← Quay lại trang sách

Chương 2

So với Hà, thằng đàn ông chỉ biết đến bản thân, xong việc là ềnh ra thì Hồng chu đáo từ đầu đến cuối, biết cách gây ức chế rồi kéo dài khoái cảm khiến Lan mãn nguyện.

- Ngay từ lần gặp đầu tiên nhìn cô tôi đã bị mê hoặc. Tôi không có ý định chinh phục cô bằng tiền nhưng chẳng có cách nào tốt hơn... Tôi muốn có cô...

Tình yêu là cái vừa thực vừa hư. Và người ta chết là ở chỗ không biết lúc nào hư lúc nào thực. Lan không nghĩ nhiều đến chuyện đó. Làm cách nào tùy sở đoản, sở trường mỗi thằng đàn ông. Ở Quảng Đông hay ở Thái Bình cũng thế thôi, bọn họ đều là đàn ông. Mà đàn ông thì giống nhau cả, thích chinh phục và chiếm đoạt. Nhưng đôi khi họ cũng nhầm, chính họ mới bị chiếm đoạt. Lan nhìn Hồng đang mê mệt, lưng ông ta to như ván thuyền đang bất động...

Sáng nay Lan vẫn dậy muộn. Không khí mằn mặn, nằng nặng của miền bể đè lên mí mắt. Theo thói quen, chải đầu xong cô vấn tóc. Lúc còn ở với mẹ, ngày nào mẹ cô cũng ra rả “đàn bà con gái ra khỏi phản phải chải đầu vấn tóc rồi mới làm gì thì làm”. Còn bà nội dạy “cái răng cái tóc là góc con người, để cái đầu bù ra đường người ta cười cho”. Con lươn vải độn cho dày nhưng sao phải có khăn vuông thì cô không rõ. Chỉ biết đi ăn cỗ, phần chia mang về bà lấy khăn túm lại. Lúc ra ruộng bắt được con cua, con ốc, chiếc khăn như cái giỏ. Về nhà giặt qua bà lại chít lên đầu. Không có khăn, cô thấy thiếu thứ che chở. Cô đành búi tóc, định hôm nào ra chợ mua.

Tiếng còi ngoài cảng tu tu ba lần thì Hồng về với chiếc làn cói trên tay. Ông ta lấy ra các túi vải nhỏ như con chuột cô vẫn dùng, mùi thơm thuốc Bắc dễ chịu tỏa ra.

- Khi nào bẩn mình cô dùng cái này thay túi tro, bên trong có thuốc tán nhỏ, vừa sạch lại có tác dụng ngăn bệnh. Tôi sẽ chỉ chỗ mua khi tôi đi vắng.

Có thể khác với bao tro, để thử xem, Lan nghĩ thầm. Hồi mẹ chưa mất, bà luôn báo trước cho Lan ngày nào bẩn mình. Ở với dì Mùng, dì làm việc đó. Còn bây giờ không ai nhắc, cô phải lấy dao đánh dấu lên cột nhà ngày bị để nhỡ có thai còn biết mà giữ gìn. Hồng lấy ra đôi dép làm bằng da mỏng có hai quai xỏ vào khe ngón cái. Lan phì cười, từ bé cho đến bây giờ có khi nào cô đi dép đâu. Chỉ đàn bà con gái nhà giàu mới có guốc dép và họ cũng phải công lên việc xuống gì mới dùng được. Cô xỏ thử bước mấy bước.

- Chân không tiếp đất tôi thấy không vững.

- Thế mới phải tập, Hải Phòng khác Lương Xá... Tôi đã nhờ bà hàng xóm, chiều nay cắt tóc cho cô.

Bao nhiêu năm nay, Lan chỉ thấy đàn bà con gái An Nam để tóc dài, tóc ai mỏng và thưa còn phải độn thêm tóc giả mới búi được. Đầu không vấn ra đường người ta bảo thứ đĩ thõa. Nghĩ đến mái tóc dày đen bị cắt cụt lủn, Lan nhảy chồm lên:

- Tôi không cắt, đàn bà người Hoa vẫn để tóc dài đấy thôi. Tôi không cắt! Tôi để tóc dài quen rồi!

Bất ngờ trước thái độ cứng đầu của cô, Hồng nín nhịn, giọng nhỏ nhẹ:

- Người An Nam có câu “Nhập gia tùy tục” mà... Cô để tóc ngang vai trông đẹp hơn...

Lan vặn:

- Thế sao sang An Nam ông vẫn để bím tóc?

Câu hỏi của Lan đã chạm vào nỗi đau của dân tộc Hán. Hồng được nghe kể về cái bím tóc từ khi còn bé. Và nó luôn là câu chuyện khi cánh đàn ông Hán ngồi với nhau.

Khi triều đại Mãn Thanh thống trị Trung Quốc, người Hán không chịu được tộc người mọi rợ đè nén mình đã tìm cách phản kháng. Nhưng các ông vua người Mãn cũng không vừa, họ quyết đè bẹp lòng tự tôn và ý chí của người Hán nên ra lệnh “cắt tóc, cạo đầu”. Lệnh truyền từ thành thị đến nông thôn, ai không thực hiện sẽ bị phạt nặng. Chưa hết, vua Mãn còn tuyên bố mạnh mẽ: “Chỉ giữ đầu, không giữ tóc. Nếu giữ tóc thì không giữ đầu”. Đàn ông Hán có truyền thống để tóc dài rồi búi trên đỉnh, thấy lệnh xúc phạm nặng nề dân tộc mình, họ kháng cự quyết liệt nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, vua Mãn đàn áp tất cả những ai chống lệnh. Nhưng ý chí của dân tộc Hán đời sau mạnh mẽ hơn đời trước nên các vua Mãn cũng xuống thang, họ đồng ý cho thay đổi phần tóc. Từ chỗ tóc trên đầu không được lớn quá một đồng xu dần dần tăng lên bốn, năm đồng xu và đuôi tóc từ tết đuôi chuột thành tết đuôi lợn. Gần cuối triều Mãn, phần tóc trên đầu đã chiếm tới hai phần ba. Một viên quan đứng đầu phái duy tân trình lên xin vua cho cắt bỏ bím tóc, thay đổi trang phục nhưng không được chấp thuận...

- Thì đàn ông An Nam vẫn để tóc dài, cô không thấy sao?

- Họ búi tó, không ai tết như ông!

Hồng nì nèo:

- Nhưng cô lấy chồng Quảng Đông, cô phải theo phong tục quê chồng.

Đôi mắt biết nói của Lan quẫy lên vẻ ương ngạnh:

- Ông cưới tôi bao giờ mà dám bảo tôi là vợ ông? Bao giờ ông tổ chức cưới có họ hàng đến dự, lúc đó tôi sẽ để tóc ngang vai, sẽ học nói tiếng Quảng.

Thêm bất ngờ, mạch máu trên thái dương Hồng giần giật:

- Cho cái tát bây giờ!

Câu dọa đã khích đúng tính ương bướng.

- Bố mẹ tôi đẻ tôi ra chưa bao giờ dọa tát tôi. Má tôi đây ông tát đi!

Hồng sững người, đàn bà Quảng Đông không bao giờ dám to tiếng với chồng, thách thức thì tuyệt đối không dám. Chỉ có nín nhịn và chịu đựng cho đến lúc nằm trong bốn tấm dài hai tấm ngắn. Họ chỉ hơn đàn bà đi ở là tối được nằm bên chồng. Sợ làm căng lên Lan bỏ trốn và cũng sợ hàng xóm nghe thấy vì nhà sát nhà, Hồng cắn răng cười:

- Thôi chuyện đó tính sau. Giờ tôi cũng đói rồi!

Nhưng Lan chưa hạ hỏa.

- Tính sau là thế nào? Tôi mặc bộ quần áo này vì chiều ông thôi.

Lúc này Hồng nhìn kỹ Lan, quần áo thì theo kiểu Quảng, đầu vấn tóc, bỏ cái đuôi gà kiểu An Nam, trông cô thật ngộ nghĩnh. Hồng bật cười, ông ta đến bên cạnh gãi gãi vào nách cô làm hòa, rồi ôm nhẹ và vuốt ve cơ thể thon thả của cô.

- Đàn bà con gái gì mà nóng như hổ...

Lan ngúng nguẩy, cuối cùng cũng để mặc tay Hồng tự do di chuyển. Mắt cô nhè nhẹ khép. Hồng bế Lan lên giường. Cái giường gỗ kêu cót két vẫn không át được tiếng rên...

Nhà Lan đang ở trước kia là làng An Xá thuộc tỉnh Hải Dương, khi người Pháp lấy một phần đất lập thành phố nhượng địa thì An Xá sát hông đất nhượng địa. Không còn ruộng, dân An Xá sống bằng đủ nghề, bốc vác ở cảng, buôn bán con cá con tôm, làm phu hồ, khiêng cáng, đẩy xe khách. Sáng sáng, dân làng nối nhau lũ lượt đi bộ vào phố, chiều cả đoàn phờ phạc kéo nhau về. Bên phải nhà cô là đôi vợ chồng trung tuổi. Chồng bốc vác còn vợ và ba đứa con trai hàng ngày ra chợ chờ việc ở khe Liên [1]. Ai thuê gì làm nấy, kể cả chôn xác chết vô thừa nhận. Sát bên trái là đôi vợ chồng trẻ. Cô vợ to lớn làm nghề khiêng cáng, chồng làm cho cai Thính chuyên nhận thầu lấp hồ ao. Ban ngày chỉ có vài người lớn tuổi ở nhà trông cháu. Ngày Lan mới dọn đến, hàng xóm cũng sang hỏi thăm. Ngỡ chỉ thế thôi song có lần cô nghe lỏm.

- Lão Tàu thỉnh thoảng mới mò qua, chắc cô này là lẽ.

Lại có ông buông những câu chua chát:

- Thời buổi suy phong, lấy Tàu, lấy Tây cũng vì tiền. Khốn nạn thân tôi lại toàn con đái đứng, chắc có ngày đàn ông An Nam đêm phải treo dái mà ngủ.

Rồi họ vanh vách cô này vợ hai cai cáng, cô kia làm lẽ lão bán tạp hóa. Lan chạnh lòng, không thể bảo họ chồng tôi chưa vợ.

Mỗi chuyến đi của Hồng ngót nghét hai chục ngày. Thuyền về cảng, phu vác thóc vào kho thì Hồng lại lo chuẩn bị rau cỏ, thịt ướp muối cho chuyến tiếp theo. Có lẽ ông ta cũng hiểu cảnh ăn không ngồi rỗi và chờ đợi nên trước mỗi chuyến đi, Hồng đều đưa tiền.

- Cô vào phố mà chơi!

Đôi dép có giá mấy hào nên Hồng về cô xỏ vào cho ông ta vui, Hồng ra khỏi nhà, cô lại chân đất. Bé đến lớn chân đất quen nên da chai cứng chả khác dép liền chân. Chơi phố, cô xỏ dép cho ra dáng người thành thị, miếng da cọ vào kẽ làm hai ngón tấy đỏ. Lần đầu đau rát khiến cô không thể nhấc chân đành lê quèn quẹt.

Không biết trước đó thế nào song giờ Hải Phòng lớn hơn thành Nam. Dạo quanh không sót chỗ nào cũng phải mấy hào tiền xe đẩy [2]. Đâu đâu cũng thấy lấp kênh rạch làm đường. Phu đông như kiến. Người Pháp cho làm mấy khối nhà to tướng, trông lạ mắt và đẹp. Nó to cao hơn nhiều nhà thờ Công giáo cô thấy ở vùng ven biển thành Nam. Hồng bảo thành phố của Tây nên họ làm nhà theo kiểu nước họ. Từ cửa Cấm kéo dài đến sông Tam Bạc toàn Hoa kiều. Nhà ken nhà. Tiếng người già, trẻ con rao bán tào phớ, lạc rang húng lìu hay bánh chín tầng mây trộn vào nhau từ sáng đến tối. Mùi dầu khen khét trong thức ăn lúc nào cũng bay lượn trên không. Đêm xuống thích hơn. Bóng tối phủ lấp lam lũ và nhếch nhác. Các quán cao lâu đèn sáng trưng. Nơi nhộn nhịp và ồn ã nhất là rạp Đại Quan do một Hoa kiều Quảng Đông lập ra. Lúc còn ở quê, cô chỉ xem các gánh chèo diễn trước sân đình, già trẻ, lớn bé quây xung quanh, nhìn rõ con hát bôi mặt. Giờ cô mới thấy xem hát được ngồi ghế gỗ. Mùa hè oi ả, chủ rạp còn cho mấy thằng nhỏ kéo quạt xua bớt cái nóng. Mỗi khi có đoàn hát từ Quảng Đông sang, người ta chen nhau xem áp phích vẽ ông già râu dài múa võ hay các cô gái mình hạc buồn bã gảy đàn. Toàn chữ Tàu nên cô chẳng hiểu.

Người Pháp cũng khá nhiều, họ sống trong các nhà mới xây giữa trung tâm thành phố. Từ quan đốc lý đến nhà buôn, nhà thầu, ông nào cũng để râu và ngậm khúc gỗ phì phèo nhả khói. Trời nắng hay trời râm cũng sùm sụp chiếc mũ cát trông phát ngốt. Chả biết khi ngủ với vợ, các ông ấy có bỏ mũ ra không? Người An Nam dồn tụ ở phía nam. Đông như kiến túm lại con sâu chết. Ngay cạnh sông hồ nên gió lúc nào cũng phần phật nhưng chập tối, muỗi nhiều vô kể. Không có màn như người Pháp, phu phen Hải Phòng gầy vì muỗi.

Cũng chỉ có từng ấy chỗ, đi mãi cô thấy nhàm. Hàng xóm toàn dân lao động, sáng ăn bát cơm nguội, vợ chồng vội vã đi, con bé nhốt trong nhà, trưa chạy về cho bú rồi tong tả sợ muộn cai trừ lương, chiều về sấp ngửa đong gạo nấu cơm, ăn xong lên giường ngáy. Cô thấy mình hơn người không phải mó vào việc gì nhưng ngẫm cũng chẳng sướng hơn họ. Ở với Hà hôi hám mùi thịt song tối đêm có hơi giai. Hồng đi, nhiều đêm thèm muốn chết, cứ phải lấy ngón tay giả làm cái của nợ. Có đêm cô trở dậy giặt quần áo, lẩn thẩn nghĩ phải sống thế này cho đến bao giờ. Giá có con thì chân tay đỡ thừa. Sao mãi chưa thấy có gì. Không ít lần lúc ái ân cô hỏi:

- Ông nói thật đi, ông có vợ chưa?

Hồng lại giải thích, lần nào cũng như lần nào.

- Ngoài tứ thập bảo không có vợ chẳng ai tin, nhưng tôi chưa lấy vợ thật. Ba má tôi giục suốt ngày, họ hàng mai mối mà tôi chưa hợp ai. Có lần tôi dọa, nếu còn giục tôi sẽ bỏ Hải Phòng vào Sài Gòn ngay. Thế là từ đó không thấy hai người ép lấy vợ nữa. Bây giờ gặp được thì lại người An Nam... thuyết phục ba má tôi là không dễ... từ từ để tôi tính...

Chạnh lòng nhưng Lan chỉ còn cách chờ đợi.

Một đêm khuya, đang mơ mơ thì có tiếng gõ cửa, một chị hàng xóm muốn vay mấy hào mua thuốc cho con, hứa lĩnh tiền công sẽ trả. Nghĩ đến tình láng giềng, cô móc bao cho vay. Chị ta về, chợt cô nảy ra ý định cho vay lãi vì tiền Hồng đưa cô tiêu dè sẻn còn dư kha khá, “mèo nhỏ bắt chuột con”, vừa không mang tiếng ăn bám lại được tiếng làm phúc cho hàng xóm. Cô nhẩm tính làm cách nào đánh tiếng cho hàng xóm biết mình có tiền cho vay và lãi mấy phân là vừa, đến gần sáng cô mới chợp mắt.

Hồng biết cô cho vay lãi vì một tối ông ta thấy có người đến hỏi. Bất ngờ vì Lan biết cách kiếm tiền nhưng Hồng không hài lòng. Cô ta chỉ nhìn thấy được mà chưa nhìn thấy cái mất. Thử hỏi người cùng đường tuyên bố không trả cô làm gì họ? Cô có dám dỡ nhà hay đánh họ không? Nghề đó chỉ dành cho kẻ có máu côn đồ.

- Nghề đó không hợp với đàn bà như cô.

Lan không hiểu ý Hồng, người vay tiền toàn hàng xóm, họ không hẳn là người tốt nhưng họ tử tế.

- Cô bảo chỉ cho hàng xóm vay nhưng có kẻ cố tình trả lãi cao hơn để vay tiền đồng cô có can đảm từ chối không? Họ vay và trả đúng hạn một vài lần, cô tin họ cho vay tiếp rồi họ biến mất thì đòi ai?

Tính tham có sẵn trong mỗi con người. Nghe Hồng giảng giải Lan thấy phải. Và cũng không thể dã man như Lý Tung nên thu lại vốn cô bỏ nghề dù trong lòng thấy tiếc.

Lại ăn và loanh quanh đợi Hồng. Rồi cô quan sát chiều nào người trong xóm phải ra mãi chợ Bến đong đấu gạo. Cô nảy ra ý bán gạo. Chờ Hồng về cô thủ thỉ, bất ngờ ông ta gật đầu ngay. Nhưng cô hơi lo vì chưa làm nghề này bao giờ.

- Người ta sinh ra có hai việc làm được mà không cần học là con trai ngủ với con gái và vục đầu vào vú mẹ, còn mọi thứ đều phải học. - Hồng vỗ về.

Thế là cô quyết. Trước khi đi, Hồng mua đầy đủ mọi thứ cần thiết, thúng to, thúng bé, mẹt rồi đấu gỗ [3]. Lại móc tay với các bà hàng xáo gánh gạo đến tận nhà.

Người An Nam không có thói quen hỏi tên, thấy cô có chồng, họ gọi là thím, cũng là thân thiết vì thím chỉ dùng để gọi vợ của em ruột bố hay em họ. Nhưng lý trưởng An Xá cứ réo thím Hồng do Hồng khai tên với ông ta khi làm địa bạ. Hàng xóm nghe lỏm gọi theo và ai cũng gọi hiệu gạo thím Hồng. Tưởng bán gạo dễ như vợ ngủ với chồng, ai mua thì đong và thu tiền, hóa ra chẳng dễ. Dân đồng chiêm chỉ cấy gié bởi giống này thân cao không sợ nước ngập nhưng gạo ở thành phố từ nhiều vùng chuyển về, mất hơn một tháng cô mới phân biệt được hạt nhỏ là gạo dự, hạt dài hơn là di, nếp cái tròn hạt trắng đục, nếp quýt hạt dài.

Từng phải mua chịu xu muối, đấu gạo lúc còn bé, Lan hiểu thân phận kẻ nghèo nên ai mua nửa đấu cô cũng bán, không có tiền cô cho chịu, đấu gạo bao giờ cũng đong có ngọn, không tính thêm cho ai và cũng không tính thiếu cho ai. Một chữ bẻ đôi không biết mà cô tính nhẩm rất nhanh, chả bao giờ sai. Trời lại cho trí nhớ tốt, ai bảo nhầm, cô vanh vách “bà mua ngày này, lúc đó nắng hay mưa thiếu mấy trinh, chị kia mua vào lúc trưa, mặc xống trâu [4] lấm lem, mua hai đấu thiếu một trinh”, nhiều lần như thế họ tin cô buôn bán đàng hoàng. Vì họ tin nên hiệu gạo lúc nào cũng đông khách. Có lần Hồng hỏi:

- Cô cho chịu, không sợ người ta quỵt sao?

Lan lấy ngón tay day vào trán Hồng:

- Buôn bán nhỏ cũng phải đồng chịu đồng giả, nhưng tôi chỉ cho chịu quá lắm đến vài hào. Họ quỵt thì họ mua ở đâu vì các hiệu gạo trên đất này có ai cho chịu như mình?

Từ ngạc nhiên, Hồng thầm phục cách buôn bán của Lan. Ông ta yên tâm, Lan đã tự lo được cho bản thân, nếu có con ông cũng sẽ đỡ gánh nặng.

Việc bán gạo thuận lợi khiến Lan nảy ý định về quê đưa thằng Lân ra ở với mình, cũng muốn nó đỡ khổ và khỏi mang tiếng sống nhờ cô chú. Hồng ngăn:

- Nếu cô tích cóp được theo tôi nên mua miếng đất và mảnh ruộng ở quê. Đất để làm nhà, ruộng để trồng cấy, rồi cưới vợ cho nó. Như thế vừa giữ được quê lại có nơi thờ cúng cha mẹ. Hải Phòng bây giờ là thành phố của người Pháp, không còn của An Nam, nay yên, mai loạn, liệu lúc đó có cưu mang được nó không?

Nghe Hồng nói Lan thấy ông ta thật lòng.

Tốt thế nhưng mỗi khi ông ta ghen cô phát mệt. Việc đầu tiên sau khi về là Hồng ngó nghiêng xó xỉnh, xem có gì bất thường, có khi vục đầu vào chăn hít mùi lạ. Một lần bà cụ hàng xóm vốn nghiện thuốc lào sang chơi mang theo cả điếu, bà hút rồi nhè bã ra nhà, Hồng về thấy mùi hôi tra khảo đến nửa ngày. Lan dọa nếu không tin nhau còn nghi ngờ thì cô về Nam Định, Hồng mới thôi.

2.

Lan định dọn hàng sớm hơn vì cô lẩm nhẩm đau bụng, chợt có phu xe ngang qua nhìn cô chằm chằm. Sững người cô nhận ra Thiên. Ở quê, nhà Thiên và nhà cô chung hàng rào cúc tần. Thiên hơn cô một tuổi. Trẻ con trong xóm thường chơi thân với nhau. Mò cua bắt ốc hay ra đê nướng khoai cô cứ nháy mắt là Thiên tìm cách đi ngay. Lan xinh xẻo nên con trai làng bên hay trêu ghẹo, những lúc ấy Thiên đứng ra che chắn, có lần bênh cô, Thiên bị một thằng đập cả hòn gạch vào đầu, máu tóe ra, Lan phải xé gấu váy bịt vết thương. Thiên nghịch nổi tiếng nhất trong đám trẻ con, trèo ngọn cây đa to tướng đầu làng bắt tổ sáo mới nở, leo mái đình lấy mật, ong đốt mắt sưng vù ngã xuống trẹo chân nhưng vẫn chả chừa. Có lần muốn ăn ổi, Thiên vờ đau chân bảo Lan trèo, tưởng Thiên đau thật, Lan hăng hái, khi lên đến cành khá cao, cảm thấy có điều gì đó không bình thường, Lan cúi xuống bắt gặp ngay ánh mắt hau háu của Thiên. Lan tụt xuống, cầm hòn đất đuổi ném Thiên.

- Đồ nhìn đít đàn bà!

Rồi xấu hổ chạy về nhà, cô giận Thiên mấy ngày.

- Tôi hỏi khí không phải... Anh ra Hải Phòng làm gì?

-... Tôi... tìm cô...

Lan tròn mắt:

-... Sao lại tìm tôi?

- Mấy năm qua tôi day dứt trong lòng... hôm bố cô nhờ dẫn trốn ra thành Nam nhưng thầy tôi bắt ở nhà, chốt cửa không cho ra ngoài...

Nước mắt Lan ứa ra... Hôm đó mưa tầm tã, mưa như cái đêm cô cùng Hà về chuyển mộ cha mẹ. Lý Tung tấp tểnh che ô chống ba toong đến nhà. Nghe tiếng ông ta léo xéo đầu ngõ, cô chạy vội ra vườn nấp sau gốc chuối. Hồi trẻ, Lý Tung bỏ nhà không biết đi đâu. Một ngày lão trở về mang theo cô vợ và đứa con gái còn nhỏ. Năm ấy lụt lớn, nước vây quanh làng, dân đói, sẵn tiền, lão gạ mua ruộng. Bao nhiêu nhà thiếu ăn vàng mắt buộc phải đứt ruột bán rẻ. Từ đó lão là kẻ nhiều ruộng nhất làng. Lão quây thành trại mà thằng Lân bao năm ở đó. Vụ chiêm, vụ mùa, người cày, cấy thuê ăn cơm chật sân. Thóc làm ra lái buôn đến mua bao giờ giá hơn mới bán. Lão cho vay lãi và cũng chỉ vì không trả được mà ông Lạng đầu làng phải gả con gái mới lớn trừ nợ. Thế là lão hai bà. Có tiền, lão mua chức lý trưởng. Chưa đến cổng rào khúc tần, lão đã e hèm và lớn giọng:

- Thằng Man có nhà không?

Bố cô đội mưa chạy ra.

- Thưa cụ, mời cụ vào nhà xơi chén nước rồi con thưa chuyện ạ!

- Tao không thèm vào! Mày đã có tiền giả tao chưa?

- Cụ cho con khất chục ngày nữa, con vay mượn, con trả cụ...

- Mày khất tao bao nhiêu lần rồi?

- Con biết... con túng quá...

- Mày túng, mày quẫn mặc xác mày, nhưng tao vẽ đường cho hươu chạy nhé?

- Dạ! Nhà con có phúc được cụ chỉ bảo ạ!

- Thằng em mày thì nheo nhóc, nó nuôi con không nổi tiền đâu cho mày vay, còn vợ chồng con chị mày lúc nào cũng thiếu ăn gầy giơ xương như chó ốm. Ở cái làng Bình Thơ này không ai có tiền cho mày vay ngoài tao đâu, mày cho con Lan làm vợ tao, tao trừ sạch sành sanh.

- Thưa cụ... cháu nó còn bé...

- Lớn bùi bé mềm, tao xơi được tất!

- Xin cụ thư thư cho con xoay xỏa...

- Tao không chờ được, cả gốc lẫn lãi mấy chục đồng rồi. Thương mày tao mới mở đường thoát, còn mày thương con thì mày tự chui đầu vào gông hiểu chưa.

Đúng chiều kia không có trả, tao đưa lính lệ đến gông cổ mày lại.

Nói xong Lý Tung quay đít đi luôn. Bố cô tái mặt. Cô chạy vào khóc lóc:

- Bố ơi, đừng gả con cho cụ lý, con sợ lắm...

Nước mắt bố cô bé lã chã:

- Có chết bố cũng không làm thế. Cụ lý có giam cầm đánh đập bố cũng chịu được. Để bố nghĩ kế...

Cái món nợ ấy cũng vì cô. Lúc đẻ ra bị sài đẹn, sau lại ốm đau liên miên, không chờ trông được họ hàng bố đành đến cửa cụ lý. Không trả nổi nên lãi mẹ đẻ lãi con...

Cô lau nước mắt. Thiên im lặng. Rồi Lan chợt tỉnh:

- Chuyện qua lâu rồi... Nhưng sao anh biết tôi ở Hải Phòng?

- Dì cô về làng, tôi hỏi thăm... Tôi ra Hải Phòng cũng khá lâu, phúc cho tôi hôm nay vô tình gặp cô...

- Anh cho tôi hỏi, thằng Lân em tôi thế nào?

- Nó đã có da có thịt, hơn hẳn ngày ở trại Lý Tung.

- Thật lòng tôi cám ơn anh... song tôi không dám mời anh vào nhà uống chén nước vì tôi đã có chồng... tính chồng tôi ghen tuông lắm, lão vắng nhà mời anh vào hàng xóm thẽ thọt tôi ăn đòn bầm mặt...

Chắc cô ấy nói thật. Khi Lan trốn ra thành Nam, Thiên buồn bã, không còn hứng thú với những trò nghịch ngợm, tính tình trầm hẳn làm cả làng ngạc nhiên. Thầy u Thiên mừng ra mặt vì từ nay không phải nghe hàng xóm mách tội hay lạy lục xin cha mẹ đứa mà con mình đã quại. Thiên muốn đi ngay nhưng thầy kèm chặt quá. Lúc trốn được lại hay tin Lan đang ở Hải Phòng. Thế là đi Hải Phòng mà không cần biết vuông hay méo. Đến nơi đúng lúc thành phố mới lập này ngổn ngang. Công sứ Bonnal cho đào con kênh thẳng ra cửa Cấm, tòa đốc lý đang xây sắp xong, chính quyền cho lấp các hồ bùn màu mắm tôm, đổ thêm đá mở đường nên chỗ nào cũng mộ phu. Mới đầu Thiên định làm phu hồ, nghĩ lại phu hồ quanh năm suốt tháng chỉ loanh quanh một chỗ, khó có cơ hội tìm Lan. Thiên cũng định làm phu cáng vì các bà các cô khá giả thích đi xa thích ngồi, biết đâu một lúc nào đó Lan gọi đúng cáng mình thì sao. Song khó là nghề cáng phải vào nhóm với nhau, đi xa cần tới bốn người để mệt còn đổi vai. Cuối cùng Thiên chọn xe kéo, loại này mới từ Hà Nội đưa xuống. Phu xe cũng là bán sức như khiêng cáng hay xe đẩy. Anh bạn mới quen cảnh báo, gặp hôm vắng khách không đủ khoán sẽ bị cai cho vào thùng đóng đinh lăn mấy vòng toàn thân rỉ máu mà chẳng ai dám can. Van lạy và hứa nộp đủ khoán cai mới tha. Còn đi vào đường mới rải đá răm, đá sắc xuyên qua lớp da dày bật máu. Rồi chở Tây, nó không chịu ngả người ra phía sau cứ dốc đầu về phía trước, thân hình to như trâu mộng đè lên hai càng xe làm hai tay lúc nào cũng phải gồng lên muốn gẫy. Đã thế mồm nó còn hô “mao lên”. Không còn sức là nó bỏ xuống tót sang xe khác. Có anh xe còn kể, chở Tây say, nó dậm chân, chạy đến nơi, nó vào cửa hàng, đứng ngoài chờ nào ngờ nó luồn ra cửa sau chuồn từ bao giờ. Có lần ức quá anh ta kéo vào chỗ tối vắng người tống mấy quả, đạp nó xuống dong xe chuồn nhanh. Lại có ông chua xót thật lòng với Thiên, ông kéo xe vì không tìm được cách chết đói khác. Ngày nào ông cũng cầm hơi bằng bát nước chè hãm sái thuốc phiện. Thiên vật vờ gần cảng không thấy ông, anh phu trẻ rỉ tai ông đã chết. Cai bảo xe tay văn minh vì cáng thì hai người mới khiêng được một, xe thì một kéo được hai lại còn thêm con chó. Khốn nạn cỡ đó nhưng Thiên vẫn chọn xe tay, dù sao có nhiều cơ hội tìm thấy Lan hơn.

- Rằm này là giỗ bố cô đấy...

Lan bất ngờ. Ở thành Nam giỗ đã có dì, từ ngày ra đây cô chưa làm giỗ lần nào vì chỉ nhớ tháng còn ngày thì quên tịt.

- Sao anh lại nhớ ngày giỗ bố tôi?

- Hôm bố cô mất là ngày giỗ đầu ông nội tôi...

Mắt Lan đỏ hoe, cô vào trong nhà, Thiên cảm thấy mình có lỗi đã gợi lại nỗi đau, anh lặng lặng kéo xe đi. Lúc quay ra Thiên và xe mất bóng, cô trách mình vô tâm.

Đang vào vụ, nhà buôn nào cũng muốn tăng chuyến nên Hồng không thể ở nhà. Lan loay hoay chưa biết làm giỗ kiểu gì. Nhớ ngày còn ở quê, đám giỗ nào mời, bà Cói cũng vác bộ răng đen đi ăn nhưng từ tháng Giêng đến tháng Chạp chả bao giờ thấy bà giỗ chồng và cha mẹ chồng. Bà thuộc hàng cùng đinh nên không có tiền cỗ bàn vì mỗi mâm cũng mất bốn năm xu, vài mâm mất đứt dăm hào, thế là bà đành giỗ vụng. Tiếng là cỗ nhưng cái mâm gỗ gẫy góc xếp chưa kín đĩa bát. Hết hương, bà khép cổng ngõ, buộc dây như đi vắng, cả nhà lén lút ăn, bà cấm con không được nói to. Thằng Bị hôm sau khoe nhà có giỗ được ăn thịt lợn luộc. Chuyện bà giỗ vụng tóe ra, thế là làng gán cho cái tên “Cói vụng”. Thằng Bị hôm đó bị trận đòn.

Giỗ không thể không mời hàng xóm. Mà mời, vắng Hồng, họ sẽ bàn tán sau lưng “giỗ mẹ vợ mà con rể không đến, chắc có chuyện”. Có thanh minh Hồng phải đi mua thóc họ cũng chả thèm tin, nhà vợ có giỗ thì công to việc lớn cũng phải gác lại. Cô bắt chước bà Cói giỗ vụng.

Sợ mua đồ cúng ở chợ làng mọi người thế nào cũng biết nên cô cất công vào tận chợ Lớn [5]. Trước khi cắt tiết con gà, sợ nó quang quác cô cẩn thận lấy dây buộc chặt mỏ. Lúc chặt thịt cô cũng rất nhẹ tay.

Đứng trước bàn thờ nhỏ, hai tay Lan chắp thành kính, miệng lẩm nhẩm rồi cúi xuống lạy ba lạy. Nước mắt đầy như ao mùa mưa, cô nín lặng như mất hồn. Cũng may Hồng đồng ý để cô lập bàn thờ, “bố mẹ cô cũng là bố mẹ tôi”, ông ta nói làm cô mát lòng.

Khói hương tản ra, mùi thơm luẩn quẩn trong gian nhà nhỏ. Lan cứ ngồi như thế cho đến khi ba nén hương cháy hết. Cô lại chạnh lòng thương em. Mười mấy tuổi đầu phải chịu cực nhọc. May mà hôm cứu nó, Hồng cũng đưa mấy đồng. Em thoát khổ thì hai chị em lại xa nhau. Lan bật khóc, tiếng nấc tủi hận y như lúc nghe tin bố treo cổ. Cô thổn thức, “Ơi bố ơi! Ới mẹ ơi! Vì con mà bố phải chết oan ức, chết khổ chết sở. Con là đứa bất hiếu, chưa làm gì để báo hiếu cha mẹ... Ới bố ơi, ới mẹ ơi...”. Lan cứ hờ như thế cho đến lúc giọng khản đặc mới thôi. Có tiếng gọi mua gạo cô cũng chẳng buồn bán. Cô hạ mâm cơm cúng định ăn vài miếng nhưng miệng khô đắng. Có tiếng đàn ông gọi, cô mở cửa. Lại là Thiên. Thấy mắt Lan sưng húp, anh ta gãi đầu, ngập ngừng. Lan đoán có chuyện. Cô nín thở chờ.

- Thôi khất cô lúc khác... cô đang buồn...

Thiên cầm càng xe. Có vẻ chuyện quan trọng, Lan gặng:

- Tôi buồn nhiều vui ít, thêm một chuyện buồn như đồng chiêm mùa nước thêm một cơn mưa thôi mà.

Thiên lưỡng lự, sợ hàng xóm nghe được, anh ta thì thầm:

- Cô muốn biết nhà vợ cả của chồng cô không?

Lan choáng váng, muốn khụy.

- Tôi theo dõi nhiều lần... Định nói với cô...

Rồi Lan tĩnh trí lại, cô nghi ngờ. Hồng nhiều lần cam đoan thề thốt chưa từng lấy vợ và có lần còn định lấy dao chặt ngón tay vì cô không chịu tin.

- Anh có chắc không?

- Tôi sẽ dẫn cô đến nhà bà ấy...

Lan đổ sụp. Thảo nào, đi mua thóc về ông ta chỉ ngủ một đêm với cô rồi nại lý do phải ngủ ở nhà để bố mẹ khỏi buồn. Mấy lần cô đòi đi theo học nghề nhưng ông ta dứt khoát không chịu, vỗ về bảo đàn bà con gái đi thuyền vất vả, sắc đẹp hao mòn, có lẽ ông ta sợ lộ. Hồng chưa bao giờ đưa bạn bè về nhà chơi, duy nhất chỉ có ông quản thuyền mà ông này đến vì việc thuyền. Thế thì khốn nạn thật. Cô thẫn thờ như kẻ mất hồn. Trách mình sao nỡ cướp chồng người khác, oán thán số phận hẩm hiu... Rồi bỗng cô tự hỏi, ông ta có con với bà kia, mà ân ái với cô nhiều như sao giời sao chẳng có gì, hay tại mình là quả cau điếc...

Hồng về tầm chiều. Ông ta nằm chềnh ềnh trên giường chờ Lan xong việc tự động leo lên nằm cạnh như mọi lần. Không tính toán như đám đàn ông Quảng khác, lấy vợ để có người trông coi cửa hàng, thi thoảng được thay hơi đàn bà, ông chăm chút Lan còn hơn chăm bản thân. Ông càng mê mệt hơn sau vài lần vờ quăng tiền ra bàn rồi bí mật đếm lại nhưng chưa lần nào thiếu một trinh. Hôm nay Hồng thấy Lan khác, dềnh dang, cô ngồi ghế uống nước chè.

- Ông dối tôi Hà đã chết!

Hồng giật mình. Ai nói chuyện ấy? Chắc hẳn phải là người Lương Xá và người này biết rất rõ mọi chuyện. Hồng nhỏm dậy:

- Đúng là tôi bịa ra vì tôi quá si mê cô... tôi muốn cô quên người cũ... Mà ai nói với cô?

Không trả lời, đột ngột Lan hỏi:

- Ông về nhà thăm vợ con chưa?

Câu hỏi này làm Hồng chột dạ. Cô ta ngồi bán gạo cả ngày, bạn bè, người thân không có và Hồng cũng chưa kể cho bất cứ ai. Ông giấu còn hơn mèo giấu cứt. Người duy nhất chỉ có quản thuyền. Ai cho cả vò rượu ông ta cũng không hé răng. “Kẻ biết mình có vợ con và sang tai cô ta chồng cũ chưa chết là một”, Hồng đoán.

- Hôm nay cô ăn nói nghe lạ ghê!

- Giờ tôi mới hiểu tại sao ông mua nhà xa nơi Hoa kiều sống. Ông sợ họ biết sẽ ngầm báo cho vợ ông. Ông có bốn đứa con, thằng đầu con trai, hai đứa giữa là gái, đứa út con trai. Nhà ông lợp ngói âm dương, cách khe Liên chưa đầy chục thước...

Lan oang oang phơi ra từng thứ. Mặt Hồng tím tái không thể nói được gì vì cô ta nói đúng.

Theo ba má xuống Hải Phòng khi Hồng đã lớn. Thời điểm đó Bắc Kỳ bất ổn, người Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất khiến Ninh Hải [6] lo toan, nhộn nhạo. Các toán cướp hoành hành suốt từ Móng Cái, Quảng Yên đến Đồ Sơn. Sợ con trẻ tuổi nông nổi muốn làm người hùng dễ nhập băng cướp nên ba ép lấy vợ. Ban đầu Hồng ậm ừ nhưng áp lực từ dòng họ Lý khiến Hồng phải nghe. Cô ta là con gái người bạn đồng hương, sang An Nam sau cha ông vài năm, chọn Ninh Hải, kiếm sống, ông cho rằng “nhiều cá thì nước ao phải đục” và buôn thóc từ đó. Cô ta không xinh đẹp, tính tình hiền lành thậm chí nhu nhược. Cưới xong Hồng theo ba vợ dong thuyền khắp Bắc Kỳ mua thóc. Còn ba ông vay vốn đập thêm vào mở rộng nhà máy xay. Rồi cha vợ đột tử, ba ông mua lại thuyền của thông gia, tự đi mua thóc. Có với nhau bốn mặt con song vợ Hồng chỉ là người duy trì nòi giống cho dòng họ Lý. Hai cái bóng trong một mái nhà.

- Những lần ông nói với tôi về nhà ba má ngủ hóa ra về ngủ với vợ. Ông lừa tôi trắng trợn. Tôi đâu muốn tranh vợ cướp chồng của ai, người ta cũng là đàn bà như tôi thôi - Lan hét lên.

- Tôi sai là không thú thật với cô từ đầu... mà cô cũng có phải lần đầu đâu...

Câu nói chẳng khác đổ thêm dầu vào lửa. Lan chồm lên:

- Biết tôi có chồng, sao ông còn cố lao vào?

Hồng lắp bắp:

- Vì tôi si cô...

- Tôi chả khiến ông si tôi!

Hồng đớ họng. Sợ Lan điên hơn, Hồng năn nỉ:

- Tôi xin lỗi cô... Tôi không thành thật với cô nhưng tôi đâu có tệ với cô...

Lan ôm mặt khóc tu tu.

Kẻ theo dõi, rình rập ông là đứa nào? Hay tạm xa cô ta một thời gian để cắt cái đuôi? Liệu cô ta có chấp nhận không? Làm cách nào ba ông không biết? Lo lắng hiện rõ trên mặt Hồng.

3.

Bến cảng nắng nhạt. Cái nắng cuối thu nhẹ và khô càng làm cho Lan đơn độc hơn. Cô hướng mắt ra xung quanh như muốn tìm thuyền của Hồng. Cô với mắt tới một con thuyền phía xa. Nhưng không phải, thuyền này mới quá. Hồng có vợ khiến cô thấy cuộc sống bấp bênh và bất an, họa có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Giờ cô hiểu câu ca dao mà bà cô ru thằng Lân.

Chiều chiều bãi bể sóng xô

Dã tràng xe cát cơ đồ phù vân

Có lúc cô thôi thúc phải rời bỏ Hải Phòng. Tỉnh lại, cô ngẫm ông ta là người tốt bụng, chu đáo.

Đám phu như đàn kiến thứ tự và miệt mài vác các bao hàng từ hầm tàu lên. Lại có nhóm vác từ bờ xuống. Tiếng búa hơi đóng cọc bê tông thình thình, chính quyền đang mở rộng cảng, phá bỏ cầu bằng gỗ để thay bằng bê tông. Các ông chủ Hoa kiều trong bộ quần áo màu ghi bóng loáng, tóc tết gọn đi đi lại lại. Đã có lần Lan hỏi Hồng ai tết tóc cho đàn ông, ông ta giải thích, tự học mà tết lấy. Đi theo các ông chủ lúc nào cũng có mấy trai tráng to cao, kẻ che ô, người sẵn sàng chờ sai bảo. Còn chủ Tây lại khác. Ông nào cũng quần soóc, áo sơmi bỏ trong quần, miệng ngậm tẩu đi lại nhanh nhẹn.

Một ông Tây đang hôn cô vợ An Nam. Ông chồng cao khiến cô vợ kiễng chân rướn người mới chạm vào cái miệng đầy râu, rậm rạp như cỏ mùa nước. Lan không hiểu họ đến với nhau thế nào. Con gái An Nam xưa nay do cha mẹ sắp đặt và bà cô vẫn dạy “nam nữ thụ thụ bất thân”, có lần bà vô tình nghe tiếng chút chút trong buồng mà mẹ cô còn bị mắng là loại dơ dáy. Đây “chút chút” công khai giữa thanh thiên bạch nhật lại với ông Tây thì đúng là tội tày đình. Lan nghĩ mình cũng thuộc loại liều, dám ngủ với đàn ông mới quen và ôm yếm váy về ở chung, nhưng cô này liều hơn. Dân phu chắc đã quen, họ chẳng để ý. Hai người thôi hôn, dắt tay nhau sóng bước trên cầu cảng. Màu trắng của váy áo nổi bật trên nền phía sau là những con thuyền gỗ nâu bạc phếch. Lan thấy hay mắt. Cô nhớ có đêm làm tình, Hồng vuốt ve và cô mơ về sự quấn quýt... Lại một cặp chồng Tây vợ An Nam từ khách sạn Commerce [7] ra.

Cô vợ khoác tay người chồng to lớn, khói thuốc chui ra từ đám râu. Họ ôm nhau đầy thắm thiết. Lúc nào cũng ôm, không hiểu người Tây làm việc ra sao? Lan nghĩ vẩn vơ. Người chồng lên chiếc xe ngựa đợi sẵn, họ chạm môi chia tay. Cô rạo rực. Chưa bao giờ anh chồng xáo trâu hôn như vậy. Lần nào cũng cuống quýt xong việc tự lăn xuống phản. Hồng đỡ hơn, nụ hôn không thanh mà gọi cảm xúc về.

Chị này cũng mặc váy kiểu Tây. Thùng thình xòe như cái nơm úp cá, màu trắng đục. Chiếc áo màu trắng, cổ lá sen bẻ ra trông dịu dàng. Chị ta đội chiếc mũ vải cũng lại màu trắng có vành rộng gấp nếp. Đôi giày đen nhỏ gọn. Bỗng nhiên chị ta tiến lại phía Lan, mùi thơm rất gây sự đàn ông ùa theo. Mũi cô chưa bao giờ được ngửi mùi thơm này. Khuôn mặt chị bầu bĩnh, môi đỏ như mào gà trống.

- Mấy chiều liền tôi thấy cô đứng ở chỗ này, chắc ngóng chồng đi bể về?

Sao chị ta biết mình đã có chồng? Lan lúng túng:

- Dạ... thưa bà, vâng ạ...

Rồi chị hỏi rất tự nhiên:

- Em nhìn tôi già lắm à?

- Dạ... ai giàu có thì đều là ông là bà ạ...

Chị ta bật cười.

- Cái ngày tôi còn nghèo cũng thế, cứ thấy ai mặc quần lĩnh, khăn nhiễu điều là gọi bằng bà. Ra ở đời cứ “hơn nhau tấm áo manh quần” là thành bà, cái xứ An Nam mình ngẫm cũng lạ.

Lan tự tin hơn:

- Ông bà ra Đồ Sơn hóng gió bể?

- À, chồng tôi xuống ký giao kèo với Hoa thương, tôi bám theo đi chơi.

Ở thành Nam, người Hoa mở xưởng dệt, buôn bán hàng hóa mang từ Hương Cảng sang, còn ở đây họ làm thầu khoán, chồng cô bảo có người nắm trong tay đội xà lúp [8] hàng chục chiếc. Thế mà Hồng chỉ có độc chiếc thuyền. Bỗng nhiên cô ước ao làm chủ nhiều chiếc thuyền và chỉ mộ phu nữ cho thiên hạ lác mắt.

- Chồng cô làm gì? Câu hỏi cắt ngang suy nghĩ của Lan.

- Dạ... chồng cháu buôn thóc ở vùng Sơn Nam Hạ đưa về Hải Phòng xay xát rồi xuất khẩu ạ!

- Chồng cô là Hoa kiều?

Lan tò mò:

- Sao bà biết?

- Ai mà chả biết nghề ấy chỉ có người Tàu.

Cứ hỏi qua đáp lại, chị ta biết hết hoàn cảnh của Lan. Tĩnh tâm, Lan trách mình sao lại bô bô với người lạ. Cô băn khoăn, chị ta bắt quen với mình để làm gì?

- Đây là thành phố của phu phen, ăn to nói lớn tục tằn lắm, lại là nơi đất chua gió mặn, da em sạm vì hơi muối rồi đấy. Chị cũng từng có chồng An Nam nhưng khi lấy chồng Tây, sống với họ chị thấy mình là người khác.

Nói xong, chị ta mở ví da lấy tấm giấy cứng.

- Chị là Ba. Đây là danh thiếp, có dịp nào lên Hà Nội ghé qua nhà chị chơi. Em có đôi mắt đẹp lắm... đừng để phí em à...

Nói xong chị Ba đi. Lan thèm thuồng nhìn theo cho đến khuất bóng. Cô mân mê tấm danh thiếp nhỏ bằng ba đầu ngón tay có dòng chữ đều đặn rất đẹp. Đoán là chữ Tây, Lan lẩm bẩm, giá như mình biết thứ chữ này.

Chú thích:

[1] Còn gọi là Liên Khê, nối hai sông Tam Bạc và sông Cấm. Năm 1885, chính quyền cho đào vét, nắn thẳng sau đó gọi là kênh Bonnal theo tên công sứ Hải Phòng. Kênh này bị lấp năm 1925 để mở mang thành phố.

[2] Xe đẩy là xe hai bánh gỗ tròn, một người cầm càng kéo và một người đẩy đằng sau. Đây là phương tiện chở khách phổ biển trước khi có xe tay ở các đô thị.

[3] Dụng cụ bằng gỗ, hình tròn, đong đầy tương đương 1,5kg.

[4] Váy bằng vải mộc nhuộm nâu, dài quá đầu gối một chút, phụ nữ xưa mặc để đi làm đồng.

[5] Chợ Sắt.

[6] Cảng lập năm 1871-1873 bên cửa sông Cấm. Ngày 19-7-1888, chính phủ Pháp ký sắc lệnh thành lập thành phố Hải Phòng gồm cảng Ninh Hải và một số huyện ven biển của tỉnh Hải Dương.

[7] Tiếng Pháp: Thương mại. Khách sạn này vẫn giữ nguyên tên cho đến trước năm 1954. Năm 2009 thì bị phá để xây mới, hiện là bãi ô-tô, sát bên khách sạn Hữu Nghị (số 62 phố Điện Biên Phủ, quận Hồng Bàng).

[8] Phiên âm tiếng Pháp của từ Chaloupe: Tàu thủy chạy bằng hơi nước.