TỪ ĐẠI HỌC PHNOM PENH TỚI ĐẠI HỌC HÀ NỘI
Trên mảnh đất Cam Bốt đau thương, những cây thốt nốt cho dù đầy thương tích vẫn cứ trổ hoa kết trái và cho mật ngọt. Cũng như sinh viên tuổi trẻ Cam Bốt thế hệ sau Khmer Đỏ được sinh ra giữa tro than trong một xã hội bất toàn nhưng những cây non ấy đã bám rễ để đâm chồi nở lộc để vươn lên trời xanh. Họ đã có tiếng nói chống lại những bất công tham nhũng trong vòng thành đại học_ nghĩa là những vấn đề thiết thân tới tương lai họ, nhưng đồng thời họ cũng có những mối quan tâm xa hơn bản thân: không thiếu những cuộc biểu tình đòi dân chủ, đòi đất đai từ Việt Nam...
Thật là tương phản khi nhìn sang tuổi trẻ Việt Nam, suốt 27 năm dài ấy kể từ 1975, trong các đại học quốc gia từ Hà Nội, Huế cho tới Sài Gòn, Cần Thơ chỉ thấy giấc ngủ triền miên của sự câm lặng đến gây kinh ngạc.
ĐƯỜNG SỐ 5: KHU KỸ NGHỆ TONLE SAP
Lúa gạo và cá là xương sống của nền kinh tế Cam Bốt từ bao thế kỷ. Giấc mơ kỹ nghệ hóa là bước phát triển tiếp theo kể từ khi có hòa bình. Dọc theo con đường bờ sông Tonle Sap những khu kỹ nghệ mọc lên và không ngừng phát triển: các nhà máy hóa chất, nhà máy rượu, các nhà máy cưa, khu kỹ nghệ bông vải và may mặc... Sok Thon giải thích sở dĩ khu kỹ nghệ lập bên sông là để dễ có nguồn nước cung cấp cho các nhà máy. Nhưng đồng thời tôi cũng phải hiểu thêm rằng_ giống với khu chế xuất Vân Nam trên hai bờ sông Mekong, tuy quy mô nhỏ hơn nhưng rồi ra con sông Tonle Sap cũng dần đà trở thành cống rãnh cho các chất phế thải kỹ nghệ hoặc sẽ được đưa đẩy lên Biển Hồ trong mùa mưa hoặc đổ xuống ĐBSCL qua hai con sông Tiền sông Hậu trong mùa khô.
Khi mà độ ô nhiễm con sông Tonle Sap chưa tới “Ngưỡng Tử Vong” thì vẫn còn những đợt cá tuy có giảm đi từ Biển Hồ xuống ĐBSCL nhưng sẽ không còn là ‘những con cá sạch’ mà đã trở thành nguồn cá bị ô nhiễm.
Vẫn là những Bài Học Khổng Học / Unlearned Lessons: lập khu kỹ nghệ bên sông, đổ chất phế thải và tàn hại môi sinh.
Người ta vẫn chưa quên được tấn thảm họa môi sinh lớn nhất của Thái vào tháng 3 - 1992 khi 9 ngàn tấn mật mía từ nhà máy Khon Kaen đổ xuống con sông Nam Pong rồi chảy vào hai con sông Chi và sông Mun là hai phụ lưu của con sông Mekong khiến không còn một giống cá nào sống sót nhưng rồi hậu quả ra sao với ĐBSCL thì không ai được biết.
Cuối năm 1998, lại thêm một thảm kịch môi sinh khác Made in Taiwan xảy ra ở Sihanoukville khi các nhân viên hải quan Cam Bốt ăn hối lội để cho một công ty kỹ nghệ từ Đài Loan trút những thùng chứa chất phế thải kỹ nghệ có thủy ngân cực độc xuống vùng phụ cận Sihanoukville khiến các công nhân bến cảng khuân vác các thùng chứa này đều bị chết vì nhiễm độc. Cho dù sau đó công ty Formosa Plastics chịu trách nhiệm thu hồi nhưng khu du lịch Sihanoukville đã mang tỳ vết ô nhiễm không còn có du khách.
Có bao nhiêu vụ “scandales” như vậy với chất phế thải độc hại đổ xuống sông xuống biển và cả trên đất liền mà người ta không hề hay biết. ĐBSCL luôn luôn là điểm hẹn cuối cùng của đủ loại chất phế thải ấy.
Tin cuối năm mới nhất trên trang báo The Nation Thái Lan 12-14-01: Giới chức địa phương báo động dân chúng tránh ăn cá bị nhiễm độc trên sông Lop Buri (là một phụ lưu của con sông Chao Phraya lớn thứ hai sau con sông Mekong) do nước sông bị ô nhiễm vì các hóa chất từ nước chữa cháy một ngôi chợ đổ dồn xuống sông và giết chết nhiều loài cá. Các độc chất này sẽ tan loãng khi chảy vào các con sông lớn. Nhưng giới chức y tế vẫn lo ngại rằng số cá chết bị nhiễm độc vẫn được đám con buôn đem ra chợ bán. Thử nghiệm các mẫu nước đầu tiên cho thấy lượng oxy giảm xuống chỉ còn một nửa.
Rồi sẽ có một ngày, nơi khúc sông Tonle Sap trước khi đổ vào Quatre Bras, khi mà lượng oxy trong nước xuống dưới 50% thì sẽ chẳng còn đàn cá nào từ Biển Hồ có thể vượt qua “ngưỡng môi sinh tử vong” này để xuống tới ĐBSCL.
Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm
Rồi ra sẽ chẳng còn đâu nhiều cá nhiều tôm, ĐBSCL sẽ không còn là vùng đất lành cho chim đậu.
ĐƯỜNG ĐI KOMPONG CHHNANG - TỚI VỚI BIỂN HỒTháng Tư năm 1975 trên con đường số 5 này, từng đoàn người lũ lượt với hai bàn tay trắng bị đuổi ra khỏi thủ đô Nam Vang để đi về Những Cánh Đồng Chết. Là một trong những quốc lộ chính chạy dọc theo bờ nam con sông Tonle Sap tới tỉnh Kompong Chhnang lên Biển Hồ, tới Chhnok Tru _ là khu làng nổi chuyên nghề đánh cá với rất đông người Việt.
Ra khỏi thủ đô, buổi sáng trước giờ sở làm, ngược chiều đường số 5 về hướng Nam Vang, là những chiếc xe remorques_ một loại xe gắn máy có kéo theo một remorque 4 bánh như một thùng gỗ dài có thể tải từ 25 tới 30 người, là phương tiện đi lại rất thông dụng vì rẻ. Chồng chất trên những “thùng cá sardines” ấy là các nữ công nhân rất trẻ thuộc công ty may mặc từ ngoại ô đi tới khu chế xuất và kỹ nghệ trên bờ sông Tonle Sap, có lẫn cả những học sinh nam nữ tới trường đi học. Đường chật chội lại xấu đầy những ổ gà, xe nhỏ xe lớn đều chạy nhanh. Theo tài xế Sok Thon, tai nạn lật xe rất thường xảy ra, riêng năm ngoái gần như cả một xe remorque với trên 20 người đều tử nạn.
(Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về mấy chục ngàn cô gái công nhân may mặc này: gốc là những cô gái quê lên tỉnh kiếm việc làm. Mà tỉnh thành là nơi cám dỗ nguy hiểm, nhiều cô bỏ việc với đồng lương không đủ sống để trở thành gái bia ôm hay gái điếm. Bước vào con đường ấy các cô không còn lối về cho tới khi thật bệnh hoạn, lúc đó các cô trở thành những trái bom nổ chậm gieo dịch HIV ngay trên chính quê hương họ. Sau Thái Lan tới Cam Bốt rồi Lào và cả Việt Nam: dịch HIV sẽ là cái giá quá đắt phải trả trong bước phát triển kỹ nghệ du lịch).
Từng đoàn xe be 18 bánh chở các súc gỗ không lồ từ các khu Rừng Mưa tỉnh Kompong Thom sau khi qua phà theo đường số 5 đổ về khu nhà máy cưa_ là công ty liên doanh Nhật-Cam Bốt. Mức độ phá rừng tự sát / suicidal deforestation, hợp pháp hay không thì cũng không hề có dấu hiệu chậm lại. Không phải chỉ có Nhật Bản, mà các nhà khai thác gỗ giàu sụ Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương kết hợp rất hiệu quả với giới tướng lãnh và chính quyền địa phương Cam Bốt tham nhũng đã mau chóng xóa đi những khu rừng mưa hiếm quý cho dù trên giấy tờ đã có luật cấm. Vào giữa thập niên 60, 75% diện tích nước Cam Bốt còn được bao phủ bởi những khu rừng mưa, tới thập niên 90 chỉ còn chưa tới 50% diện tích rừng. Tốc độ phá rừng bất hợp pháp những năm về sau này càng diễn ra nhanh hơn. Điều này khiến cho các nhà bảo vệ môi sinh như William Shawcross phải than thở: “Phá rừng bất hợp pháp có lẽ là khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong vấn đề tham nhũng của chế độ”. Không còn rừng bao phủ, mưa sẽ xói mòn các đồi núi, kéo đất xuống làm cạn Biển Hồ, cộng thêm ảnh hưởng từ xa của các con đập khổng lồ Vân Nam làm mực nước tụt xuống thấp, rồi ra sẽ không còn dòng chảy ngược của con sông Tonle Sap đem nước sông Mekong vào Biển Hồ. Đó là một thảm họa môi sinh cho Cam Bốt và cả Việt Nam. Biển Hồ là hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á, rồi ra sẽ là một Biển Hồ chết giống như biển Aral của Trung Á.
Đúng là một ngày hành hạ chiếc xe Camry và cả sống lưng của khách ngồi trong xe vì tình trạng con đường số 5 quá tồi tệ. Đá răm, ổ gà và cả những khúc đường vỡ lầy lội. Những lỗ lớn trên đường theo Sok Thon là do những trái pháo trong thời kỳ giao tranh với Khmer Đỏ. Sau đó chỉ được lấp liếm bằng đất tạm thời rồi những bánh xe tải nặng lại đào lên những lỗ lớn hơn và sâu hơn. Đã thế lại không ngừng tăng số xe xộ di chuyển kể cả những chiếc xe tải lớn. Không phải chỉ có đường số 5 là tồi tệ. Theo Bộ Công Chánh thì trước chiến tranh Cam Bốt có 35,000 km đường trải nhựa, bây giờ chỉ còn vỏn vẹn 350 km. Tình trạng đường sá xuống cấp của Cam Bốt là không thể tưởng tượng được. Khoảng thập niên 30 người Pháp bắt đầu mở mang hệ thống đường sá nhưng rồi những thập niên sau đó bị hư hại do lũ lụt, chiến tranh mìn pháo.
Tên Chhanang có nghĩa là đồ gốm đồ sành. Kompong Chhnang là tỉnh làm đồ gốm đồ sành nằm cạnh bến sông Tonle Sap. Đúng với tên gọi, hai bên đường có bày bán đủ các loại hũ chậu nồi niêu bằng đất nung. Sâu vào phía trong là các căn nhà sàn bao quanh là những cây dừa, cây xoài, cây nhãn và me... Trải dài ra chân trời xa là những cánh đồng lúa, luôn luôn có vươn lên những hàng cây thốt nốt mà mỗi thân cây còn mang nguyên những vết thương miểng hay đạn của một thời chinh chiến, có cây bị cắt đứt ngọn chỉ còn trơ phần thân cây đen xám. Từ các con đường làng đi ra không phải là hiếm thấy những người dân quê đàn ông đàn bà hay trẻ em cụt chân chống nạng, đasố là nạn nhân của mìn bẫy còn vương vãi trên khắp đất nước Cam Bốt.
Tưởng cũng nên ghi lại đây, Mỹ như một siêu cường mạnh nhất thế giới có răng nanh nguyên tử, có phi đạn liên lục địa nhưng đã từ chối không tham gia “Thỏa ước Ngưng Chế tạo các loại Mìn bẫy Chống Cá nhân” mà nạn nhân chủ yếu là các thường dân vô tội. Một bước xa hơn nữa, chính quyền Bush đã mau chóng bước ra khỏi “Hiệp ước Môi sinh Kyoto” như một nỗ lực toàn cầu nhằm giảm thiểu hiện tượng hâm nóng bầu khí quyển chủ yếu do các quốc gia kỹ nghệ gây ra. Chỉ cần nhiệt độ bầu khí quyển tăng lên 1 độ C cũng đủ làm tan những khối tuyết ở hai cực khiến nước biển dâng cao. ĐBSCL vốn thấp hơn mặt biển, rồi ra không chỉ cạn kiệt nguồn nước ngọt do chuỗi các con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam nay cộng thêm mực nước Biển Đông nếu dâng cao hơn 1 mét thì sẽ chẳng còn hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa để mà tranh chấp và cũng sẽ chẳng còn đâu một Nền Văn Minh Miệt Vườn.
Bây giờ trước mắt là cái giá phải trả cho những chiếc xe chạy trên con lộ xấu. Trên đường rải rác vài chiếc xe bị xẹp bánh vì những tảng đá sắc. Chiếc Camry cũ kỹ của chúng tôi cũng không may mắn gì hơn. Một bánh sau bị xẹp khi vừa tới ranh thị trấn Kompong Chhnang. Lỗ thủng quá lớn để có thể vá nhưng cũng chỉ cần 10 phút sau, anh tài xế Sok Thon rất nhanh nhẹn đã một mình thay xong chiếc bánh secours.
Mới bắt đầu cuộc hành trình, với 4 chiếc bánh xe cũ kỹ lại không còn bánh secours trên con đường quê xấu xí vẫn đầy ổ gà và đá răm, rồi sao nữa nếu thêm một bánh xe bị xẹp. Tôi lên tiếng bày tỏ mối quan ngại ấy nhưng với anh tài xế thì vẫn cứ trả lời là “No Problem_ Không Sao”.
Quả là không sao với Sok Thon vì anh ấy là người Khmer, nhưng riêng tôi thì hoàn toàn không muốn cảnh bất đắc dĩ phải qua đêm trong một khu làng Miên xa xôi hẻo lánh với căn cước là một người Việt.
Rồi anh ta vẫn cứ trực chỉ lên đường, khúc đường trước mặt vẫn lởm chởm đầy đá và bụi đỏ. Sok Thon hành sử như một sĩ quan Ban Ba, anh tận tụy không nề hà thiệt hơn và muốn thực hiện cho bằng được kế hoạch hành quân tôi đề ra. Chính tôi lại là người phải kìm hãm anh ta. Tôi bảo anh chiếc Camry là để chạy trong thành phố không phải là xe Jeep, anh không thể lái hung hãn như vậy được. Nhưng anh ta vẫn quả quyết là không sao. Tôi hiểu rằng số tiền mà tôi trả cho anh cũng sẽ không tương xứng bù lại những ngày anh “hành hạ” chiếc xe kiếm cơm của anh như vậy.
Chhnok Tru cách Kompong Chhnang 36 km đi vào bằng con đường đất đá nhỏ hơn. Đó là một khu làng nổi trên cửa sông Tonle Sap và Biển Hồ, dân cư sống bằng nghề hạ bạc /chài lưới. Là nơi chung sống của nhiều sắc dân, đông nhất là người Việt, rồi tới người Chăm và người Khmer. Cũng dễ nhận ra họ qua diện mạo và sắc phục. Phụ nữ Việt thì vẫn bận áo bà ba, vẫn nói tiếng Việt giọng Nam từ thuyền nọ sang thuyền kia vang vang trên mặt sông lạch.
Viên tài công thuê được sáng nay là một cậu bé Khmer 12 tuổi thành thạo lái chiếc thuyền đuôi tôm đưa tôi và Sok Thon chạy len lách giữa những khu nhà nổi. Tôi không thể không tự hỏi hoàn cảnh nào đã biến những đứa bé trưởng thành sớm trước tuổi như vậy. Hơn 50% tay súng Khmer Đỏ sát nhân hung hãn nhất là ở lứa tuổi 12 tới 14, chưa cao hơn bao nhiêu cây súng AK mà ngón tay chúng thì lại rất nhạy lãy cò. Đám cai tù tra tấn hung bạo nhất ở Tuol Sleng sẵn sàng bổ búa rìu lên sọ các nạn nhân cũng là đám ở lứa tuổi thiếu niên ấy. Rồi đám trẻ tinh quái bán buôn trước khu đền đài Angkor cũng lứa tuổi 13. Cả không thiếu những cô gái điếm lão luyện tiếp khách cũng chưa quá tuổi 15. Những “Thần Đồng” ấy đâu có thể là sản phẩm của nền văn minh rực rỡ Angkor-Khmer cách đây hơn 8 thế kỷ?
Có lẽ do nguồn cá phong phú của Biển Hồ, mực sống của cư dân nơi đây nói chung cao hơn hẳn những người Việt sống trong các khu nhà ổ chuột ở Nam Vang. Những nhà nổi khang trang, trên nóc có tua tủa những cột ăngten để bắt các kênh đài truyền hình (giống như ở Năm Căn ĐBSCL). Trước vài nhà còn có trang trí những chậu hoa giấy đỏ hay cúc vàng. Ngoài nhà lồng nuôi cá, họ còn nuôi thêm gà vịt và chó. Tôn giáo thì đa dạng: có khu nhà thờ nổi “An Tôn” và chùa Phật “Quan Thế Âm” cho người Việt. Sinh hoạt buôn bán trên sông nước không thiếu những bảng hiệu tiếng Việt: Tiệm Hớt Tóc, Tiệm Sửa Đồng Hồ, các tiệm chạp phô và trạm bán xăng nhớt... Những người Việt ở đây có vẻ tự tin sống hiên ngang với căn cước của họ cho dù trong quá khứ không thiếu những tai ương tang tóc đổ lên đầu họ dưới thời Lon Nol và Pol Pot.
Trên đường về, lại thêm một chiếc xe tải sập bánh trên cây cầu gỗ làm nghẽn dòng xe cộ suốt hai bên đầu cầu. Giải quyết ra sao là chuyện của mọi người và cũng không là trách nhiệm của một ai. Tách ra khỏi đoàn xe cộ ấy, Sok Thon tìm ngay ra được một ngả đường vòng trên các thửa ruộng khô để lại tiếp tục cuộc hành trình.
Gỗ ở đâu mà nhiều như vậy, vẫn trên đường số 5 là những chiếc xe be chở những khúc gỗ khổng lồ về hướng khu kỹ nghệ Tonle Sap. Cũng trên một khúc đường số 5 khác đi vào Nam Vang, những người lính công binh Khmer trong đồng phục với các trang thiết bị nặng và cả xe hủ lô đang cán đá để trải nhựa một đoạn đường. Hết chiến tranh, ngoài kế hoạch cho giải ngũ hàng loạt, Hun Sen đang đưa quân đội vào những công trình xây dựng hòa bình.
KOMPONG CHAM JAPANESE BRIDGE
Tôi đã đến với những cây cầu khác nhau bắc ngang qua sông Mekong: cầu Mittaphap nối Vạn Tượng - Nong Khai (04/94), cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền (05/2000), cây cầu Lào -Nippon / Champassak (08/2000).
Trước khi tới Nam Vang, tôi cũng được biết Nhật đang giúp xây cây cầu đầu tiên của Cam Bốt bắc ngang sông Mekong nơi tỉnh Kompong Cham, cầu có chiều dài 1.4 km với tổn phí lên tới 56 triệu đôla viện trợ không bồi hoàn. Cây cầu sẽ mở đường sang các tỉnh phía đông và đông bắc Cam Bốt và cũng là điểm nối quan trọng cho siêu xa lộ nối liền Bangkok - Nam Vang sang tới Sài Gòn.
Công trình được khởi công từ 1998. Quá trình xây dựng hơn 3 năm. Trong thời gian xây cất, Mekong Hotel là khách sạn lớn nhất của tỉnh Kompong Cham được dành cho toán chuyên viên làm cầu Nhật Bản và ngay sau đó cũng không biết từ đâu_ theo lời kể lại, các cô gái Việt Nam lũ lượt kéo tới đây để mua vui cho khách trong các phòng nhạc karaoké, các khu đấm bóp như những ổ mãi dâm trá hình. Nay tới với cây cầu Nhật - Kompong Cham đẹp lộng lẫy vừa hoàn tất. Cầu mới được Thủ tướng Hun Sen khánh thành ngày 4 tháng 12 năm 2001. Không phải chỉ có tôi, anh tài xế Sok Thon cũng háo hức muốn được tận mắt thấy vóc dáng cây cầu mới ấy.
Từ Nam Vang khởi hành từ sáng sớm, đường số 7 từ Skoon lên Kompong Cham có lẽ là đoạn đường trải nhựa tốt nhất của Cam Bốt cũng do Nhật Bản làm giúp trước đó. Kompong Cham là giang cảng lớn thứ ba sau Nam Vang và Battambang, với tài nguyên phong phú là các đồn điền cao su, lúa gạo và cây trái. Là vùng đất tốt và phì nhiêu với hai bên đường là mênh mông những thửa lúa vàng và đang tới mùa gặt. Rải rác có vài ba toán gặt lúa bằng tay. Nổi lên nền trời xanh luôn luôn là những thân cây thốt nốt cao thấp như nết đặc thù cảnh đồng quê xứ Chùa Tháp. Bên ruộng lúa thỉnh thoảng lại có xen vào một hồ sen với những tàu lá xanh bông đỏ.
Làng mạc gồm những khu nhà sàn để thích nghi với mùa mưa lũ. Mỗi nhà ít nhất đều có một chiếc lu lớn để chứa nước uống.
Giống như cư dân ĐBSCL, họ vẫn cần những chiếc lu cho dù mùa mưa nước quanh nhà thì lênh láng. Điều mà kỹ sư Nguyễn Hữu Chung, Nhóm Bạn Cửu Long trong Tập San Hội Tiền Giang Hậu Giang đã gọi đó là Nền Văn Minh Những Chiếc Lu rất đặc thù của cư dân sống trong vùng hạ lưu sông Mekong.
Không thể không chú ý, gần như trên cả nước, dọc theo các con lộ ở Siem Reap, ở Nam Vang, suốt dọc đường số 5 tới Kompong Chhnang, đường số 7 tới Kompong Cham, đi đâu cũng thấy bảng hiệu các trụ sở đảng phái_ tuy chỉ hình thức nhưng vẫn là mầm mống của nền dân chủ. Nhiều bảng hiệu nhất vẫn là CPP / Cambodian People’s Party của Hun Sen đảng đang cầm quyền, rồi tới FUNCINPEC / Front Uni National pour un Cambodge Independant Neutre Pacific et Coopératif, đảng đối lập của con trai Sihanouk là Norodom Ranariddh, thản hoặc lắm mới thấy KNP / Khmer Nation Party của Sam Rainsy.
Tài xế Sok Thon cười nói với tôi là không phải chỉ có 3 mà là 32 đảng phái. Tôi hiểu rằng tiền và quyền thế là yếu tố tiên quyết để phát triển cơ sở đảng, giống như ở Mỹ. Những người Cam Bốt mang quốc tịch Mỹ cũng đã mang tiền bạc về thử thời vận ra tranh cử rùm beng theo kiểu Mỹ, chưa có ai thành công. Nhưng đã không có ít những người trẻ mang cả hai quốc tịch Cam Bốt và Mỹ được mời vào giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền do khả năng khoa học kỹ thuật của họ. Đây là bước tiến bộ mạnh dạn của chính quyền Nam Vang khác xa với một nhà nước Việt Nam và Lào còn rất bảo thủ và khép kín.
Thực sự vẫn chưa hề có tự do báo chí ở Cam Bốt với cái giá phải trả là những cuộc thanh toán đẫm máu, ám sát ký giả, ném lựu đạn vào tòa báo của phe đối lập. Như từ bao giờ, đảng cầm quyền thì luôn luôn muốn nắm truyền thông báo chí trong bàn tay sắt của mình. Yêu hay ghét Hun Sen_ nguyên gốc tiểu đoàn trưởng Khmer Đỏ, từng bị gán cho là bù nhìn của Hà Nội, nay ở chức vụ Thủ tướng chứng tỏ chưa hề là tay sai của ai, khiến cho Sihanouk thay vì bất ưng cũng phải nể vì và ông ta vẫn được giới chức ngoại giao nhìn nhận de facto như mẫu người hùng_ strong man, và là yếu tố ổn định của Cam Bốt.
Vươn lên nền trời xanh, vượt lên trên cả những chòm cây thốt nốt là những mái Chùa Tháp, kiến trúc rất khác với những ngôi chùa Việt Nam. Trong một đất nước Cam Bốt mà đạo Phật Tiểu Thừa được coi như quốc giáo, chùa chiền hiện diện khắp nơi, từ vua cho tới dân đều có thời gian vào chùa xuống tóc đi tu trước khi được coi là trưởng thành để bước vào đời sống xã hội. Sihanouk cũng xuống tóc vào chùa; chính Pol Pot giữa thập niên 30 cũng đã vào chùa Wat Botum Vaddei tu trong nhiều tháng.
Nhưng tới thời Khmer Đỏ tình hình hoàn toàn đổi khác. Do cuồng vọng tiến tới một xã hội cộng sản nguyên thủy trong đó mọi người đều phải làm việc thì giới sư sãi bị coi là bọn ăn bám ký sinh, hoàn toàn vô dụng. “Đạo Phật là nguyên nhân suy yếu quốc gia Cam Bốt”. Dân chúng bị cấm phục vụ giới tăng lữ. Pol Pot muốn thiết lập một nhà nước với tinh thần quốc gia cực đoan với dân số phải gia tăng nhanh sao cho đủ sức mạnh không chỉ để tái chiếm ĐBSCL xưa kia vốn là của Cam Bốt mà cả đoạt lại các vùng biên giới phía tây Surin, Buriram từ Thái Lan mà cư dân vẫn còn nói tiếng Khmer. Và hậu quả là chỉ sau 44 tháng dưới chế độ Khmer Đỏ, từ con số 60,000 sư sãi cho tới tháng Giêng 1979 chỉ còn chưa tới 1,000 sống sót để trở lại những ngôi chùa đổ nát được dùng làm kho chứa, nhà giam và cả nơi hành quyết.
Sau Những Năm Số Không đất nước Cam Bốt đang vực dậy từ tro than, đi ra từ những cánh đồng chết và đối với những người Khmer sống sót thì việc trở về dưới bóng từ bi của Đức Phật là bước rũ bỏ cơn ác mộng và tìm được nguồn an ủi cho đời này và cả hy vọng giải thoát cho những kiếp sau.
Phải kiếm chỗ đậu xe xa nơi đầu cầu, dưới ánh nắng trưa gắt, tôi và Sok Thon đi bộ lên cầu. Xe cộ qua lại còn thưa thớt kể cả xe gắn máy và xe đạp. Những chiếc xe chở khách bao giờ cũng tham lam quá tải, người và hàng hóa dồn nén chồng chất, đã thế lại chạy nhanh cán ‘lanes’ ra quá cả giữa cầu. Đứng đây để thấy sự hùng vĩ của con sông Tonle Thom_ tên Khmer của con sông Mekong, với những chuyến đò dọc ngang qua lại. Bên phía thị trấn Kompong Cham là giang cảng với những con tàu sông nơi bến đỗ, để đưa khách về Nam Vang hay lên các tỉnh phía bắc Kratié, Sambor... Cạnh đó là những khóm chợ bên sông, với những cần xé bánh mì baguette vàng rệu là nét văn hóa Pháp được chấp nhận phổ quát ở khắp ba nước Đông Dương. Sang tới gần bên kia cầu, một cảnh tượng khiến tôi khựng lại: vươn lên từ lùm cây xanh là một tầng tháp cao cũ kỹ rêu phong nhưng còn mới là lỗ chỗ các vết đạn đủ cỡ xoáy sâu vào thớ gạch đỏ quạch như những vết thương còn rướm máu chưa lành_ biểu tượng tàn phá của chiến tranh mà người ta muốn giữ lại, tương phản với công trình xây dựng lớn lao trong thời bình.
Trở lại với chiếc xe để tiếp tục cuộc hành trình qua cầu. Sok Thon thì không dấu được nét hân hoan, lần đầu tiên được lăn bánh trên một cây cầu mới bắc ngang sông Mekong của quê hương anh. Tiếp tục con đường số 7 đi về hướng bắc, đoạn đường xấu trở lại _ khấp khểnh với những ổ gà đá răm và bốc mù bụi đỏ. Chọn đường bộ để đi Kratié không chỉ là tự hành xác mà còn rất ư nguy hiểm vì rất thường bị cướp. Phải chờ nhiều năm nữa chờ người Nhật làm giúp đoạn đường phía bắc đi Kratié lên tới tận Stung Cheng gần Nam Lào. Cho tới ngày ấy chỉ có đường sông như một xa lộ nâu là thuận lợi và thật êm ả.