” thì tội đổ cả lên đầu tôi. Thôi cậu đừng nói nữa.
Cháu bà mông tròn như quả dưa hấu, ngực căng như bưởi tháng Bảy, tóc đen mềm như tơ đay lúc chưa vấn dài quá kheo. Lúc không cười, mặt nó cũng tươi, lúc cười thì đàn ông cứng cỏi cũng bị hút hồn. Bốn thằng phu trẻ làm cùng với chồng bà nhiều lần gặp riêng muốn xin nó làm vợ. Có thằng còn nhờ mối khéo ăn khéo nói đến thưa chuyện, lại có thằng dẫn theo mẹ, bà cũng nói như vừa nói với thằng này. Thực ra trong bụng cũng có ý chờ đám nào kha khá để cháu đỡ khổ nhưng ở bến đò vắng này không có cơ hội nên nhiều lần bà sai nó vào phố mua lặt vặt cũng có ý đó. Ác nỗi theo nó toàn đàn ông đứng tuổi, bà tế nhị mời ra khỏi nhà. Còn cháu về cứ oang oang, “ông Tây râu dài và rậm hơn râu các cụ, ngực đầy lông xoăn như tĩ đàn bà”. Lại còn khoe cháu chỉ đứng đến ngực ông Tây ở chợ Rồng. Bà muốn ngất. Tây mới chiếm thành Nam hơn một năm mà có cô đã đẻ con đen trũi, chẳng xấu hổ nhục nhã, nghênh ngang bế cục than ra chợ ăn quà.
Nói vậy tưởng nó thôi, nào ngờ nó dai hơn đỉa đồng chiêm.
- Cháu lạy dì, dì thương cháu, thương em... dì cho chúng cháu đến với nhau... Dì cũng...
Bà quắc mắt, quay người, vạt áo tứ thân quay theo.
- Cậu nói cũng là cũng thế nào...
Lại con kia ton hót. “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, cháu mới chắt thế thì cạn tình quá. Bà lấy chồng cũng không cưới hỏi gì. Cha mất, mẹ qua đời cùng năm, hai chị em đùm bọc nhau ba năm thì mẹ nó lấy chồng. Anh cả chết bệnh, chị dâu hở ra là bóng gió muốn đuổi em chồng, không chịu nổi, cô bé Mùng the thắt bỏ quê ra thành Nam làm thuê cho bà Chu, một người Hoa có xưởng dệt vải. Sáng giặt quần áo cho cả nhà chủ, trưa nấu cơm cho thợ. Vì thế, ngày ngày Mùng phải cắp rổ quần áo ra sông Đào, cạnh chỗ giặt có gánh xẩm gia đình, nghe nhiều cũng thuộc đôi câu. Con giai trưởng ông trùm cỡ tuổi Mùng, anh ta vừa hát vừa gõ nhịp còn ông bố kéo nhị, đôi mắt mù lúc nào cũng nghếch lên. Thấy Mùng đứng nghe, đang hát bài Giăng sáng vườn chè anh ta chuyển sang bài khác, ông bố ớ ra kéo sai nhịp nhưng đoán có khách vội đổi nhịp bắt ngay điệu mới. Đến bây giờ bà Mùng còn nhớ.
Đừng tham lấy chú biện tuần
Áo quần sạch sẽ nợ nần chan chan
Thà rằng lấy chú xẩm xoan
Nợ nần chẳng có hát tràn cung mây
Mùng cảm giác có ai đang liếc kín mình. Chợt xấu hổ cắp rổ quần áo bước nhanh ra sông. Đêm đó Mùng xao xuyến. Một hôm chẳng thấy gánh xẩm đâu, nghe nói quân Pháp sợ nghĩa quân nên ra lệnh cấm tụ tập đông người buộc họ kéo nhau đi chỗ khác. Chắc không còn cơ hội gặp anh hát xẩm, Mùng nhơ nhớ. Nào ngờ một sáng mang quần áo ra sông, Mùng nổi da gà, mình anh ta ngồi đúng chỗ đó hát chay. Vờ như không biết, Mùng lảng. Anh ta ngừng hát đuổi theo.
- Tôi bỏ gánh xẩm rồi... thân trai ngồi trơ mặt bên đường nhận vài xu bố thí tôi thấy nhục... Nếu cô đồng ý lấy tôi, tôi sẽ dựng lều ở chính chỗ này...
- Xẩm mà không hát thì ai cho tiền? Tự nhiên Mùng bật ra.
- Ai hát mà chả được, miễn không bị câm thôi.
Và trong bóng tối của dãy nhà ngang cho người ở, đêm đó Mùng âm ỉ sướng trong khi người làm đã ngủ say. Sáng ra, chờ bà chủ rỗi việc, Mùng chắp tay:
- Thưa bà! Cháu đội ơn bà đã cưu mang cháu trong lúc khốn cùng... nay cháu đã nhớn... có người muốn xin cháu... cháu xin bà cho cháu nghỉ việc từ hôm nay...
Bà Chu bất ngờ nhưng cũng đồng ý và Mùng bị chiết mấy hào tiền công vì làm khó cho gia chủ. Có cô thợ dệt nghe lỏm câu chuyện buông lửng: “Cũng có người lấy á!”
Thân hình Mùng thô, cái mũi ngắn chùn, bàn chân ngón tõe ra giống người Giao Chỉ, bù được cái mông to, đùi dạng tướng mắn đẻ. Bỏ ngoài tai, Mùng tung tăng khoác tay nải quần áo ra bến đò. Thế là thành vợ thành chồng. Chồng Mùng tên Vẹn. Vẹn là tên một cái chợ ở đất Ninh Bình, nơi ông mù hát xẩm gặp cô gái mê đàn hát theo ông làm vợ. Sinh con, ông mù lấy tên chợ đặt cho con với ngụ ý kỷ niệm. Còn quê đâu như Bắc Ninh. Vẹn dựng lều mở quán cho vợ bán nước vối. Gọi là quán nhưng lèo tèo lọ kẹo bột, vài cái bánh gai, ấm nước vối và chai rượu đục bán cho khách chờ đò. Còn anh ra bến khuân vác thuê cho người buôn chuyến. Thoắt đã hai mặt con, nhẽ ra phải thêm mấy đứa nữa nếu Vẹn không ốm thập tử nhất sinh. Qua bạo bệnh, Vẹn thúc liên tục mà không thấy vợ có chửa, đi khám, thầy lang bảo chồng ốm như thế không thể sinh tinh được.
Dù đời bà thế thật nhưng nó không có quyền so bì. Nghe chừng nó nói với bà cho phải phép, nó chơi cái bài “cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây” rồi. Xa làng nó chẳng sợ tiếng bấc, tiếng chì, cũng không bị hạ nhục theo kiểu đi ngược chiều nhổ nước bọt. Bà Mùng vào trong nhà nói vọng ra:
- Dì không quyết được, tùy cháu. Nếu sau này có chuyện gì cháu tự chịu.
Mặt Lan tươi hơn hớn, nó hiểu dì không đồng ý nhưng cũng chẳng ngăn cấm. Vơ mấy cái váy, cắp vào nách chờ. Bà định ngăn rồi lại thôi. Thằng kia ngượng nghịu:
- Cháu sẽ cố gắng để cô ấy không phải khổ...
Hai đứa ríu rít đi. Mấy phu trẻ ngồi quán uống rượu nhìn thấy thì thầm: “Số thằng kia đỏ thật, không mất cắc bạc nào mà vớ được con vợ non tơ”. Một thằng rít thuốc lào đến hết hơi, tiếng điếu kêu oán hận vang cả bờ sông, nó buông theo khói: “Đường dài mới biết ngựa hay”. Biết chúng nó bàn tán cháu mình, bà Mùng xấu hổ vờ xuống bếp. Buổi chiều dọn hàng sớm, bà ngồi khóc ti tỉ, con Dọc, thằng Tơi thấy mẹ khóc cũng xị mặt. Ông Vẹn về đoán được chuyện.
- Con người không tránh được số đâu. Thôi bà nấu cơm đi, tôi đói lắm rồi!
2.Chắc thầy tướng phán số nó tha hương nên bố nó lấy tên làng đặt cho con. Làng Hà ngay gần ngã ba sông, nhưng không có nhà nào sống nghề chài lưới, cả làng cấy lúa và trồng màu. Thuyền cá neo đậu ngoài bến toàn dân nơi khác. Một năm dịch tả không biết từ đâu kéo về vật chết nửa làng. Nội ngoại nhà nó chết cả. Mẹ nó vùi xác bố nó và các con trong vườn. Rồi chính nó lại vùi xác mẹ. Quan phủ, quan huyện sợ dịch lan ra khắp vùng sai rắc vôi bột quanh làng và lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Sợ mất giống, chờ đêm nó mò mẫm bơi qua sông sang Nam Định. Có lẽ kiếp trước nhà nó ăn ở có đức nên giời thương cho nó sống. Ngày lang thang, ai thuê gì làm nấy. Tối ngủ vạ vật trong chợ Năng Tĩnh. Tình cờ bà chủ lò mổ trâu dọn hàng sớm bắt gặp nó khò trên ván bán thịt, thương tình đưa về nhà sai vặt. Khi nó có bắp tay, bà cho vào lò làm chân chặt xương. Lò mổ này có tiếng ở thành Nam. Mờ sáng, các quán cơm đầu ghế đã đến lấy lòng, dạ dày, ông bán mì sực tắc người Hoa đến lấy thịt, lấy xương, còn bao nhiêu bà mang ra chợ bán lẻ. Ở nhà, bà mẹ chồng vơ hết bạc nhạc cho ninh rồi sai người ra chợ mua bún, thế là cả nhà chủ và kẻ làm xì xụp. Ngày nào cũng như ngày nào.
Nhờ chăm chỉ, lại không chè tàu, thuốc lào, không rượu nên Hà tích cóp được chút vốn. Rồi nó xin bà chủ về quê. Ban ngày mà làng thưa vắng lạnh lẽo như bãi tha ma. Căn nhà lá ba gian ngày nào còn trơ vài cột xoan. Nó mua tre dựng lại. Lập bàn thờ. Nhưng đêm nào nó cũng thấy những bộ xương trắng hếu bay lượn xung quanh, lại có đêm hàng chục bóng ma ngồi cạnh nó thì thầm. Con Vàng sủa đến khan tiếng, ma chẳng sợ mà còn đồng thanh cười. Sợ quá, nó bán nhà rồi trở lại thành Nam. Khi Tây đến, quan ta sợ Tây mà Tây chẳng để ý nên nó chớp ngay thời cơ ra ven thành chiếm miếng đất công dựng nhà mở quán bán bún xáo trâu. Chẳng phải học ai mà vốn không nhiều. Gọi là nhà song thực ra chỉ hơn túp lều một tí, mái cao, đêm có tấm phên che cửa. Bên trong, độc chiếc phản bằng những tấm xoan ghép lại. Phía sau làm chỗ đun nấu. Quán nằm trên con đường chính vào thành nên gà gáy canh năm đã dồn tiếng người đi chợ. Và quán bún xáo là điểm dừng chân của họ. Có lần đang ngồi bán hàng, một ông già thủng thẳng:
- Lấy vợ đi thôi!
Nghĩ ông thương nó một mình cặm cụi bán hàng vất vả, nó cười. Ông già chỉ tay vào quần.
- Nhè cả ra quần rồi kìa!
Nó nhìn xuống cái quần nâu bạc thấy mấy vết thẫm như mật mía bắn vào chưa khô. Nó xấu hổ. Từ lâu nó cũng muốn lấy vợ đẻ nhiều con vì nhánh Nguyễn Đăng của họ Nguyễn chỉ còn mình nó. Con gái ở các làng mười một mười hai tuổi đã có nhà nhắn nhe đánh tiếng, đâu vào đấy cả. Thừa ra cho thiên hạ chỉ còn các cô gia cảnh không khốn cùng thì sứt môi lồi rốn. Mà nó lại chẳng là người làng nào ở đất Nam Định. Đã thế lại mồ côi cha mẹ, không ruộng, không vườn. Cũng đôi lần nó nghĩ nhờ người mối lái cho một đám song chẳng biết nhờ ai. Việc ông cụ phát hiện nó nhè ra quần không phải lần đầu, thỉnh thoảng đêm ngủ nghĩ đến chuyện ấy là bắn tứ tung. Và ông giời đã cho nó gặp Lan.
Hàng ngày, gà gáy canh tư, nó vội vã vào lò bún, vợ nó nằm rốn rồi dậy nhóm bếp đun lại nồi xáo hầm từ chiều hôm trước. Nó mang bún về thì nồi xáo sùng sục và bát đũa cũng sẵn sàng. Nhìn nồi xáo trắng như mắt ma, vợ nó dặn:
- Lần sau nhớ xin thêm tí tiết.
Nồi xáo có thêm tiết bóp vụn chuyển sang màu nâu xỉn trông đậm mắt hơn. Nhớ lúc còn nhỏ, bố thường cho tí rau răm mỗi khi nấu lòng trâu, Lan bắt chước cho vào. Khách khen, nó phổng mũi như bảo chồng “công tôi đấy”. Hàng ngày, bán hết hàng là hai đứa quấn quýt, ríu rít. Nó tự nhận nó là “cứt chó” còn bảo vợ là “cây thài lài” và giảng giải “cứt chó” mà không có thài lài thì phí cứt, “thài lài” không có cứt thì thài lài còi cọc cằn cỗi. Lan thấy hay hay khen chồng biết ví von.
Từ ngày lấy chồng Lan nghĩ đến thằng Lân nhiều hơn. Nhiều đêm chồng quấy xong lăn ra ngủ ngáy khò khò nhưng nó vẫn trằn trọc. Nó biết em vất vả cực nhọc. Có lần nó tính liều về làng đến nhà Lý Tung chấp nhận làm vợ ba để giải thoát cho thằng Lân. Nó hỏi ý kiến dì nhưng bị mắng.
- Nhỡ thằng Lân thương mày nó không chấp nhận thì chuyện lại thối thêm. Từ từ để tính cách khác.
Dì Mùng nói đúng. Rồi cứ bán hàng xong đếm tiền, nó lén giấu vài trinh vào cái hố gần mép ao. Chả biết bao giờ mới thành món đủ để trả nợ nhưng nó nghĩ tích tiểu thành đại.
Như mọi lần, hôm nay chồng đòi, Lan nhất quyết không cho. Chồng xị mặt thì vợ kéo tay bắt cho ngồi vào lòng, không được cựa quậy.
- Tôi có chuyện này muốn nói với mình...
Chồng nó vểnh tai chờ đợi.
- Tôi muốn vợ chồng mình giải thoát thằng Lân ra khỏi nhà Lý Tung.
- Tiền đâu mà chuộc...? Hà trợn mắt.
- Vì không có tiền mới phải tìm cách cho nó trốn... Mình vờ làm người mua tre rồi bằng mọi cách gặp thằng Lân hẹn nó canh mấy, ngày nào, địa điểm ở đâu sau đó mình đón nó ngoài hàng rào rồi đưa nó đi...
Nghe vợ nói, Hà lặng người. Ngỡ tưởng cô ta chỉ giỏi chuyện giường chiếu nào ngờ thêm tính liều.
- Thế nào Lý Tung cũng sai người lùng sục quanh vùng và có thể ra cả thành Nam nên tôi tính đưa nó ra Hòn Gai, Tây đang đào mỏ ngoài đó cần phu...
- Sao nhà biết?
- Mình chỉ biết rúc đầu vào ti, không nghe khách ăn bún nói chuyện hử?
- Nhưng chính mình nói với tôi Lý Tung bảo nếu thằng Lân bỏ trốn lão sẽ đào mồ mả cha mẹ lên cho chó tha xương là gì?
Lan nổi cáu nhìn chồng. Hà lảng bằng cách quay đi chỗ khác vì nó đã mấy lần phải hứng khi Lan cáu. Ban ngày hỏi không thèm trả lời, đêm đừng có đụng vào người, đụng vào là bị cấu nát con cu. Thực ra nó hỏi để rõ mọi chuyện, không có ý gì khác. Nó im thít kiểu trẻ con bị quát.
Chập tối hôm sau, hai vợ chồng chuẩn bị lên đường thì trời lại đổ mưa, nước trút xuống như ông trời khóc bố. Vợ bảo nó mặc áo tơi lên đường, mưa gió càng bí mật. Thế là nó vác mai, vợ nó vác cuốc dầm mình vào nước. Đến đầu làng, gà vẫn chưa gáy canh một. Đoạn đường đất ra bãi tha ma ngập trên đầu gối. Hôm đưa ma bố nghe dì kể nước ngập đến rốn. Vì người chết vào mùa nước không có chỗ chôn nên người ta phải ủ xác trong trấu chờ nước rút mới phát tang. Đâu như từ thời vua Thiệu Trị, các cụ trong làng bàn nhau vật đất lên làm gò, và vào mùa nước cạn, năm nào làng cũng vạ thêm, cơi rộng ra, cao hơn nên tháng Bảy, nước trắng đồng nhưng tha ma không còn ngập.
Đồng chiêm đỉa nhiều hơn cá. Để chống lại lũ đỉa đói, Lan theo cách đàn bà con gái trong làng vẫn làm, lấy vải quấn từ mắt cá lên sát háng như xà cạp của lính dõng. Lại lấy vôi xát kỹ bên ngoài, vì đỉa sợ vôi, chạm vòi vào là lùi ngay. Lan cũng làm như thế cho chồng, còn bắt mặc thêm quần rồi lấy dây đay buộc chặt ống. Cẩn thận, Lan mang theo gói vôi, phòng những con ngoan cố. Hai vợ chồng ì ọp lần theo con đường ngập nước lên tha ma. Đêm đen kịt hơn nước chè đỗ đen, mò mẫm hồi lâu Lan mới tìm được chỗ có bốn khóm dứa dại. Ngày bố chết, Lan ở thành Nam nên dì Mùng bảo chú Sáng trồng bốn khóm dứa đánh dấu nếu nó có cơ hội về thắp hương còn biết mộ.
Lan chẳng lạ vì tha ma là chỗ chơi duy nhất của lũ trẻ mùa nước. Đứng ở đây nhìn về, không nhờ cây đa và mấy cây gạo thì làng chỉ như mảng bèo nổi trên mặt nước. Đàn bà, con gái chèo thuyền nan đi xúc cua, chiếc nọ nối đuôi chiếc kia ngoằn ngoèo như rắn bơi trên mặt nước. Tháng cuối năm, nước cạn, những con đường đất vòng vèo ra tha ma, nối với các làng bên lộ ra, hai bên mới rõ đâu là ruộng đâu là ao. Tháng Tư, thân lúa cao ngồng đã có hạt, mùi thơm non nhè nhẹ theo gió bay vào làng. Hoa súng từ các ao sâu ngoi lên mặt nước nụ đỏ thẫm, ven bờ loe ngoe cây thủy trúc đã có hoa. Mấy thằng con trai lấy lá dứa non quấn làm kèn, ba đứa xếp hàng dọc phồng mồm vừa đi vừa thổi, tiếng ò í e y như đám ma thật. Ngày nào cũng chơi trò đưa đám vì cũng chẳng còn trò gì. Chán thì xuống ruộng bắt cá đốt lửa nướng. Cá rô cái tháng này bụng đầy trứng ăn ngậy mồm. Có lần thằng Thiên xử tử con đỉa cắn chim nó bằng cách lấy gai dứa già mổ bụng, sau ném vào đống lửa, mùi khét lẹt.
Tiếng gà gáy canh một bị dìm trong mưa nhỏ hẳn. Lan che nón để chồng thắp hương, đánh đến chục que diêm mới châm được. Sợ tiếng mưa cha mẹ không nghe được, Lan khấn to cũng cốt để Hà nghe.
Con là Trần thị Lan, chồng con là Nguyễn Đăng Hà, hai chúng con cúi đầu lạy cha, lạy mẹ, từ ngày chúng con cùng cảnh không cha thiếu mẹ về ở với nhau, hôm nay chúng con mới về kính báo cha mẹ, lỗi tày đình con xin cha mẹ thương tình tha tội. Con cũng cúi đầu lạy xin cha mẹ tha tội vì đã đánh thức cha mẹ trong đêm mưa khuya khoắt lại để cha mẹ ướt át, lạnh lẽo nhưng chúng con không còn cách nào khác. Cha đi lúc nửa đêm thì sáng sớm Lý Tung đến thu nhà. Nghe tin chị Tĩn ra báo chú dì về ngay, con ngất trong gian nhà vắng lặng, có bà già chờ đò vào uống nước sớm vô tình trông thấy đã xoa dầu đánh gió con mới tỉnh, giá bà ấy không biết thì con cũng được theo cha mẹ. Cúng ba ngày cho cha xong, Lý Tung bắt ngay thằng Lân về nhà lão ở đợ. Nó cơ cực quá nên vợ chồng con quyết cứu em. Con mong cha mẹ phù hộ để việc giải thoát nó thành công. Chúng con hứa chỗ ở mới của cha mẹ cũng to và đàng hoàng như nhà cũ. Con đào nhẹ tay không để cha mẹ đau đớn. Con kính cẩn lạy cha mẹ.
Khấn xong, nó quỳ xuống bùn nhão, một tay vẫn giữ vành nón tay kia lạy mộ bố rồi lạy sang mộ mẹ. Hà cũng quỳ lạy y như vợ. Rồi hai đứa đầu trần mặc mưa dội xuống che nón cho đến khi ba nén hương cháy đến chân tăm mới thôi.
Hà lấy mai xắn còn nó bê, một lúc lại đổi. Cái huyệt sâu gần cán mai, nó vục mặt xuống nước mò hòn đất, tóc dầm trong nước. Cả hai quần quật, nhờ đất mềm nên gà gáy canh tư đã xong một huyệt còn huyệt kia cũng được phân nửa. Sợ gặp người làng đi nhấc đó sớm, hai vợ chồng nó nhanh chóng rời tha ma. Nó quấn khăn ướt sũng kín mít, còn chồng nó kéo cái nón lá già ngang mặt, cả hai tong tả về. Nó ước phải mất vài đêm nữa việc chuyển quan mới xong.
Xong việc chuyển mộ, Hà giả làm người mua tre dò dẫm vào trại. May cho nó hôm đó cha con Lý Tung đi ăn giỗ tổ, một người làng bên làm công dẫn nó xem tre. Đi lại ngó nghiêng thì nhìn thấy thằng Lân đang đánh gộc. Nó nhận ra ngay vì Lân hao hao giống vợ nó. Gầy guộc đến thảm. Vờ hỏi han và nhân lúc ông kia ra gốc cây chuối vạch quần, nó dặn dò thằng Lân. Ông ta tiểu xong thì nó cũng vừa kịp hẹn giờ, hẹn ngày. Nó lại vờ bảo ông ta nay mai sẽ quay lại hỏi chủ. Chập tối nó lên đường, Lan tiễn chồng một đoạn rồi bảo:
- Xong việc, tôi thưởng nhà trọn ngày.
Nó hăng hái như ăn mày sắp ăn cỗ. Được một quãng dài bỗng nó đi chậm hẳn. Ừ thì chị em thương nhau, giúp nhau lúc hoạn nạn nhưng nếu cứu được thằng Lân và đưa nó ra Hòn Gai liệu Lý Tung có để cho vợ nó yên không? Thế nào lão cũng sai người tìm vợ nó. Mà tìm được thế nào lão cũng bắt ở thế chỗ thằng Lân. Nó không thể cãi Lan là vợ nó vì ai chứng kiến nó cưới hỏi, nếu có ra công đường nó cũng thua. Cứu em vợ là mất vợ, nghĩ thế nó rùng mình, sẽ ra sao nếu mất vợ? Nó đắn đo hồi lâu, nó biết vợ nó rất thương em mới liều thế. Bỏ về thế nào cũng có chuyện mà chuyện gì thì nó không thể đoán được, qua vụ việc này nó hiểu thêm vợ nó chẳng vừa. Nếu vợ có giận bảo tính cách khác cho trọn vẹn cả hai đàng. Thế là nó quay đầu về nhà. Con Vàng thấy chủ quấn quýt liếm cái chân bàn cuốc. Nó nhẹ nhàng tháo sợi dây buộc cửa, cẩn thận buộc lại rồi leo lên giường sờ sờ ngực vợ. Lan hét toáng lên, nó nhanh nhảu:
- Tôi đây mình ơi!
- Thằng Lân đâu rồi?
-... Tôi nghĩ phải tìm cách khác, cách đó nguy hiểm lắm...
- Nhà là thằng hèn!
Vợ nổi nóng nhưng nó không biết giải thích thế nào, bảo sợ mất vợ thì to chuyện hơn. Nó ra bàn ngồi mặc vợ gào thét mắng mỏ.
Gần tháng nay bến Lương Xá bỗng đông khách lạ thường, khách vào quán uống bát nước vối, ăn kẹo bột không phải dân quanh vùng. Họ nói chuyện nhẹ nhàng chẳng toang toác như mấy bà buôn. Từ người già đến con trẻ, áo quần không mới nhưng sạch sẽ gọn gàng. Hỏi ông cụ áo the, khăn đóng, bà Mùng mới biết khi lính Pháp chiếm Hà Nội, thành phố nhộn nhạo, lại thêm quân Cờ Đen [1] quấy nhiễu, cướp bóc buộc nhiều gia đình phải chạy loạn về quê nương nhờ họ hàng, trú tạm nhà người quen nghe ngóng chờ ngày trở về. Nay Cờ Đen buộc phải rút khỏi Bắc Kỳ, thành phố dần ổn định nên mọi người đón thuyền trở lại Hà Nội. Nhưng lạ hơn, sáng nay mở mắt, bà thấy một chiếc thuyền mành kềnh càng đậu mé sông. Sợ mắt kèm nhèm trông gà hóa quốc, bà lấy tay áo chùi dử, đúng là thuyền mành thật, loại thuyền mà Hoa thương ở Hải Phòng thường dùng đi mua thóc. Ông Vẹn chạy về mừng ra mặt.
- Bến này sống lại rồi!
Chắc hóng hớt ở đâu ông ổng khoe vợ.
Lương Xá lá bến nhỏ nằm trên sông Đào, con sông nối sông Cái với sông Đáy. Dù có đò ngang, đò dọc nhưng mỗi ngày cũng chỉ trên chục chuyến cả đi và về. Dân chài tụ lại thành xóm không đủ đông làm bến xôn xao. Năm Pháp chưa chiếm An Nam, vua Tự Đức cho Hoa thương được quyền mua bán thóc thì thuyền mành vẫn đậu bến này. Khi quân Pháp bình định Bắc Kỳ, lính kéo về thành Nam, họ dùng bến này chuyển thực phẩm cho lính, sau thấy bất thuận, họ chuyển sang đường bộ. Và cũng từ đó không thấy thuyền mành về nữa, dân đồn Pháp tạm cấm Hoa thương mua thóc. Những năm trước, mỗi ngày bà Mùng bán vài lít rượu, ngoài phu An Nam, đám chân chèo thuyền mành ngày nào cũng mua. Trong lúc chờ lái thương vào sâu tít các làng gom thóc, họ cũng chẳng biết làm gì ngoài vào phố rồi uống say cho dễ ngủ.
Bà đang bê cái bàn tre thì Lan đến. Từ ngày về ở với thằng kia, thỉnh thoảng nó vẫn qua lại, lần nào cũng hỏi tin tức thằng Lân. Tin về làng đã khan, tin về em nó càng khan hơn, nó buồn mỗi khi dì lắc đầu và đó là lúc bà thấy quý nó nhất. Nhưng hôm nay da mặt nó xanh, con gái da đang đẹp mà xanh rớt thì chỉ có sẩy thai.
- Để cho nó húc lắm vào! - Bà lầu bầu thương xót - Tí nữa về cắt thuốc uống ngay không chết đấy.
Một ông trung niên người Hoa lững thững vào quán, tướng mạo sáng láng, phong độ. Ông ta mặc quần màu ghi sáng, ống rộng, áo cài nút vải, bím tóc dài đến lưng, nói tiếng An Nam rành rẽ, rõ ràng.
- Chồng bà đâu rồi?
- Có chuyện gì để tôi đi gọi?
- Tôi muốn nhờ ông ấy tìm cho năm bảy phu chuyển thóc từ thuyền con lên thuyền mành.
Bà Mùng bảo cháu:
- Mày ù đi tìm chú về đây!
Lan đứng dậy, ông ta sỗ sàng nhìn xuyên qua khe yếm. Nó biết, và hơi nhếch mép ý như “cho ông chết thèm”.
- Cô ấy là cháu bà à? - Ông ta hỏi.
Bà Mùng gật đầu. Linh cảm người đàn ông này để ý cháu, tự dưng bà thấy sờ sợ.
Từ hôm con Mực bị đánh bả, thằng Tơi buồn bã, nó với con Mực là bạn. Cả ngày chơi với nhau, lại còn dẫn đi bắt chuột đồng. Song khổ nhất không còn con Mực ăn phân. Ban đêm thằng Tơi, con Dọc sợ ma, không dám lên đê cứ ỉa quanh nhà, gió thổi mùi thối xông vào nhà nhức đầu. Bà quyết giảm tiêu pha tích cóp mua con chó khác.
Chọn cái áo tứ thân mới nhất, bà Mùng bỏ vài hào tiền trinh vào bao rồi nhét trong thắt lưng sồi đã sờn, cẩn thận so hai đầu bằng nhau mới thắt. Đi chợ phiên với người dân quê cũng giống như đi hội, nghèo cũng phải chọn bộ tươm nhất.
Chợ Rồng ngày phiên đông đúc vì là chợ chính của cả vùng Sơn Nam Hạ [2], dân Hà Nam cũng đổ về bán mua. Chợ nằm ở trung tâm Nam Định, ngày nào cũng họp nhưng cứ năm ngày, bắt đầu từ ngày mồng Một mới đúng phiên. Hàng gì cũng có nên dân thành Nam rất tự hào.
Chợ Rồng họp suốt quanh năm
Khách thương tứ xứ về thăm nhớ đời
Có lần một ông cụ chờ đò ngồi uống nước lan man đủ chuyện, cụ kể chợ Rồng xây năm Thìn thời vua Tự Đức nên Tổng đốc Nam Định đặt tên là Rồng, nhưng chẳng ai rõ xây năm Bính Thìn hay Mậu Thìn.
Len qua dãy tạp hóa của các chủ Tàu, họ nói với nhau bằng tiếng Quảng, có khách họ lại chuyển sang nói tiếng An Nam. Vòng qua hàng cá, hàng gà vịt mới đến dãy bán chó. Đến cuối dãy bà thấy một ông cụ bán một đàn, chắc vẫn chưa thôi bú. Ông cụ luôn tay dồn mấy con chó đen nghịch ngợm vào một chỗ. Nhấc con này, xem con kia lại vành mồm nó nhìn lưỡi, cuối cùng bà chọn được con đen tuyền, lưỡi có đốm. Những con như thế vừa khôn, vừa trung thành với chủ. Cò kè mặc cả, ông cụ đồng ý bán giá hào rưỡi. Thấy Tây đen, Tây trắng mang súng nòng dài đi lại, bà hoảng, cứ như bọn chúng sắp lôi mình ra bắn. Bế con chó, bà luồn lách đám đông về ngay. Vừa tới nhà thấy thằng Lân lèo khèo ngồi trên chõng. Chân tay khô quắt, cái áo có mấy miếng vá thô vụng. Mắt bà rơm rớm. Năm ngoái về quê giỗ cha, bà đến trại xin thăm cháu nhưng con trai Lý Tung dứt khoát không cho gặp. Trang trại rộng tới gần chục mẫu, xung quanh có hàng rào tre gai. Đến mùa cấy lão bắt thằng Lân tát nước bằng gầu sòng, cái gầu to hơn cả người nó. Rồi gánh phân lợn rải ra ruộng. Cấy xong quay sang đốn gốc tre, xay thóc, giã gạo. Công việc đè lên vai nó quanh năm. Ác nỗi lão khoán việc, làm xong mới được ăn. Có ngày hết việc gà đã gáy canh một, ăn bát cơm rồi ngủ chưa tròn giấc trời bừng sáng. Thấy dì rơm rớm, nó cũng sụt sịt.
- Mày trốn khỏi trại cụ Lý Tung à? - Nó lắc đầu.
- Cụ Lý cho phép mày à? - Nó lại lắc đầu.
Cách đây không lâu có một anh cao lênh khênh đến trại hỏi mua tre và xưng với nó là chồng chị Lan. Nó bán tín bán nghi vì chị cưới chẳng nhẽ không báo tin cho nó dù biết Lý Tung không cho đi. Nhà còn hai chị em, chị cưới mà lờ em còn ra gì nữa. Anh ta bảo sẽ cứu nó ra rồi đưa xuống Hòn Gai. Đúng hẹn, gà gáy canh một nó ra rào tre gần ao làng. Đàn chó lớn bé không sủa còn chạy theo. Chui qua rào đã phạt gai từ chiều, nó ra hẳn ngoài trại căng mắt nhìn mãi mà chẳng thấy chồng chị đâu.
- Cái lão cao lêu đêu có phải là chồng chị Lan không dì?
- Dì có được miếng trầu nào đâu... Thế nó làm sao?
Thằng Lân kể tường tận cho dì nghe. Bà lắc đầu:
- Nó âm mưu cứu cháu mà không hề nói cho dì một câu. Con này to gan thật.
- Hôm kia có một ông người to lớn, tóc tết đuôi sam trả hết tiền bố cháu nợ Lý Tung nên cụ lý cho ra. Giờ cháu ở tạm nhà chú Sáng.
Đích thị Hồng. Thuyền ông ta mới rời Lương Xá hôm qua. Vài lần lão hỏi thăm con Lan, bà chỉ qua loa nó đã có chồng, không thêm bất cứ chuyện nào khác. Lại con Lan toang toác rồi.
- Ông ta là Hoa thương về đây mua thóc...
- Sao lại bỏ tiền chuộc cháu?
- Mày hỏi chị mày, sao dì biết được.
Hôm đó nó đang gánh phân ra ruộng. Hai thúng phân lợn nặng trĩu đè lên vai làm nó phải nghỉ trộm Ngồi chưa hết mệt thì có anh làm công chạy đến bảo về ngay gặp cụ Lý. Nó tưởng bị phạt vì tội nghỉ trộm. Vào đến sân, nó thấy ông to cao tết đuôi sam đang chờ. Lý Tung vung tay, “Giờ mày là người của ông ấy”, nó nghĩ Lý Tung bán nó cho ông này, chẳng biết sẽ ra sao nhưng nó thấy người nhẹ bẫng vì thoát khỏi chốn khổ ải. Nó theo ông ta ra cổng trại, ông này hỏi han vài câu rồi bảo nó về nhà. Sợ ông ta đổi ý, nó chạy một mạch về nhà chú Sáng.
Bà Mùng nghi ngờ con Lan cầu khẩn vì không ai tự nhiên giúp một người mới quen. Bà lại nghĩ có thể ông ta mê mẩn con Lan nên nó mở miệng, ông ta giúp ngay. Bà không cho nó đến thăm chị vì nghi ngờ con Lan và thằng kia đang hục hặc. Nhìn răng cháu vàng xỉn, bà dẫn vào phố chiết cho đen. Cũng đến tuổi lấy vợ rồi mà răng như thế chó nó lấy. Trước khi nó về, bà cẩn thận:
- Chú Sáng hỏi gì cứ bảo hôm nào dì về thưa chuyện.
Hôm sau Lan mò đến. Nó khóc rống như bò mẹ lạc con trách dì không cho chị em nó gặp nhau.
- Ông Hồng về tận làng trả hết nợ của bố mày cho Lý Tung nên lão ấy giải phóng thằng Lân.
Nó ngạc nhiên vì chỉ kể gia cảnh, chẳng hề nhờ vả. Nào ngờ ông ta tìm về làng... Sao ông ấy tốt thế. Mặt nó ngây ra như ngỗng giời.
- Tao nghe thằng Lân kể, chồng mày định cứu nó sau lại không đến chỗ hẹn là thế nào?
- Đàn ông mà hèn!... Cháu định cứu thằng Lân rồi cho nó trốn ra Hòn Gai làm phu nhưng cái thằng già dái non hột sợ Lý Tung bắt cháu, nó sẽ mất vợ nên về gần đến làng nó lại bỏ về, dì bảo có điên không.
Bà cũng chả biết khuyên bảo thế nào. Bà lo cho con Lan làm thế nào giả được cái ơn cho người ta. Vớ vẩn có khi lại theo ông kia chưa biết chừng. Như đoán được ý dì, nó khẽ thở dài:
- Nợ ông ta còn hơn nợ Lý Tung... Từ nay cháu có thể tự do về làng mà không phải sợ con ác quỷ ấy nữa...
- Ông ấy cứu thằng Lân là có ý đấy...
Nó có nhờ vả đâu, mặc kệ ông ta. Mà chịu ơn còn hơn mắc nợ.
- Dù mày tự vác bướm đến ở với thằng kia thì thiên hạ vẫn cho mày là gái có chồng. Đừng làm điều thất đức để họ hàng mất mặt với làng xóm nghe chưa. - Bà Mùng dọa dẫm.
Em nó đi ở trừ nợ, họ hàng thương suông, có giúp được gì đâu, còn làng xóm chỉ nhằm nhằm nhà nào hở ra là cạnh khóe. Thằng Lân bị Lý Tung phạt bằng cách bắt cho hai chân vào chậu nước toàn đỉa đói nhưng làng xóm có ai lên tiếng bảo lão ta ác độc đâu. Lan sầm sầm bỏ về. Bữa cơm chiều, bà lo lắng kể lại cho chồng, ông Vẹn nhấp chén rượu.
- Số nó thế, sao bà lại cãi nhau với số! Mà ngày mai bà về quê ngay đi không lại lôi thôi đấy.
Sợ người làng nhìn thấy mới sáng mà bà vào nhà ông Sáng sẽ nghi ngờ “chắc nhà nó có chuyện gì rồi” nên chờ đường làng lắng tiếng lào xào mới dám ra ngõ, ngó trước ngó sau thấy đường cái không có người mới vội đi. Bà quá hiểu dân làng mình, có khi chỉ là đi thăm nhau bình thường nhưng họ cũng túm tụm thêu dệt thành câu chuyện có đầu có cuối rất tệ. Chả bao giờ là chuyện hay.
Chỉ có mình ông Sáng ở nhà. Sắp đến vụ chiêm nên vợ ông và thằng Lân chắc ra đồng. Ông Sáng đang cài nan tre mỏng vào chỗ rách, cái dậm đã quá cũ. Ông đoán có chuyện liên quan đến cháu vì bà ấy về làng nhưng hiếm khi đến nhà ông. Chồng bà nói đúng, chưa nghe hết câu chuyện mặt ông Sáng hằm hằm. Chờ bà trình bày hết ông nói như mắng.
- Bà bảo đằng ngoại không có quyền, sao bà không về nói với tôi một câu hay bà tiếc mất mấy hào lãi?
- Ông nói thế oan cho tôi, lúc đó thằng Lân còn đang ở nhà cụ Lý. Tôi sợ cụ biết con Lan ở thành Nam sai người ra đòi nợ thì nó lấy gì để trả?
- Cứ cho bà nghĩ thế là đúng... nhưng sao bà không ngăn nó? Nó ở với bà, bà phải có trách nhiệm răn dạy nó, bà thả rông, nó chửa hoang làng bắt vạ ai chịu?
- Chuyện diễn ra nhanh quá, buổi chiều thằng kia đến, tôi đã mắng mỏ rồi, nói điều hay lẽ phải, luân lý đạo đức cho cả hai song chúng nó bỏ ngoài tai, tôi biết không cho nó cũng đến ở với thằng kia mà cho thì tôi không dám... mong ông hiểu cho...
- Bà có biết tại sao lão kia lại bỏ tiền ra chuộc thằng Lân không?
- Nào tôi có phải là ông ta đâu?
- Thế bà phải hỏi con Lan chứ?
- Thằng Lân ra chơi, nghe cháu kể tôi mới rõ. Để chiều nay ra tôi sẽ hỏi con Lan và bắt nó ngày mai về thưa chuyện với ông.
- Làng này bà biết rồi, có bé xé ra to, có ít xít ra nhiều... tệ lắm... Tôi nói cho bà biết nếu chuyện vỡ ra bà phải chịu, họ ngoại nhà bà phải gánh tiếng xấu.
Nói xong ông Sáng hút thuốc lào. Sao lại buộc tội họ ngoại, lúc nhà nó khốn đốn họ nội có đỡ được đồng trinh nào đâu. Điên người bà đi luôn. Sáng hôm sau ông Sáng bỏ buổi dậm đợi cháu đến khi mặt giời gần đứng bóng cũng không mặt mũi nó. Hậm hực vì mất giỏ cá nhưng tức hơn là nó coi chú chẳng ra gì. Hay dì nó xui?
3.Thuyền của Hồng trở lại Lương Xá. Hàng chục chủ thuyền nan thóc chờ ông ta mấy ngày nay mặt phần phật như cờ được gió. Năm nay thời tiết thuận, nông dân Nam Định, Hà Nam và cả Thái Bình đều được mùa, giá thóc lại nhích lên, ai cũng hồ hởi muốn bán ngay. Hồng lên bờ vào quán bà Mùng chơi như mọi lần nhưng không nói chuyện đã đến nhà Lý Tung làm cho bà áy náy. Ơn này không hề nhỏ, lờ đi không được mà nói thì chẳng nhẽ thay mặt cháu cám ơn suông, chỉ có cách bảo con Lan gặp ông ta. Đắn đo mãi bà sai thằng Tơi đi gọi chị.
Từ ngày Lan ở với Hà chưa bao giờ dì sai con đến nhà cô kể cả giỗ mẹ cô. Còn ghé lại nhà cô chơi thì bà dì tuyệt đối không. Làm thế chả khác nào đồng tình việc anh ả ăn ở với nhau. Dì sai thằng Tơi qua hẳn có gì bất thường. Cô nhờ chồng trông nồi xương trên bếp, cứ váy đụp, yếm đào nhạt màu đi ngay. Hà ấm ức vì cho gọi vợ mà không có cậu đi cùng. Cậu ta là chồng tức là chủ nhà cơ mà. Lan đến nơi, thấy ân nhân của chị em cô ngồi trong nhà. Dì kéo cô ra bên ngoài thì thầm rồi vờ vào phố mua gạo. Thằng Tơi, con Dọc hiểu ý mẹ chạy đi chơi. Hồng bẻ vụn cái que...
Mặt trời ngả quá sang tây bà Mùng mới về. Con Lan cũng không còn. Hồng chắc lên thuyền. Chả biết nó nói gì với ông ta. Thế nào ngày mai nó cũng phải lại kể. Bà vội vàng vo gạo nấu cơm. Con Mực lũn cũn theo xuống bếp.
Nhìn Hà nằm vật trên giường Lan thấy tội. Chắc thứ bột Hồng đưa để cho vào rượu khiến Hà mê mệt. Cô lấy cái áo tứ thân lau mồ hôi trên mặt Hà rồi cuộn nhét dưới đầu làm gối. Trời đã tối, cô chạy ra mé ao, nhìn kỹ xung quanh mới bới đất lấy số tiền trinh. Hà vẫn ngủ say như chết. Lan khoác tay nải, cẩn thận lấy tấm phên che cửa rồi mới lẩn mình vào bóng tối. Con chó chạy theo. Cô phải xì xì dọa mấy lần con chó mới quay về.
“Tháng mười chưa cười đã tối”, bến Lương Xá không còn người chờ đò, đám phu bốc xếp kịp về căn lều của họ. Những con đò ngang đã nép vào bãi lau. Đầu thuyền, dân chài đang nấu cơm, ánh lửa lúc sáng lúc tối hắt xuống mặt nước trông ma quái. Lan thận trọng bước từng bước trên tấm ván bắc ra thuyền mành. Cô giang hai tay lấy thăng bằng. Khi hai chân cô vào hẳn trong thuyền, anh phu mới rút tấm ván. Trời đen đặc, gió thổi nhẹ.
Anh phu xếp gọn tấm ván vào mép thuyền thì Hồng lại bên chiếc chuông đồng, ông ta giật dây, tiếng boong boong vang lên. Hồng kéo ba lần. Đó là hiệu lệnh chuẩn bị rời bến cũng là hiệu cho các chân sào vào chỗ. Thường thuyền lớn hay rời bến vào buổi sáng, lúc đó thủy triều xuống thấp, dòng sông hẹp hơn nên nước sẽ chảy xiết hơn, đỡ mất sức cho phu. Hồng giật một hồi nữa, các chân chèo bắt đầu khua mái xuống nước, ở đầu mũi, ông quản thuyền đánh lên mặt trống một hồi ba tiếng báo hiệu tất cả phu hai bên mạn cùng chèo đưa thuyền ra dòng. Gần đến giữa sông, ông đánh một hồi, chèo bên phải ngừng lái để con thuyền song song với bờ đê. Chỉ nghe tiếng chèo khua nước ông quản biết thuyền đã vào đúng dòng, ông đánh ba hồi, cả hai mạn đều chèo. Con thuyền chở đầy thóc trôi theo con nước, rồi nhanh hơn, thỏa mãn sau một thời gian bị giam cầm ở bến. Hồng nói rất lâu với gã giúp việc bằng tiếng Quảng Đông, Lan không hiểu. Hồng bước lại gần, dù đã biết Hồng nhưng tim cô đập nhanh hơn.
- Trong cái bọc quần áo này có tiền không?
Lan chẳng nói chẳng rằng.
- Tôi sẽ mua cho cô quần áo mới!
Nói xong ông ta giật bọc quần áo ném xuống sông.
Nhanh đến mức Lan không kịp giằng lại. Cô trợn mắt nhìn rồi quay người nhảy xuống nước.
Dù đêm nhưng sóng nước giúp cô nhìn thấy cái bọc quần áo dập dềnh bị đẩy đi khá xa, cô xoay người lấy hơi lặn để tránh dòng chảy đang xiết. Khi ngoi lên, đầu cô chạm đúng cái bọc. Một tay giữ, một tay khua đều đều như đùa với nước, cô hướng phía bờ bên kia. Con gái đồng trũng biết bơi từ khi còn nhỏ, chả cần ai dạy, chả cần cho chuồn chuồn cắn rốn. Từ bé đứa nào cũng ra ao, ra sông bắt ốc mò cua, cứ tự nhiên biết bơi. Thấy cô ngày càng xa thuyền, Hồng hoảng hốt rung chuông, thuyền mành dừng lại, bốn phu chạy đến chờ lệnh, theo tay Hồng chỉ, một vật chập chờn trên mặt nước. Cả bốn phu lao ngay, họ bơi rất nhanh và dìu cô về phía thuyền. Hồng thả thang dây, Lan trèo lên, trong bóng đêm ông thấy đùi cô loang loáng ánh trắng, cặp vú hằn lên sau lần vải lụa dán vào ngực. Hồng dúi bộ quần áo cầm sẵn vào tay Lan.
- Cô mặc tạm bộ quần áo này cho khỏi cảm...
Lan không hiểu tại sao ông ta lại ném quần áo của cô xuống sông? Cô bực bội. Một cảm giác khác lạ, bộ quần áo cứng và khô, không mềm như áo tứ thân, cái váy, cái yếm cô vẫn cầm hàng ngày. Cô biết Hồng nuốt nước bọt. Cô lại thùng nước ngọt, yên tâm không có ai nhìn trộm cô mới tụt váy. Lạ là chìm nghỉm nhưng chiếc khăn trên đầu không tuột. Cô cũng không biết mình quấn khăn từ bao giờ, chỉ nhớ lúc bé và tóc dài quá cổ, bà nội ra chợ mua cho cái khăn con con, lại thêm một con lươn nhỏ độn vào cho dày. Bà quấn lên đầu một vòng rồi nhét đuôi vào vòng khăn. Lớn hơn một chút cô tự vấn được.
Lan tháo chiếc khăn, con lươn bên trong bằng bông ướt sũng. Cô dội vài gáo nước. Loay hoay mãi cô mới mặc được cái áo. Chả dám lại gần, sợ cô nhảy xuống sông trốn mất, Hồng nép vào bao lúa kín đáo quan sát. Một lúc sau cô ra cuối thuyền. Hồng tiến lại.
- Cô giặt váy và yếm đi, người Quảng kiêng sờ vào đồ đàn bà...
Lan giặt rồi phơi lên dây thừng, gió thổi, cái váy kẹp giữa hai sợi dây phần phật như cờ ngũ sắc.
- Tóc cô khô rồi đấy, ngủ đi cho đỡ mệt, năm bảy ngày nữa mới về đến cảng.
Lan ngoái nhìn về phía Lương Xá nhưng thuyền đã đi quá xa, màn đêm che kín tầm nhìn. Cô chui vào lán, bên cạnh là những bao thóc chất cao. Sau mấy năm nằm cạnh đàn ông lúc nào cũng có mùi rượu, đêm nay cô thấy nhẹ nhõm nhưng không thể chợp mắt, cái nơi mà cô sắp đến ra sao và người chồng mới của cô thế nào. Tất cả cứ đảo qua lượn lại trong đầu. Có vẻ Hồng lảng vảng bên ngoài... Cô cười một mình, “đúng là bọn có hột”.
Mở mắt, ánh sáng chói lòa, cô thấy bên cạnh có bát cơm nếp tú hụ kèm lạp xường thái mỏng. Cô bước ra khoang, nước sông đỏ quạch, xa xa loáng thoáng bụi tre. Hồng ngồi trên ghế, tóc xõa như chuẩn bị gội. Một ông trung tuổi cầm dao mài lên miếng da như chuẩn bị làm điều gì đó khủng khiếp. Mặt cô hơi tái. Hồng hề hề:
- Ông ấy chuẩn bị cạo tóc cho tôi!
Thuyền đến cửa Ba Lạt, gió có hơi muối táp vào mặt. Thuyền tách khỏi dòng nước sông nhập vào màu nước bể xanh thẫm. Phu đang hì hục xoay mành để chỉnh hướng đón gió. Con thuyền chạy nhanh dần. Sóng đập vào thân, bọt tung lên, nước tóe lên cả đầu cô. Trời xám ngắt như sắp bão. Hồng đi đi lại lại, cái mặt từng trải không giấu kín được lo lắng. Đêm qua, quản thuyền nói gì với Hồng giọng khá gay gắt. Chắc cảnh báo không được làm chuyện đàn ông đàn bà, ông ta sợ thuyền bị nạn.
Hồng loanh quanh trên thuyền, chưa biết mua hay thuê nhà cho Lan ở. Thuê thì tiền trả trước nửa năm cũng chả đáng bao nhiêu nhưng Hồng muốn mua đứt để Lan ổn định. Nếu sau này có “tan bè, gẫy buồm”, cô ta còn có gian nhà mở cửa hàng buôn bán lặt vặt lấy lãi nuôi con. Mua nhà phải bỏ ra ngay một khoản tiền lớn, thâm vào vốn nhiều thế biết ăn nói thế nào để cha tin. Hai năm nay thay cha chèo lái việc buôn bán cho gia đình, chẳng biết thời cuộc thay đổi hay vận chưa tới, công việc không suôn sẻ, vốn cứ cụt dần. Cha ông tuy nằm nhà nhưng khó có thể qua mặt được. “Giá như mình không si mê”, Hồng lẩm bẩm. Lần nào lên Hà Nội ông ta cũng mò đến nhà thổ, chọn những cô mỏng mày hay hạt. Ở Hải Phòng vẫn lén lút ngủ với đám gái từ Quảng Đông sang nhưng chưa đem lòng yêu ai, bất ngờ tuổi trung niên lại nảy sinh tình cảm với Lan. Chuyến trước về nhà nhớ phát điên, bắt phu xếp thóc vào kho thật nhanh để đi ngay. Hồng lên mũi thuyền ngồi bên ông quản.
- Chắc phải nói dối ba tôi...
Ông quản không nói gì, mắt hướng ra bể.
- Tôi cần tiền mua nhà cho cô ấy... Vì thế tôi sẽ bịa chuyện sóng to hất văng mấy chục bao thóc xuống bể... Chắc chắn ba tôi sẽ hỏi kỹ... Ông tính xem thóc rơi ở quãng nào thì ba tôi tin, tí nữa nói cho tôi biết...
Hồng hiểu là ông ta đồng ý, bao nhiêu năm, Hồng giúp ông tiền bạc, dù không bao giờ nói ra nhưng ông coi Hồng như ân nhân.
- Còn việc nữa... Tôi sẽ gửi cô ấy ở nhà ông cho đến khi tìm được nhà...
Ông quản cũng chẳng trả lời. Tính ông ta thế, không hài lòng mắt quắc lên ngay. Sóng dữ dội hơn, con thuyền vất vả nhích từng tí một.
4.Tiếng léo nhéo của các bà đi chợ làm Hà tỉnh giấc. Đầu óc nó nặng như đeo đá. Cũng rượu làng Mỹ Đức mà sao lần này say sâu đến thế. Bóng nắng ngay trước cửa nhà, không thấy Lan, nó gọi giật cục:
- Lan!
Khác với mọi lần, tỉnh rượu mở mắt là thấy vợ vì nhà nó có rộng gì đâu. Không có tiếng trả lời, nó uể oải ngồi dậy gọi tiếp. Im lặng. Có thể vợ nó đang rửa thịt ở ao sau nhà chăng? Nó đứng dậy lật khật từng bước ra cửa hậu, ao đầy nắng nhưng không có người. Nó quát:
- Đâu rồi!
Vẫn chỉ có nắng và im lặng. Linh cảm có chuyện chẳng lành, nó lao ra phía trước, chạy quanh nhà ngó nghiêng lục lọi. Nó phóng mắt ra cái cầu tiêu che lá chuối khô cách nhà chục thước cũng không thấy cái mông trắng hếu ngồi ị như mọi lần. Rồi lại chạy vào bếp, cái nồi đồng sạch bong, bát, thìa gỗ, đũa nằm yên trên chạn tre. Cảm giác bực bội lên cấp thành bực tức, nó đá chiếc ghế tre. Phía xa có bóng người lom khom bên bờ ruộng. Nó chạy, hơi rượu xổ ra làm nó tỉnh hẳn. Không phải Lan, đó là bà cụ đang mò cua.
Từ ngày ăn ở với nhau, nó chưa mua nổi cho vợ thứ gì. Kể cũng tội cho con vợ đẹp. Có thể con mông to này vào phố ngắm nghía đồ the, đồ lĩnh, nghĩ vậy nó phăm phăm đi thẳng đến phố Hàng Cấp, phố chuyên bán quần áo và đồ trang sức cho đàn bà. Người thưa thớt, nó phóng mắt xuống cuối phố, tịnh không có bóng dáng quen quen. Lại nghĩ có thể Lan xem nón ba tầm, nón mười, nó vòng ra Hàng Nón. Không thấy. Phố Hàng Nón gần ngay chợ Rồng, nó rẽ sang luôn. Chợ chiều vắng ngắt. Nhớn nhác một hồi, vô vọng, nó lang thang trên đường như thằng điên. Lính Tây trừng trừng nhìn nó, nghe người ăn bún kể Tây hay lấy báng súng đánh đàn ông An Nam, nó sợ, vội lảng ngay. Ở thành Nam, vợ nó không có họ hàng ngoài dì Mùng. Nó đi như chạy về bến Lương Xá. Bực tức đè nặng lên bàn chân thô bẩn.
- Mẹ con chó này, tìm thấy ông đánh cho què chân liệt cẳng. Nhà có chủ chứ!
Đến nhà bà Mùng, không chào hỏi, nó phi thẳng vào bên trong. Gian nhà trống rỗng. Chỉ có con chó đen lùi vào gầm chõng gừ gừ.
- Con kia đâu rồi?
Bà hiểu ngay, con Lan đã lừa bà, bảo về quê thăm em hóa ra đi theo lão Hồng. Bà biết chuyện đó sớm muộn cũng sẽ xảy ra, nào ngờ nhanh quá. Nhìn mặt thằng Hà nhợt nhạt bà thấy thương nó, giận cháu, song quyết không bỏ qua sự vô lễ.
- Nhà lá cũng phải có chủ. Mày làm như tao giấu vợ mày hả?
- Cháu hỏi dì, con Lan có đây không?
- Thế nó đi đâu?
Nó khoằng lại:
- Biết thì tôi còn đến đây làm gì!
Câu nói hỗn tiếp theo làm bà sôi ruột. Nghĩ cháu mình gây ra lỗi, bà hạ giọng:
- Có chuyện gì mày kể đầu đuôi tao nghe nào?
Nó chằm chằm vào mặt bà như thể bà là thủ phạm.
- Nó đi đâu thì dì phải biết!
Bà Mùng vẫn nín nhịn:
- Nó đi từ bao giờ?
- Tôi tỉnh rượu không thấy nó đâu cả, sáng nay nó cũng không bán hàng. Dì nói thật đi con Lan ở đâu?
Câu nói hỗn nữa như giọt nước tràn bát.
- Vợ mày, sao lại hỏi tao!
Nó quát:
- Nhưng nó là cháu bà!
- Tao không nằm gậm giường nhà mày mà biết chuyện. Vợ chồng tay gối bụng ấp mày không hiểu tính nó thì ai hiểu được. Mày đi đi, tao không nói chuyện với mày. Láo toét!