- VII - Hẹn về phương Nam
Sawan là 1 trong nhiều bến tàu nhỏ bé, không có tầm quan trọng hàng hải ở phía nam Thái lan. Lãnh thổ Thái lan có thể được ví với bao tử của loài nhai lại, bên trên phình ra thành 2 cái túi, 1 túi chĩa về phía Diến điện, 1 túi giáp giới Lào-Miên. Còn bên dưới thóp lại, chạy dài như vệt chỉ suốt mấy trăm cây số giữa 2 vịnh Xiêm la và vịnh Băng gan trước khi dính vào Mã lai Á ở phía nam.
Từ thủ đô Vọng các xuống phía nam toàn núi là núi, toàn rừng là rừng, và toàn biển là biển. Hai bên là biển, giữa thì núi và rừng. Trục lộ giao thông đường như không có, ngoại trừ đường xe lửa, hoặc đường biển, hoặc đường hàng không. Sawan tọa lạc bên bìa rừng, cách Surat Thani, là 1 hải cảng bậc trung khoảng 150 cây số về hướng bắc. Muốn từ thủ đô xuống Sawan, phải qua 1 số thị trấn như Rat Buri, Pran Buri, và mỏm đất Kra.
Si Thoeng giải thích về vị trí Sawan cho Văn Bình nghe trên 1 bản đồ Thái khá rộng. Nàng hơi nhăn mặt khi nghe Văn Bình nhắc đến bến tàu Sawan:
-Thú thật với anh, em đã nhiều lần đi về miền nam, nhưng ít khi ghé Sawan vì đó chỉ là 1 bến tàu không đáng kể, được dùng để vận chuyển quặng mỏ. Chắc anh cũng biết miền nam có nhiều mỏ kẽm. Một phần quan trọng của kỹ nghệ khai khoáng ở miền nam hiện nằm trong tay người Tàu. Mà người Tàu thì anh chẳng lạ gì. Họ không quan tâm đến chính trị. Hơn nữa, 1 số Hoa kiều lại nghiêng về ảnh hưởng Bắc kinh. Em đề nghị không nên đi Sawan thì hơn.
Văn Bình nhìn nàng, vẻ kinh ngạc:
-Tại sao?
Nàng gấp bản đồ, cất vào xắc da:
-Vì Sawan ở trong 1 vùng được coi là kém an ninh nhất ở Thái. Tàn quân du kích cộng sản Mã lai bị đánh bật lên phía bắc đang lẩn quẩn trong núi. Mỗi khu mỏ kẽm lại là 1 giang sơn riêng. Nếu Dixon đi Sawan, hắn đã đề phòng chu đáo. Tìm hắn trong lúc này khác nào mò kim đáy biển. Anh không biết hắn ở đâu, song hắn lại có thể biết được đường đi nước bước của anh. Em sợ nhân viên của hắn sẽ phục sẵn dọc đường để ám hại anh.
Văn Bình lắc đầu:
-Vì công việc, anh không sợ chết. Anh phải lên đường ngay.
Si Thoeng thở dài:
-Anh không nói đi Sawan làm gì, nhưng em đoán biết là việc vô cùng quan trọng. Lộ trình qua đèo, xuyên núi rất nhiêu khê. Người Thái chính cống cũng có thể lạc đường, huống hồ là anh. Em khuyên anh không nên đi, song nếu anh cương quyết thì em phải nghe theo.
-Đại để anh muốn gặp Dixon càng sớm càng tốt. Hắn đã xuống du thuyền Bồng lai xuôi về Sawan. Anh hy vọng đến nơi bằng đường bộ trước hắn vài ba giờ đồng hồ. Công tác của anh rất nguy hiểm, anh không thể cho em đi theo.
-Thì anh sẽ lạc đường! Một khi đã vào rừng thì hàng tuần chưa ra nổi. Em sẽ người hướng đạo đắc lực và trung thành của anh.
-Không. Anh chỉ đi 1 mình.
-Anh nên nghe em. Em van anh, có em 1 bên anh sẽ ít gặp khó khăn hơn. Một số bộ lạc thiểu số còn sống bán khai trong rừng rậm miền nam. Tình trạng ngôn ngữ bất đồng sẽ làm anh thiệt hại nặng nề. Vả lại, …
-Cám ơn em. Trong vòng 3 ngày nữa anh sẽ trở lại. Lần này anh sẽ lưu lại Vọng các với em thật lâu.
-Đó là chuyện sau. Bây giờ nhắc đến chuyện về miền nam mà thôi. Em biết 1 lối tắt xuyên rừng. Đi với em, anh có nhiều hy vọng đến trước.
Văn Bình cười tủm tỉm:
-Anh có cảm tưởng em là võ sĩ Sơn đông quảng cáo thuốc dán gần khách sạn Rama.
Mặt Si Thoeng nghiêm lại:
-Em nói thật đấy. Đứng trước Thần Chết mà anh còn đùa được ư!
Văn Bình thẫn thờ rút thuốc Salem ra hút. Sau khi thở 1 hơi khói dày, chàng mới chậm rãi hỏi:
-Anh nhất định không cho em đi theo. Em còn định theo anh nữa không?
Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng:
-Anh là ân nhân của em. Riêng điều này đã đủ cho em xả thân, phương chi anh lại là người yêu của em nữa. Dĩ nhiên anh sẽ trả lời rằng chúng ta là người khác chủng tộc, khác hoàn cảnh. Tình yêu của chúng ta chỉ có thể là tình yêu giang hồ, biết ngày nay, không biết ngày mai. Nhưng anh không yêu em, em vẫn cứ yêu anh. Anh đuổi em, em vẫn 1 mực theo anh vì thưa anh, em không thể dửng dưng trước những biến cố ghê gớm đang chờ anh dọc đường từ đây xuống Sawan.
Văn Bình nâng cằm nàng lên. Nàng hé môi, ngửa cổ đợi chàng hôn. Chàng ôm chặt nàng vào lòng. Tuy nhiên, trong khi nàng say sưa vì nụ hôn cháy bỏng, Văn Bình đã ấn đầu ngón tay vào mê huyệt gần đốt xương sống thứ 8 của nàng.
Huyệt này, theo võ Trung hoa, được gọi là tình miên huyệt. Bị điểm trúng huyệt, nạn nhân sẽ mê man, nửa mê nửa tỉnh, hoàn toàn tách khỏi ngoại cảnh, lâng lâng như kẻ được ân ái với thần Vệ nữ, còn lâng lâng hơn cả hít 1 gờram bạch phiến, thứ nguyên chất. Khoảng 700 năm trước tây lịch, thời gian mà võ thuật mới được khai sinh ở Nhật bản, lúc đó có 1 phái võ Trung hoa thế thiên hành đạo dọc rặng núi Côn lôn ở miền tây bắc nước Tàu. Gần chân núi trong tỉnh Thanh hải, có 1 cái hồ ngày nay là hồ Ô lĩnh, 1 số võ sĩ nổi tiếng của môn phái này lập am cỏ bên bờ hồ đêm ngày luyện công, và phát minh ra 1 phép điểm huyệt kỳ lạ, mệnh danh là miên huyệt pháp. Miên huyệt pháp chỉ chú trọng đến những huyệt trên cơ thể con người làm tiêu tan đau đớn, và tạo ra cảm giác sung sướng xuất thần. Điểm vào huyệt thì người bị chặt tay chân cũng không biết đau. Tùy theo điểm huyệt nhẹ hay mạnh, nạn nhân sẽ hôn mê trong sung sướng hoặc sung sướng đến độ đứt mạch máu mà chết, hoặc tứ chi bất động biến thành tảng đá vô tri giác.
Những cuộc nội chiến dằng dai đẫm máu đã làm chi phái miên huyệt mất dần võ sư để rồi mấy thế kỷ sau Thiên chúa giáng sinh thì miên huyệt pháp bị thất truyền. Không rõ lý do nào miên huyệt pháp lại được du nhập vào nước Nhật vào giữa thế kỷ thứ 17. Hồi ấy, 1 nhà sư Trung hoa, pháp danh Cheng young Ping đến kinh đô Nhật thời đó gọi là E đô, chứ chưa gọi là Đông kinh, tu trong chùa Kokushoji để truyền bá Hán tự và đạo Phật, đồng thời dạy võ thuật. Có lẽ tàn tích của chi pháp Ô lĩnh đã qua Nhật cùng 1 lúc với các tu sĩ như Cheng young Ping. Tuy vậy, miên huyệt pháp chỉ được truyền dạy cho 1 số ít võ sư Nhật. Văn Bình được học là do tình cờ. Phần khác cũng bởi chàng có biệt khiếu về học võ, học đâu nhớ đấy, học 1 biết 10. Lệ thường, khóa sinh ở học hiệu Kodokan –thánh địa của nhu đạo Nhật bản- phải mất 2, hoặc 3 năm là ít mới đoạt được đai đen đệ nhất đẳng. Nếu không có tài võ thiên phú thì 5, 7 năm cũng vị tất tốt nghiệp. Vậy mà Văn Bình chỉ mất vỏn vẹn 1 năm.
Từ nhập môn đến đai đen đệ nhất gồm 6 bậc. Từ bậc 6 đến bậc 1: 3 bậc đầu thì thắt đai trắng, còn 3 bậc sau thì thắt đai nâu (1).
Từ đai đen cấp 1 trở đi –có tất cả 12 cấp trên nguyên tắc. Tổ sư nhu đạo là Jikoro Kano được truy thăng cấp 12, cấp cao nhất, sau ngày từ trần. Từ đai đen đệ nhất đến đai đen đệ lục thì thắt đai đen. Đệ thất thì thắt đai đen hoặc đỏ-trắng. Từ đệ bát lên đệ thập nhất thì thắt đai đỏ. Và đệ thập nhị đẳng thì dùng đai trắng, nghĩa là cùng màu với giây lưng nhập môn, duy khác là lớn gấp đôi.
Ban giảng huấn trường nhu đạo gồm toàn đai đỏ - trắng tỏ ra ngạc nhiên trước những tiến bộ khác thường của võ sinh Văn Bình. Từ đai đen đệ nhất lên đệ nhị, tối thiểu phải mất 6 tháng, và từ đệ nhị lên đệ tam, tối thiểu 1 năm. Song Văn Bình chỉ cần phân nửa thời gian bắt buộc để mang giây lưng đệ tam (2).
Nếu chàng có điều kiện lưu lại Nhật 1 thời gian nữa, chàng có thể thắt lưng đỏ - trắng. Công việc đòi hỏi chàng tiếp tục lên đường. Sau đó, chàng quay lại xứ Phù tang Tam đảo, và trong cuộc khảo thí chớp nhoáng đã được thăng đai đen đệ tứ đẳng.
Hồi học ở Kodokan, Văn Bình được 1 giáo sư để ý. Ông ta trạc 60, nhưng mọi người nói là tuổi thật trên 90. Nhờ tập luyện nhu đạo, và đạt tới trình độ thượng thừa ông đã trẻ đi 30 tuổi. Ông mang thắt lưng đệ thập đẳng, đai đỏ. Mỗi khi Văn Bình tập luyện, ông thường đến coi. Và nhiều lần ông chỉ đứng nhìn mà không nói. Không khen ngợi, cũng không chê bai. Thậm chí cũng không mỉm cười nữa.
Mãi sau Văn Bình mới hiểu. Thì ra ông già muốn thu nạp chàng làm môn đệ. Ông ta theo dõi như vậy trong gần 1 tháng. Một ngày kia, ông nói với Văn Bình:
-Ta nhận thấy cháu đánh atémi lợi hại hơn võ sĩ đệ tứ đẳng rất nhiều tuy cháu mới thăng đệ tam. Tuy nhiên, cháu chưa nắm vững được vị trí các huyệt. Hoặc chỉ mới học được 1 số huyệt thông thường. Sau khi quan sát cháu, ta nhận thấy cháu là võ sĩ có nhiều triển vọng vô địch nên quyết định truyền lại 1 vài phép mọn cho cháu.
Văn Bình theo ông già về ngoại ô thành phố Đông kinh. Chàng lưu lại 2 tuần lễ để học miên huyệt pháp. Kỹ thuật điểm huyệt độc nhất vô nhị này từ núi Côn lôn bên Trung hoa được du nhập vào đất Phù tang, rồi được Nhật hóa, gần như biến thành 1 bộ môn của nhu đạo.
Từ nhiều năm nay, ít khi Văn Bình xử dụng miên huyệt pháp. Nhưng lần này ở Vọng các … Ngón tay của Văn Bình vừa ấn xuống thì Si Thoeng mềm hẳn thân thể. Nàng nhẹ nhàng khuỵu xuống. Nhờ được ông già đệ thập đẳng nhu đạo chỉ bảo cặn kẽ, Văn Bình có thể tính trước được thời gian ngủ mê. Nàng sẽ ngủ thiếp đi 6 giờ đồng hồ, nghĩa là đến trưa nàng mới tỉnh dậy. Khi ấy Văn Bình đã đi xa. Nàng sẽ không mệt mỏi, đắng miệng, nhức đầu, hoa mặt, rã rời tứ chi như cảm giác sau khi tỉnh dậy của những nạn nhân bị đánh atémi. Vì đây là loại atémi gây ra khoái lạc. Nàng sẽ tỉnh lại trong sự phấn chấn. Nàng sẽ yêu đời như xưa.
Và nàng sẽ quên được chàng.
Văn Bình bế nàng đặt ngay ngắn lên giường, rủ mền đắp đến cổ. Trong giấc ngủ, nàng hơi hé miệng, dường nhưng mỉm cười, làm nũng đợi chàng hôn. Chàng hôn thoảng vào cặp môi khả ái, đoạn tắt đèn, khóa trái cửa, vứt chìa khóa qua cửa sổ vào phòng –căn phòng riêng của Si Thoeng trên đường Sathorn- rồi ra đường.
Lê Diệp chờ chàng trong xe díp. Đúng hơn đây là xe díp được chế tạo theo kiểu Amphicar, có thể chạy trên bộ và lội dưới nước. Thấy bạn, Lê Diệp giơ tay vẫy. Văn Bình trèo lên, ngồi cạnh Lê Diệp. Chiếc díp phóng nhanh về phía sông đào Klong Hualam Pong.
Lê Diệp nói:
-Ngay sau khi anh gọi điện thoại, tôi đã liên quan khẩn cấp với Sàigòn để xin chỉ thị. Ông Hoàng đáp là chúng ta không nên yêu cầu tình báo địa phương yểm trợ. Nghĩa là kế hoạch sắp sẵn từ trước vẫn được giữ lại, không thay đổi, mặc dầu Dixon đã đi Sawan.
Văn Bình hỏi:
-Ông Hoàng chấp thuận cho tôi đi Sawan không?
-Chấp thuận. Về câu hỏi liên quan đến cô gái mang tên Si Thoeng, ông Hoàng chưa tìm được chi tiết nào khả dĩ giúp anh, nên cho phép anh tùy nghi định đoạt.
-Còn về Akita?
-Gấp quá nên chưa thể trả lời. Tuy nhiên, ông Hoàng nói là nếu đúng như anh tiên đoán và linh tính thì sự việc sẽ xảy ra theo chiều hướng khác, và triển vọng thành công sẽ gia tăng.
-Tôi cũng nghĩ như vậy. Còn anh, anh cùng đi với tôi hay phải ở lại?
-Ở lại. Vì tôi phải làm gạch nối giữa anh và Sàigòn. Trong xe, tôi đã để sẵn điện đài cho anh. Khi cần, anh hãy liên lạc với tôi. Mặt khác, vì đường về miền nam gồm toàn rừng núi hiểm trở nên tôi đã xoay cho anh chiếc xe díp đặc biệt này của hãng Amphicar. Trên bộ, tốc độ của nó là 120 cây số, hoặc nhiều hơn nữa. Dưới nước, nó có thể chạy được 15 cây số-giờ (3).
-Xe « cầm nhầm », phải không?
-Không. Chuyến này tôi cố làm ăn lương thiện. Để theo dõi tình hình kiều bào ở các tỉnh đông bắc bị cộng sản trà trộn, Sở đã mở 1 hãng chuyên chở ở đây. Đường bộ, đường thủy đủ cả. Tôi mò đến văn phòng lão giám đốc trình giấy tờ của ông Hoàng để mượn xe. Hắn dẫn tôi khắp nơi, giới thiệu đủ kiểu xe cho tôi lựa chọn. Thấy cái Amphicar này thích hợp với đường sá miền nam, nên tôi đòi lấy. Hắn tự tay coi lại máy móc, bơm mỡ và dầu nhớt.
-Anh đánh thức hắn giữa giấc ngủ?
-Dĩ nhiên. Hắn có tổ ấm ngay cạnh văn phòng. Hắn đang độc thân như anh vậy.
-Hừ, anh không độc thân sao?
-Nhưng lại khác anh. Tôi độc thân là độc thân, chứ không mỗi đêm mỗi ngủ với đàn bà lạ như anh. Lão tổng giám đốc hãng chuyên chở đang tò tí te với cô thư ký thì tôi lò dò tới.
-Anh chuyên môn phá đám những giây phút mê ly của người khác. Cô thư ký đẹp không?
-Biết trước anh hỏi câu này, tôi đã quan sát thật tường tận. Nàng là người Thái song nước da không đến nỗi ngăm ngăm. Khó tính như anh cũng phải bằng lòng. Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng là hắn ghen kinh khủng.
Chiếc Amphicar đã ra đến ngoại ô Vọng các. Lê Diệp bớt ga xăng rồi lái vào lề:
-Hết giờ nói chuyện phiếm rồi. Tôi quay lại đây.
Văn Bình hỏi bạn:
-Anh về bằng gì?
Lê Diệp nhún vai:
-Trời gần sáng. Chỉ độ 30 phút nữa là xe cộ tấp nập. Vả lại, tôi cũng muốn bách bộ 1 lúc cho mát. Mấy hôm trước ở Sàigòn, tôi bị ông Hoàng quần suốt ngày đêm, có khi liền tù tì 24 trên 24. Thậm chí không có cả 15 phút để nhai miếng xăng uých nữa.
-Việc gì bận thế?
-Ôi dào, thôi thì đủ việc. Nguyên Hương bị cúm, nằm liệt giường, trăm công ngàn việc đều trút lên đầu tôi.
-Còn Triệu Dung?
-Ông ấy sang Đông kinh nghỉ phép. Văn phòng vắng ngắt như chùa bà Đanh. Cô Quỳnh Loan thì phải huấn luyện cấp tốc cho 1 đám con gái mới đầu đơn gia nhập Sở.
-Ông cụ vẫn bình thường chứ?
-Vẫn. có lẽ còn khỏe hơn trước nữa kia.
-Này, …
Văn Bình gọi giật Lê Diệp. Chàng định hỏi bạn về sức khỏe Văn Hoàng, đứa con trai kháu khỉnh và nghịch ngợm của chàng với Quỳnh Loan, nữ quái đa tình của Sở Mật Vụ. Song chàng lại lặng thinh. Dầu sao thì Văn Hoàng cũng đã ra đời, chàng đã có con, và có trách nhiệm đối với nó. Đành rằng nó được Sở nuôi nấng, nhưng còn có những nhu cầu mà đạo binh y sĩ và điều dưỡng lỗi lạc với Sở không thể cung cấp nổi: nhu cầu tinh thần, nhu cầu của tình phụ tử, … Đã lâu lắm Văn Bình chúi mũi vào công tác hiểm nghèo, hoặc hưởng thụ hoan lạc, nên không về thăm con. Đột nhiên, ruột gan chàng nóng như lửa đốt. Chàng muốn mọc cánh bay ngay về quê hương, bồng bé Văn Hoàng vào lòng. Lê Diệp đọc được ý nghĩ thầm kín và lắt léo của bạn. Chàng nói giọng chậm rãi:
-Anh muốn hỏi thăm tin tức của cháu nhỏ, phải không? Anh yên tâm, nó đã biết lựa đồ chơi. Nó đã đốt của ông tổng giám đốc không biết bao nhiêu giấy bạc nữa.
-Chữ « đốt » của anh mang nghĩa đen hay nghĩa bóng?
-Cả hai.
-Nghĩa là nó khoái đốt giấy bạc làm đuốc như công tử Bạc liêu ngày nọ?
-Cũng gần như thế. Ông cụ xếp 1 hàng giấy bạc trước mặt nó. Nó nhìn 1 phút rồi chọn tờ 500. Mỗi khi ông cụ lại thăm, nó khóc ré lên, đòi bế. Được bế rồi, nó đòi quẹt lửa cho nó ngắm nghía, và đốt vài ba tờ bạc 500.
-Trời đất ơi!
-Nghĩa là là cháu Văn Hoàng cũng ngỗ nghịch không kém bố Văn Bình của nó. Ông tổng giám đốc kể lại là hồi anh còn nhỏ xíu, anh bóp bẹp mỗi ngày hàng thúng cam quít khiến song thân anh muốn điên cái đầu. Thú thật tôi không ngờ anh lại thích bóp bẹp cam quít như ông Hoài văn hầu Trần quốc Toản xưa kia …
Văn Bình cười nụ:
-Ông Hoàng nhớ dai ghê! Phải, hồi còn bé, tôi chỉ khoái chơi cam thôi. Nhưng tôi không giống ông Trần quốc Toản vì khi bóp bẹp trái cam, ông ta còn thiếu niên. Vả lại, ông tức giận vì quốc sự nên có cử chỉ này. Còn tôi, vì bàn tay tôi ngứa ngáy suốt ngày, để yên 1 lát là không sao chịu được. Chung quy cũng do mẹ tôi có 1 vườn cam và quít ngọt kinh khủng. Cam thì Xã đoài, Bố hạ, thứ nào cũng trồng hơn 100 cây. Còn quít thì cũng đủ loại quít giấy, quít đào, hàng năm cứ đến mùa là ngày nào cũng hái vào 5, 7 thúng lớn.
Năm ấy tôi mới lên 2, hoặc lên 3 gì đó. Dường như tôi làm nũng nên mẹ tôi ấn cho tôi 1 rổ quít để tung chơi cho đỡ buồn. Không ngờ vớ được rổ quít tôi liền lấy từng trái, đặt lên đất và dẫm nát. Mẹ tôi vốn nuông con nên không nói gì cả. Vả lại, nói cũng vô ích vì tôi còn quá nhỏ. Mẹ tôi đem chuyện bàn với cha tôi, cha tôi cười và đáp hôm sau đừng đưa quít nữa, mà là đưa cam. Con nít lên 2 tuổi mà dẫm bẹp được trái quít đã là 1 hiện tượng lạ lùng, và cha tôi nghĩ rằng tôi không thể nào tạo ra hiện tượng lạ lùng hơn nữa với trái cam lớn gấp đôi. Vậy anh biết tôi xử sự ra sao không
-Anh lại dẫm bẹp rổ cam!
-Đâu có dễ dàng như anh tưởng. Anh đừng quên tôi chỉ là đứa trẻ còn bú sữa, cất tiếng còn bập bẹ, tay chân bé tí còn yếu hơn xương gà, 2 bàn tay vẫn chưa ôm được quả cam chứ nói là bóp bẹp nó nữa.
-Vậy anh làm cách nào?
-Cha tôi thâm trầm lắm. Ông dặn mẹ tôi đưa cam Xã đoài cho tôi chơi. Cam Xã đoài là cam chanh, ruột cứng, vỏ lại dày, không như cam Bố hạ, hoặc quít vỏ mỏng. Bản tâm của ông là ngăn ngừa tôi hư hỏng. Nhưng tôi nghĩ ra 1 cách: ngồi chận lên trên. Thoạt đầu trái cam hất tôi ngã, nhưng lâu dần nó bị đè bẹp. Ngày thứ nhất, tôi phá 1 trái. Ngày thứ hai, cũng vậy. Dần dà, tôi bóp bằng tay, mỗi lúc bóp 1 chút. Năm lên 3 tuổi, tôi đã khét tiếng trong vùng là tiểu vương bóp cam.
-Thảo nào! Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Hồi nhỏ, anh phá hết vườn cam của 2 cụ thì giờ đây con anh lại đốt hết giấy bạc của anh. Tuy vậy, anh cũng nên hãnh diện đi: thằng Văn Hoàng không giống con nít cùng lứa, nó chỉ thích chơi võ khí. Ông tổng giám đốc mua cho nó 1 nhà đồ chơi, toàn là súng lục, súng trường, dao, kiếm.
Lê Diệp co chân nhảy xuống vệ cỏ. Chàng sếu vườn muốn kết thúc câu chuyện tâm tình. Hơn ai hết, chàng đã biết Văn Bình là con người giàu tình cảm. Nhiều lần đa mang mỹ nhân, điệp viên Z.28 đã làm hỏng công việc khi đã tới đích. Lần này nhớ đến đứa con trai đầu lòng, có thể điệp viên Z.28 sẽ bị Dixon đánh bại dễ dàng.
Trong chớp mắt, chàng sếu vườn Lê Diệp đã khuất vào bóng tối lúc trời sắp rạng đông.
Văn Bình thở dài, tống hết ga xăng phóng về phía nam.
***
*****
*******
Từ Vọng các đến Phet Buri, con đường dài trên dưới 100 cây số. Chiếc Amphicar phóng hết tốc lực mặc dầu đường trải đá có nhiều ổ gà. Loại xe này thường thích hợp với địa hình hiểm trở. Văn Bình vượt qua Phet Buri thì mặt trời đã đỏ rực ở phương đông. Qua Phet Buri, lộ tình bắt đầu khó khăn. Con đường về phía nam đang làm dở dang, nhiều đoạn còn gồ ghề, xiên xẹo. Văn Bình phải giảm tốc độ xuống 40 cây số 1 giờ.
Bên phải là rặng núi chạy dài, đỉnh cao ngất tưởng như thấu tới mây xanh. Hơn ai hết, Văn Bình đã biết bề cao của rặng trường sơn chỉ là loạn ảnh. Dưới ánh mặt trời buổi sáng ở xứ nóng, núi non thường có vẻ cao hơn, biển có vẻ rộng hơn. Bên trái chàng là biển. Văn Bình vốn thích lái xe dọc bờ biển. Cảnh trời nước bao la 1 bên xa lộ tạo ra cảm giác lâng lâng thoải mái nên các kỹ sư kiều lộ tây phương tìm mọi cách để xẻ đường song song với biển. Mỗi khi có dịp qua Âu Mỹ và có thời giờ rỗi rãi, chàng không quên thót lên xe –dĩ nhiên phải là xe đua ngốn đường trên 200 cây số giờ- phóng như bay trên xa lộ tráng nhựa bê tông dọc bờ biển để tận hưởng làn gió mằn mặn khỏe khoắn mùa hạ thì mát rợi, mùa đông thì ấm áp.
Ở trong nước, có lần chàng bốc đồng lên sân bay Tân sơn nhất, năn nỉ với mấy ông bạn trong không đoàn để xin 1 chỗ ngồi trên phi cơ ra miền Trung để được lái xe … nhìn biển. Phi cơ thương mãi thường có hành khách đầy đủ, và cất cánh theo giờ giấc nhất định nên Văn Bình chỉ có thể trèo lên phi cơ quân sự. Anh em thân ít khi bỏ rơi chàng mình trên sân bay. Vả lại, điệp viên Văn Bình là người nổi tiếng, ai cũng mong được hân hạnh quen chàng. Hơn nữa, chàng là đại tá hiện dịch. Trong quân đội, leo được lên đến cấp 3 bông mai bạc không phải là dễ. Người ta hỏi chàng đòi ra Trung cấp tốc để làm gì thì chàng giơ 2 cánh tay lên trời:
-Để làm gì hả? Để chạy xe dọc bờ biển cho đỡ nhớ.
Ai cũng tưởng chàng nói đùa để giữ bí mật công tác. Bí mật là nhiệm vụ hàng đầu của nghề điệp báo. Bởi vậy, khi nghe chàng đáp, mọi người chỉ nhún vai, cười mỉm và không phê bình gì cả.
Cho đến 1 buổi tối trăng sáng đầy trời.
Đêm trăng rằm vẫn là đêm của tuổi trẻ yêu đương. Nằm khoèo ở Sàigòn buồn thối ruột, Văn Bình bèn thót lên chuyến phi cơ cất cánh sớm nhất để ra Đà nẵng. Đến nơi thì quá nửa đêm. Không có xe xì gà, chàng mượn tạm chiếc DS-21. Với loại xe chạy nhanh này, chàng tha hồ ngao du trên đường đèo Đà nẵng - Huế. Nhưng tới khi rồ máy xe, chàng mới nhớ ra là ban đêm đường đèo bị phong tỏa. Chàng xin rã bọt mép mà nhân viên hữu trách vẫn không chấp nhận. Sáng sớm hôm sau chàng mới được lên đường. Như kẻ đói cả tháng, chàng dừng xe ở đoạn đèo Hải vân cao nhất, hiểm trở nhất, ngồi trên mỏm đá thẫn thờ ngắm biển, quên cả giờ về. Tưởng chàng bị phục kích, nhân viên của Sở ở Đà nẵng tức tốc đi tìm, và bắt gặp chàng ngồi 1 mình giữa cảnh mênh mông trên trời dưới nước.
Sau chuyến ngắm biển kỳ dị ấy, Văn Bình bị mọi người cho là điên. Bạn bè nói là do hoạt động hiểm nghèo làm thần kinh chàng căng thẳng nên chàng sinh ra chứng bệnh dở hơi. Trên thế giới, trong cơ quan CIA của Hoa kỳ, cũng như GRU của Nga sô, đã có hàng chục, hàng trăm nhân viên mắc bệnh dở hơi như Văn Bình. Theo 1 bản thống kê hữu quyền, tỉ lệ mắc bệnh dở hơi trong CIA lên tới 15 phần trăm. Bản thống kê này thuật lại tính bốc đồng của 1 số điệp viên hành động, đang đêm, hàn thử biểu để bên ngoài hạ xuống dưới không độ thì tung mền ngồi dậy, vớ xì líp ra hồ bơi, hoặc lái xe vào rừng chơi, hoặc ra ga xe hỏa, chờ 1 chuyến tàu không biết mấy giờ sẽ đến, và không biết đi đâu nữa. Lại có những người lúc trời nóng như thiêu như đốt thì hối hả lôi đồ len, đồ nỉ dày cộm ra trưng diện, hoặc đang ăn lại bỏ muỗng xuống bàn … để đi ngủ.
Bệnh dở hơi của Văn Bình được báo cáo lên ông tổng giám đốc. Trước khi hồ sơ được trình xét, Văn Bình phải vào bệnh xá của Sở để khám bệnh. Cuộc chẩn bệnh này rất quan trọng, có thể định đoạt tương lai của chàng. Tùy theo kết luận của y sỉ đoàn, chàng sẽ được tiếp tục hoạt động hoặc bị đưa về văn phòng, về hưu non, hoặc ít nhất là ngồi chơi xơi nước cho đến khi mắt mờ, chân chậm. Sau 2 tuần lễ khám nghiệm, Văn Bình được y sĩ đoàn coi là vô bệnh.
Nhưng ngày hôm ấy, chàng lại mắc bệnh dở hơi. Chàng gọi điện thoại cho nhà nhập cảng rượu mạnh danh tiếng nhất thủ đô, bảo mang lại ngay phòng của Mộng Kiều tất cả những két sâm banh Mum còn để trong kho. Công nhân của hãng nhập cảng hì hục chở nguyên 1 xe sâm banh đến và khuân lên lầu. Mộng Kiều tưởng chàng mua sâm banh để mở 1 cuộc tiếp tân nên không để ý. Nàng vào Chợ Lớn mua đồ nhậu cho Văn Bình, dặn chàng ở nhà đợi.
Khi nàng về thì hỡi ôi.
Hỡi ôi, hàng chục két sâm banh đắt tiền kinh khủng đã thi nhau đổ vào bồn tắm. Nàng về giữa lúc điệp viên Z.28 đang say sưa ngồi trên ghế mở nút chai sâm banh kêu « bụp » 1 tiếng êm tai rồi đổ hết vào bồn tắm. Hỏi ra thì mới biết chàng nhớ âm thanh nổ bụp, bụp khả ái của nút chai sâm banh mỗi khi khui rượu.
Chỉ vì mối tình tương tư lạ lùng ấy mà Văn Bình xài trong nửa giờ hết 200.000 đồng.
Ông tổng giám đốc chỉ hơi nhăn mặt khi tờ báo cáo về bệnh dở hơi khui sâm banh mà không uống được đặt trên bàn giấy sáng hôm sau. Triệu Dung và Nguyên Hương đề nghị 1 cuộc khám bệnh lại, với lời trình như sau:
« Chúng tôi đồng ý rằng cho rằng điệp viên Z.28 đã mắc bệnh bấn loạn thần kinh, do hoạt động hiểm nghèo gây ra. Nếu để như vậy mà không tìm phương điều trị thích ứng thì y có thể thành điên nặng. Vì cảm tình cá nhân với y, và cũng vì y là điệp viên tài ba đã gánh vác nhiều công tác nguy hiểm, nặng nề nhất của Sở từ nhiều năm nay, đáng được thưởng công, chúng tôi trân trọng thỉnh cầu ông tổng giám đốc cho khám bệnh lại với 1 thành phần y sĩ khác. Hiện có 1 đoàn y sĩ thần kinh của cơ quan không gian Hoa kỳ NASA đang tổ chức khám bệnh tại căn cứ Clark, Phi luật tân. Vậy đề nghị đưa Văn Bình qua Clark. »
Ông Hoàng bút phê vào tờ báo cáo như sau:
« Theo tôi, chỉ khi nào đại tá Văn Bình mất chứng bệnh dở hơi này thì vấn đề khám bệnh, và chữa bệnh mới cần được đặt ra.
Bệnh dở hơi là do thần kinh hệ thiếu quân bình mà ra. Tôi nhận thấy Văn Bình chỉ dở hơi khi y được nghỉ phép, có quá nhiều thời giờ nhàn hạ, hoặc khi y phải đương đầu với 1 đối phương tầm thường về mưu lược, và về võ thuật, nhất là về võ thuật. Y dở hơi chẳng có gì đáng ngại. Y dở hơi vì chưa gặp được đối thủ cân xứng đó thôi. Y dở hơi vì tay chân ngứa ngáy, không được xông xáo đó thôi.
Phương pháp ngừa bệnh dở hơi, theo tôi, là tiếp tục cắt cử đại tá Văn Bình vào những công tác nguy hiểm.
Hồ sơ về bệnh dở hơi trên đây được xếp lại, kể từ ngày hôm nay. Tôi khẩn khoản yêu cầu văn phòng đừng nhắc lại nữa. »
Hồ sơ được xếp xó theo lệnh đặc biệt của ông tổng giám đốc. Kể ra, ông Hoàng nói đúng. Ông quả có con mắt tinh đời, nhìn thấu ruột gan tri kỷ của Z.28. Chàng dở hơi vì không chịu nổi nếp sống bằng phẳng, rỗi rãi. Chàng bệnh dở hơi vì những kẻ mang danh là đại võ sĩ chỉ đấu với chàng được vài ba hiệp là bị đánh lăn chiêng.
Hôm nay, phóng chiếc Amphicar trên con đường ngoằn ngoèo sát bờ biển miền nam Thái lan, Văn Bình sực nhớ bệnh dở hơi bất trị của mình, và phá lên cười. Đồng quê Thái lan cũng không khác đồng quê Việt Nam là bao. Hai bên đường, Văn Bình cũng thấy ruộng lúa, thấy những con sông nông giang nhỏ xíu và hệ thống dẫn thủy nhập điền vào ruộng, giống như ở trung châu sông Cửu long hoặc ở trung châu sông Hồng. Nhà cửa cũng tồi tàn, xiêu vẹo, tường trát bùn, mái lợp rơm rạ. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ có 1 số nhà sàn, như ở thượng du nước nhà.
Chiếc Amphicar vượt qua những đống rạ lớn sừng sững giữa cánh đồng trống vừa gặt hái. Một cái xe bò ì ạch từ dưới ruộng trèo lên mặt lộ do con trâu sừng cong veo, da đen sạm kéo, mũi thở phì phì vì nhọc mệt. Nông gia ngồi trên xe bỏm bẻm nhai trầu.
Từ Phet Buri tới Surat Tham, đường dài gần 400 cây số. Đi từ Phet Buri đến Sawan chỉ có 200 đến 250 cây số là cùng. Tuy nhiên, 100 cây số trên con đường gập ghềnh, chỗ lên, chỗ xuống, chỗ có, chỗ không này bằng 1.000 cây số trên xa lộ tối tân mà chàng đã có dịp lái xe ở phía bắc Thái lan. Vả lại, muốn đi thì phải có đường xá liên tục, chứ không thể là những lối mòn rời rạc, ngoắt ngoéo như lộ trình Sawan.
Mặt trời mỗi lúc 1 lên cao.
Bồ hôi chảy đầm đìa người Văn Bình. Khi ấy, chàng mới cảm thấy khờ khạo. Chiếc Amphicar tiêu thụ 100 cây số bao nhiêu lít xăng? Thùng xăng của nó còn bao nhiêu? Chàng quên hỏi Lê Diệp những điều tầm thường mà lại vô cùng quan trọng. Hết xăng, chàng chỉ còn nước ăn vạ dọc đường vì chàng không tin là có trạm xăng.
Chàng lẩm bầm:
-Giá mình cho nàng đi theo …
Nàng là Si Thoeng, cô gái Xiêm đa tình. Giờ này, chắc nàng còn đang thiêm thiếp giấc nồng tại Vọng các dưới áp lực của đòn miên huyệt. Dầu sao nàng cũng là người Thái, nàng có thể hỏi thăm dọc đường. Nàng lại biết con đường xuyên rừng ngắn nhất tới Sawan. Vậy mà chàng lại bỏ rơi nàng. Tại sao? Chính chàng cũng không biết nữa. Việc chàng điểm huyệt cho nàng bất tỉnh đã diễn ra 1 cách tự nhiên, thần trí chàng không kịp suy nghĩ.
Khi nắng bắt đầu chiếu xiên vào trong xe, Văn Bình đến Pran Buri, 1 thị trấn nhỏ dọc bờ biển, cách Phet Buri gần 100 cây số. Nghĩa là chàng đã vượt được gần nửa đường. Chỉ còn 100, 150 cây số là tới đích. Song đó lại là đoạn đường khó đi nhất. Vì trên thực tế, hệ thống đường bộ chỉ đến Pran Buri là hết. Muốn đi sâu xuống cực nam, phải dùng xe hỏa. Nhưng xe hỏa ở đâu?
Từ Pran Buri trở đi, toàn là đồng cỏ pha sình. Cảnh vật chung quanh nhuộm màu tiêu điều, vắng lặng. Văn Bình gài số 1 cho chiếc Amphicar bò từ từ trên con đường nhỏ trơn trượt giữa 2 cánh đồng sình lầy trải rộng đến tận chân trời xa tắp. Vừa lái xe, chàng vừa thầm khấn cho thùng xăng còn đủ. Và nhất là cho động cơ chiếc Amphicar không bị trục trặc. Cũng may không tai nạn đáng tiếc nào xảy ra. Hết cánh đồng sình lầy là rừng. Rừng già trùng trùng điệp điệp. Rừng già chắn ngang sừng sững như cấm loài người bén mảng tới gần chân núi Bilauk-taung chạy dọc bên phía tây từ bắc xuống nam.
Văn Bình reo lên 1 tiếng nhỏ.
Phía trước, chàng thấy ánh thép lấp lánh dưới nắng trưa nung đốt. Đó là đường xe hỏa. Cách bìa rừng 1 quãng ngắn, chàng đậu xe lại. Theo kinh nghiệm, đường xe hỏa thường chạy qua những vùng có dân cư. Chàng không hy vọng gặp làng mạc trù mật, nhưng ít ra cũng có thể gặp tiều phu vào rừng đốn củi. Chàng sẽ ăn 1 vài miếng cho khỏi xót bụng. Rồi sẽ tùy liệu đáp tàu xuống Sawan. Mong ước của Văn Bình đã thành sự thật. Chàng nghe tiếng lộp cộp mỗi lúc 1 rõ dần. Rồi 1 chiếc xe bò chở gỗ do 3 con trâu to lớn kéo từ trong rừng ra. Trên xe có 2 người đàn ông cởi trần, làn da ngăm ngăm, đầu quấn khăn rằn ri che nắng.
Vốn liếng Thái ngữ của chàng không đến nỗi nghèo nàn nên chàng bắt chuyện dễ dàng ngay khi xe bò đến gần chiếc Amphicar:
-Chào 2 ông.
Vừa chào, chàng vừa quan sát tướng mạo 2 người Thái. Chàng hơi ngại ngùng vì gương mặt họ không có vẻ lương thiện. Mắt họ đều xếch ngược, lưỡng quyền cao, lộ cục xương nhọn, yết hầu cũng nhô ra, miệng nhỏ mím chặt, ngón tay cong queo và sần sùi, vết thẹo đầy ngực và lưng, cánh tay đều xâm tràm gớm ghiếc. Tuy nhiên, chàng không để lộ sự lo lắng ra nét mặt. Có lẽ vì phong thổ, người Thái ở thôn dã thường có tướng mạo hung hăng, nhưng thật ra họ hiếu khách đáo để. Vả lại, dầu chàng ngại ngùng cũng đã muộn. Chàng đã chào họ. Trên con đường mòn vắng vẻ, ngoài chàng ra chỉ có họ.
Một lý do khác đã giúp chàng bình tĩnh như không có việc gì xảy ra: đó là sự tự tín. Nếu họ trở mặt, họ cũng không hy vọng triệt hạ được chàng. Hai người, chứ đến 20 người như họ chỉ là mồi ngon cho chàng ăn gỏi.
Người cất tiếng chào lại « không dám, chào ông » trạc 40, lớn hơn người ngồi bên ít nhất 10 tuổi. Hắn kéo giây thừng cho đàn trâu dừng lại, rồi hỏi:
-Ông muốn hỏi gì?
Văn Bình đáp:
-Tôi lái xe đi Sawan, đến đây thì hết đường, thành ra lạc vào rừng. Phiền 2 ông chỉ đường cho tôi.
Gã trẻ cười hồn nhiên:
-Đi Sawan hả? Còn xa lắm. Vả lại, đi bằng xe hơi không được.
-Vậy đi bằng phương tiện gì?
-Bằng tàu hỏa, hoặc bằng ghe thuyền. Nếu ông muốn, chúng tôi sẽ giúp.
Văn Bình liếm mép. Gã tiều phu già nhìn thấy và hỏi:
-Ông khát nước không?
Chàng gật đầu.
Hai người tiều phu ngồi xích sang bên. Gã trẻ vẫy tay ra hiệu cho chàng lên:
-Nhà chúng tôi ở gần đây, đi hết quãng đường này, quẹo sang trái là đến. Xe hơi chỉ có thể đi lên miền bắc được thôi. Chờ thuyền lớn đi qua, tôi sẽ nhờ họ chở cả xe luôn thể.
Không đợi hắn mời lần thứ hai, Văn Bình trèo lên xe bò. Chiếc xe gỗ cũ kỹ, sọc sạch, lăn bánh lọc cọc trên đường mòn đất sét đỏ, bị nắng rút khô như đá. Gã tiều phu già mời chàng ăn trầu, chàng lắc đầu từ chối.
Hai bên đường mòn chật chội chỉ vừa xe bò đi lọt là những cây gỗ tếch thẳng tắp, thân tròn lẳn, 1 người lớn ôm mới xuể. Như gã tiều phu trẻ nói, xe chạy được hơn 100 thước thì đến đoạn đường rẽ. Khi xe bắt đầu rẽ, Văn Bình nhìn thấy 1 giãy nhà sàn khật khưỡng gần chân núi đá đen sì. Nơi đây, suốt ngày không có nắng vì sau lưng là núi, bên trên là bóng râm xum xuê của nhiều cây đa khổng lồ xòe rộng như viên đình tròn trịa của tòa nhà quốc hội Mỹ.
Gã tiều phu trẻ thét lớn cho đàn trâu đứng khựng lại. Hắn nhảy xuống trước, rồi ra dấu cho Văn Bình. Chàng lẳng lặng theo hắn lên nhà sàn, trong khi gã tiều phu già đánh xe vào hốc đá, tháo giây buộc cho trâu nghỉ.
Nhà sàn trống trơn, không có gì hết. Trừ ở góc 1 cái rương gỗ, cáu bồ hôi và mạng nhện ngang dọc. Những ô mạng nhện đen trắng nhằng nhịt khắp nơi chứng tỏ căn nhà không có người ở từ lâu. Văn Bình toan hỏi thì gã tiều phu già đã từ bên dưới khệnh khạng đi lên, tay cầm chai rượu. Hắn hỏi chàng:
-Ông dùng được rượu nếp không?
Ngoài huýt ky ra, Văn Bình không ưa rượu nào khác. Nhưng khi cần, chàng vẫn uống được mọi thứ. Riêng rượu nếp của dân Thượng có duyên thầm với chàng. Rượu nếp của người Thái miền nam đã nổi tiếng thơm ngon. Nhân tiện chàng cũng thưởng thức vài ba chén cho thần khẩu khỏi kêu ca. Chàng bèn gật đầu ưng thuận.
Gã trẻ lấy trong rương ra bộ đồ uống bằng gỗ tiện. Chắc là gỗ mít lâu năm, vách chén đã lên nước bóng nhẫy. Văn Bình bắt chước 2 người tiều phu ngồi xếp bằng tròn trên sàn, tươi cười đỡ lấy chén rượu. Mùi thơm nếp cẩm bay ra ngạt mũi.
Từ đêm đến giờ chưa ghé thăm thần Lưu linh nên mùi rượu thơm quyến rũ này làm chàng rệu nước miếng. Gã tiều phu già gật gù:
-Ngon lắm, ông dùng thử sẽ biết. Nhưng say lắm đấy, ông không nên uống nhiều. Tôi dặn trẻ sửa soạn món nhậu. Bây giờ ta chỉ nhắm tạm 1 chén, đợi chúng nó nướng gà chín rồi nhắm 1 thể cho vui. Ông đừng ngại, ngày nào chúng tôi cũng uống rượu với gà nướng. Gạo nếp ở đây rất rẻ, gà cũng rẻ mạt. Dân tộc chúng tôi thích đãi khách. Nào mời ông …
Văn Bình đặt đầu lưỡi vào chén rượu. Chàng cảm thấy cay cay. Chàng liền ngửa cổ nốc cạn 1 hơi. Gã tiều phu già mở rộng mắt, kinh ngạc:
-Ái chà, ông đừng uống như vậy. Rượu này được ngâm rễ cây thuốc nên làm ruột gan cồn cào. Ông khoan uống, đợi gà nướng nhé! À, đã có gà rồi đấy. Nào, mời ông …
Gã trẻ đặt trước mặt Văn Bình con gà mỡ vàng rộm, vừa nướng chín, còn bốc khói nghi ngút. Ngoài thói xấu hoa nguyệt, điệp viên Z.28 còn có thói xấu ẩm thực. Giá được vò rượu thượng hạng và mâm đồ nhậu thịnh soạn thì bom khinh khí nổ trên đầu chàng cũng phớt tỉnh như không.
Theo tính thận trọng thông thường, Văn Bình phải đặt câu hỏi về truyền thống đãi khách quá nồng hậu của 2 gã tiều phu mặt mày dữ tợn. Nhưng mùi rượu cẩm quá thơm tho, mùi gà nướng than quá ngon béo nên chàng quên bẵng nguyên tắc đề phòng sơ đẳng. Mà quên là phải vì con gà nướng của tiều phu miền nam xứ Thái thật ngon!
Văn Bình vốn thích món gà. Mỗi lần nhảy dù xuống Hòa bình, hoặc thượng du Thanh hóa, chàng đều mầy mò kỳ được 1 con gà đặc biệt, nướng theo phương pháp đặc biệt của bộ lạc Mường. Mỗi lần ghé Hồng kông hoặc Đài bắc, chàng đều thưởng thức món gà bọc bùn nướng than, tục gọi là « gà cái bang, gà hành khất » (beggar’s chicken). Không món gà nào trên thế giới mà Văn Bình không nếm qua. Kỳ khu như gà giò ở hải cảng Hăm bua, Đức quốc, được nuôi bằng chất bột riêng trộn sữa, và được mổ làm thịt khi mới lớn bằng chim bồ câu, chàng cũng tìm đến tận nơi để nhậu nhẹt. Gà ở Viễn đông thường được nấu với mộc nhĩ, miến, ớt xanh và 1 số gia vị quen thuộc khác. Nhưng ở xứ Tây ban nha, nổi tiếng hoàn vũ về những trận đấu bò rừng, gà lại được rán với củ nghệ. Gà trên đất Pháp từng làm khách nhậu quốc tế mê say, như gà trên bờ sông Loire, khi cắt tiết được hãm với dấm chua, và nấu với rượu vang đỏ. Gà trống ở miền trung bộ Pháp bỏ lò với hành, nấm, và rượu cỏ nhát. Gà nhồi thịt, nhét vào cái bong bóng heo ở miền nam Pháp.
Người Hung gia lợi cũng thích ăn gà, nhưng lại thích nấu gà với ớt, 1 loại ớt vừa ngọt vừa cay (4).
Dân Ý đại lợi lại khoái gà tẩm bột trứng đem chiên. Người Ba lan cũng có món gà nhồi thịt, song cách nấu lại độc đáo: mổ gà, moi hết ruột xong phải ngâm gà trong thau nước lạnh 2 giờ đồng hồ, rồi xát muối cả trong lẫn ngoài trước khi nhồi thịt, và đút lò. Gà ở Nga sô cũng nấu với củ nghệ, dưa leo, hoặc đem hầm với hành, cần, cà rốt, dưa leo, bí … món mà hồi sinh thời, nhà độc tài đỏ Sít ta lin mê nhất.
Lạ lùng hơn ( và dĩ nhiên không kém phần khoái khẩu ) là món gà trên các hòn đảo chơ vơ ở trung bộ Mỹ châu, như gà nấu nước dừa, củ nghệ, cà ri. Gà chiên Mễ tây cơ nhồi ruột bánh trộn sữa, bột cacao và nước trà tưới lên trên. Gà cà ri ở Ấn độ và Pa kít tăng cũng không làm Văn Bình chán ngấy mặc dầu được nấu lẫn lộn với gạo và nước dừa.
Món gà Nam dương còn lạ lùng hơn nữa vì gia vị lại là quế, và sữa. Gia vị thông dụng ở Nam Phi cho món gà là mật ong, gà đút lò tẩm mật, hương hoa hồng và củ gừng không đến nỗi dở ẹc. Gà ở Phi châu da đen cũng khá hấp dẫn, như cho đậu phụng giã nhỏ tẩm vào gà, đem rán bơ, hoặc gà nấu với chuối. Đừng tưởng Úc châu ở gần Nam băng dương không biết nấu thịt gà. Văn Bình đã lầm như vậy 1 lần. Nhưng sau khi được nếm thử, chàng đã tỉnh ngộ. Gà Úc châu hầm chung với nước trà, hoặc gà giò ngâm cách đêm trong nước dứa ép và rượu vang trắng, đem rô ti vàng rộm rồi ăn với các khoanh dứa và chuối chín.
Văn Bình nghe nói đến gà nướng của người Thái sinh sống trong rừng. Tiếng đồn quả không ngoa vì con gà được đặt trên cái đĩa gỗ lớn được quay trên lửa than, không chỗ nào còn trắng lốm đốm hoặc đen sạm. Da gà màu vàng óng ánh, căng lên song nước ngọt của thịt vẫn không chảy ra các kẽ nứt. Gà này mà nhắm rượu thì tuyệt!
Văn Bình thoáng nghe ai nói nho nhỏ bên tai:
-Mời ông.
Gã tiều phu già vừa nói vừa nhìn Văn Bình bằng cặp mắt khó hiểu. Song Văn Bình đã bắt đầu hiểu. Những tiếng động thoang thoáng đã tan biến, chàng chẳng còn nghe gì được nữa. Chàng mở rộng cặp mắt thường ngày sáng quắc, ban đêm nhìn thấy cây kim nhỏ xíu rớt trên đất, nhưng nay 2 mí mắt dính lại vào nhau, dường như bị dán chặt bằng keo nhựa. Chàng cảm thấy bàn chân bị tê. Rồi đầu gối, 2 mông cũng bị tê.
Chàng thu sức lực vào cánh tay, sửa soạn vung đòn vào mặt gã tiều phu già đối diện. Song sức lực của chàng đã cuồn cuộn rút ra khỏi cơ thể như nước sông chảy ra biển. Cánh tay bách chiến bách thắng của điệp viên Z.28 trở thành khúc gỗ bất động. Tuy nhiên, chàng vẫn còn tỉnh. Trước khi ngất đi, chàng lại tỉnh táo hơn bao giờ hết. Tai chàng lại nghe thấy tiếng động. Mắt chàng lại nhìn thấy con gà vàng ngậy, và 2 gã tiều phu Thái nhởn nhơ đứng chống nạnh. Tên già nói:
-Mê rồi. Mày sửa soạn xong chưa?
Tên trẻ đáp:
-Xong từ nãy. Nhưng coi chừng, hắn giả vờ thì khốn.
-Ha, ha … trước khi đem dùng, ông chủ đã sai pha thuốc mê này vào nước cho voi uống. Chú bạch tượng nặng cả ngàn cân thịt ở vườn bách thú chỉ uống 1 ngụm đã lăn kềnh ra, phải chích thuốc mới tỉnh. Phương chi tao lại ngâm với rượu. Hắn chưa mê, nhưng tứ chi đã bại liệt.
Rồi điểm ngón tay vào trán Văn Bình, gã tiều phu già dằn từng tiếng:
-Không chết đâu, chỉ nằm ngủ 1 vài ngày thôi. Lần sau, chớ tham ăn, nhất là ăn gà nướng nữa nhé!
Cả 2 đều phá lên cười. Văn Bình từ từ ngã xuống.
Chàng nằm nghiêng, cánh tay trái trườn ra, nên gối đầu vào đồng hồ tay. Nếu chàng vẫn còn tỉnh như trước đó 1 phút, chàng đã thấy kim đồng hồ chỉ đúng 1 giờ.
1 giờ trưa.
Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, anh hùng thường lụy vì giai nhân. Hễ vướng vào đàn bà đẹp là tài ba cái thế cũng thất bại, nếu không mất mạng. Điệp viên Z.28 cũng không thoát khỏi định luật khắt khe ấy, nhưng không hiểu sao sau nhiều lần đối mặt với tử thần, nhiều lần bị u mê ám chướng vì đàn bà chàng vẫn còn sống.
Hôm nay, cũng vì đàn bà mà Văn Bình thoát chết.
Trong khi chàng rong ruổi về phía nam thì Si Thoeng tỉnh dậy trong căn gác cô đơn. Nhìn chung quanh, không thấy ai, nàng nhớ lại mọi việc vừa xảy ra. Nàng hốt hoảng khoác áo lạnh vào người, rồi mở cửa chạy nhanh xuống đường. Trời nắng ráo, đường về phía nam không bị lầy lội, nàng có hy vọng đuổi kịp chàng. Chiếc Mazda nhỏ xíu của nàng phóng khá nhanh, lại thích hợp với đường đất gập ghềnh và ngoằn ngoèo. Tốc độ tối đa của chiếc Mazda 800 là 115 cây số giờ. Muốn đạt tốc độ tối đa, đường xá phải tốt. Vậy mà nàng vẫn phóng xấp xỉ 120. Tốc độ 120 cây số trên đường đi Phet Buri và Pran Buri cũng như 200 cây số trên xa lộ xi măng. Đàn ông khỏe mạnh, trái tim cứng như thép, gân cốt cường tráng mà chỉ lái đến 150 cây số giờ là trống ngực đã đập loạn xạ như bụng đói chạy đua trên giốc Hy mã lạp sơn. Nhưng càng phóng nhanh, Si Thoeng lại càng sáng suốt. Lộ trình càng nguy hiểm, tay lái của nàng càng vững chắc.
Xế trưa, nàng tới cánh rừng gỗ tếch rộng mênh mông, nơi Văn Bình bị bắt. Cũng như Văn Bình, nàng lái xe vào con đường mòn duy nhất, bên đường rầy xe hỏa. Song nàng không ngần ngại như chàng vì đây không phải lần đầu nàng qua khu rừng gỗ tếch gần Pran Buri. Cảnh vật không hề đổi khác: vẫn con đường nhỏ bé, chật hẹp, chỉ vừa xoẳn cho xe cam nhông ì ạch chạy qua. Mặt đường kêu coong coong dưới bánh xe như thể đất sét được nung chín. Hai bên đường vẫn những cây gỗ tếch thẳng ro, thân vỏ xù xì, cành lá xanh um. Nàng giật mình khi thấy 1 chiếc xe hơi hình thù cổ quái đậu trên bìa đường, gần khúc rẽ.
Đó là chiếc Amphicar của Văn Bình.
Nàng đậu lại, để nguyên cho máy vẫn nổ, nhảy xuống. Chưa cần trèo lên xe Amphicar, nàng đã biết chủ nhân là Văn Bình nhờ 1 mùi thơm quen thuộc còn thoang thoảng trong không khí bất động của rừng gỗ tếch. Mùi thơm quen thuộc của thuốc lá Salem, thứ thuốc lá tri kỷ của điệp viên Z.28.
Nàng nhặt được nửa điếu Salem, đã tắt gần tàn gần bàn đạp ga xăng. Văn Bình thường có thói quen vứt tàn thuốc khắp nơi, cả những chỗ không nên vứt bừa bãi. Một trong những thói quen khác cần sửa chữa của chàng là hút được vài ba hơi rồi quăng luôn. Điếu Salem tắt ngúm từ lâu mà cô gái xứ Thái còn ngửi được mùi vị bạc hà kể cũng lạ. Dường như nàng ngửi được mùi thơm này không phải bằng mũi, mà bằng tiềm thức. Đúng ra, đó không hẳn là mùi thơm của thuốc lá Salem. Mà là 1 mùi bạc hà nhè nhẹ, quyện lẫn mùi mồ hôi, mùi tóc, mùi da thịt của người đàn ông đã lưu lại nhiều dấu vết sâu đậm trong tâm hồn và thể xác nàng.
Nàng nắm chặt mẩu thuốc lá trong lòng bàn tay, ruột gan chợt nóng như lửa đốt. Nàng biết chàng đã bị bắt. Ai bắt? Tại sao họ biết chàng lái xe về miền nam mà phục kích ở đây, ở đoạn đường độc đạo dễ sa bẫy nhất? Văn Bình bị bắt như thế nào? Chàng không phải là võ sĩ tầm thường để có thể giơ tay đầu hàng dễ dàng. Tất chàng đã chiến đấu kịch liệt. Nếu vậy tính mạng của chàng có thể đã bị đe dọa nghiêm trọng. Chàng còn sống hay chết?
Nàng đang suy nghĩ thì tiếng còi xe lửa rúc lên.
Nàng chợt nhớ đến « nhà ga » ở cuối đường mòn. Đoàn tàu xuống miền nam thường ghé lại khu rừng hẻo lánh này để lấy nước và củi. Trong khi thế giới tân tiến dùng đầu xe hỏa chạy điện, hoặc dầu cặn, hoặc than đá thì miền nam Thái lan vẫn quyến luyến lò đốt củi trên tàu lửa. Hai năm trước, nàng đã lái xe que rừng gỗ tếch. Xe hơi bị lột « biên » phải nằm đường, nên nàng đi bộ đến nhà ga để về thị trấn gần nhất. Nàng còn nhớ rõ lều tranh lụp xụp, xiêu vẹo bên hồ nước bê tông kếch xù, và những đống củi được cắt, chẻ ngay ngắn, xếp thành hàng dài dọc theo con đường sắt bốc khói dưới ánh nắng nhiệt đới.
Đó là « nhà ga ».
Đúng hơn là trạm nghỉ của xe hỏa để lấy nước và củi đốt. Tiếng còi vừa hết. Quang cảnh rừng trưa âm u lại chìm vào im lặng. Tàu đã đậu lại và tắt máy.
Si Thoeng lái xe đến chỗ quẹo. Một bên là khu nhà sàn. Bên kia là con đường đến « nhà ga ». Cũng như phần lớn các quốc gia chậm tiến ở Đông nam Á, thiết lộ ở miền nam Thái lan chỉ có những con tàu già cằn khú đế, có lẽ được ra lò từ đầu thế chiến thứ nhất. Đây là tàu hàng, không phải tàu chở khách, gồm gần 20 toa trước kia sơn màu xanh xám, nay đã tróc sơn để lộ mặt rỉ sét, cong queo, lồi lõm, bẩn thỉu. Toa nào cũng mở cửa thông thống, bên trong chất đầy đồ, nào thùng gỗ, thùng cạt tông, nào quang gánh, thậm chí có toa lộ thiên chở nghễu nghện 1 con thuyền nhỏ, mũi hếch lên theo kiểu thuyền rồng, kiểu thuyền truyền thống của xứ Thái.
Si Thoeng lái luồng chiếc Mazda vào giữa 2 cây tếch, cách « nhà ga » độ 100 thước, rồi từ từ tiến tới. Từ lúc rời Vọng các đến giờ, nàng chưa hề uống ly nước hoặc ăn miếng cơm nào. Tuy vậy, nàng vẫn không cảm thấy khát, thấy đói. Vì nàng còn bận nghĩ đến Văn Bình. Thấy chiếc Amphicar trống rỗng, nàng có linh tính là chàng gặp nạn, và chàng quanh quẩn đây đây. Dường như định mạng đã xui khiến cho nàng đến giải thoát cho chàng.
Tiếng máy tàu bắt đầu kêu xình xịch.
Rồi tiếng còi tàu xé toang bầu không khí nóng bỏng của buổi xế trưa dưới chân núi đá, cạnh rừng gỗ tếch. Xe hỏa sắp sửa chuyển bánh.
Chợt nàng nhìn thấy … Cái nàng nhìn thấy đã làm máu trong huyết quản sôi sục vì trời nắng, vì lo ngại của nàng đông đặc lại.
1 giờ trưa.
Văn Bình thở dốc ra rồi nằm lịm. Gã tiều phu già cúi xuống, lật mí mắt chàng ra, quan sát giây lâu rồi nói, giọng hân hoan:
-Hắn uống cả ly rượu, sớm ra đến trưa mai mới có hy vọng thức dậy. Chúng mình tha hồ rềnh rang.
Gã trẻ hỏi:
-Mình đi ngay chứ?
Gã già lườm nguýt:
-Hừ, máy điếc đặc rồi ư? Tàu đã ghé rồi. Trong vòng 15 phút nữa, nó chạy. Mày phải nhanh lên mới kịp.
Gã già sang nhà bên lấy về 1 cái bồ bằng tre đan, dài gần 2 thước, cao nửa thước. Mở nắp ra, bên trong đã được lót rơm và cỏ khô. Văn Bình nằm bất động trên nền nhà. Gã tiều phu trẻ định bế chàng lên song phải nhăn mặt, bỏ xuống:
-Khiếp, thằng cha nặng kinh khủng!
Gã già xé miếng đùi gà béo ngậy, đưa lên miệng vừa nhai ngồm ngoàm vừa nói:
-Nào, mày khiêng chân, tao khiêng đầu.
Trong loáng mắt, Văn Bình đã được bỏ gọn vào trong bồ tre. Gã trẻ phủ cỏ khô đầy mặt chàng. Gã già vội nói:
-Khéo đấy, mày để chừa lỗ mũi cho hắn thở. Về đến Sawan mà hắn tắt thở thì mày rừ đòn.
-Người ta biết thì sao?
-Cả chuyến tàu này chỉ có chúng ta là hành khách. Vả lại, đứa nào mắc bệnh tò mò thì đã có xếp lo liệu. Mày đặt cái bồ lên vai ngay đi cho rồi, còn khệnh khạng gì nữa?
-Để đàn em nhá xong cái lườn gà nạc này đã.
-Thì mày bỏ luôn vào túi, dọc đường tha hồ mà gậm, đồng thời mang theo chai rượu nữa. Ấy, coi chừng, uống lầm chai rượu pha thuốc mê thì chết bỏ đời. Xong cả chưa?
-Xong rồi.
-Một … hai … ba …, nào khiêng lên vai.
Cái giỏ hình chữ nhật lắc lư trên vai 2 người tiều phu giả hiệu. Xuống vườn, họ đặt vào xe bò. Bồ hôi nhễ nhại, gã trẻ rút mù soa ra lau trán. Hắn vừa lau được 1 phần bỗng trải rộng chiếc khăn tay màu hồng tươi trước mắt ngắm nghía. Gã già hỏi:
-Mù soa của hắn, phải không?
Gã trẻ cười ồ ồ:
-Phải. Hắn có cái khăn đa tình thật. Thơm mùi nước hoa đàn bà. Chả mấy khi được lau bồ hôi bằng mù soa tẩm nước hoa thượng hảo hạng, chắc đàn anh cũng đánh cho 2 chữ đại xá.
-Đến chết mày cũng không chừa cái thói tham vặt ấy. Với tiền thưởng, mày mua cả ngàn cái mù soa như vậy cũng có.
-Ồ, đàn anh lầm to. Mù soa này bằng lụa tơ tầm, chứ không phải bằng ni lông. Lụa tầm được dệt bằng tay, mỗi cái ở Vọng các hơn 100 bath, lại ướp nước hoa thơm phức. Đàn anh ngửi mà xem, đang mệt mỏi áp cái mù soa thơm vào mũi, đột nhiên khỏe dội lên, và tỉnh dậy như thuốc tiên.
-Tao ngửi rồi mà vẫn mệt ứ hơi.
-Thế hả? Ối chao ôi!
-Bị rắn cắn, hay chuột rút bắp chân?
-Không phải. Đàn anh ơi, nặng quá, cho em nghỉ khỏe 1 lát, xương vai sắp sửa gãy rồi.
-Cái khăn tay hồng được tẩm thuốc tiên kia mà.
-Đàn anh đừng cười em nữa. Gớm, em không ngờ hắn nặng đến thế! Tuần trước, em khiêng con cọp nặng hơn 2 tạ mà cũng chưa mệt bở hơi tai bằng hôm nay. Đàn anh ơi!
-Gì nữa?
-Em có cảm giác hắn biến thành đá.
-Hừ, đừng nói bậy.
Thật ra, gã tiều phu trẻ không nói bậy. Xương quai xanh của hắn trễ xuống như muốn gãy. Chẳng phải vì hắn yếu đuối, mà chính vì khi mê man Văn Bình đã vận dụng Thần ảo công để chống lại sức công phá của thuốc mê, nên xương thịt chàng đột nhiên rắn lại như kim khí. Hiện tượng này ít khi xảy ra trong võ thuật nên nhiều người không tin, và cho là hoang tưởng. Nhưng sự thật là như vậy. Sự thật là Văn Bình trở nên nặng hơn thường lệ mặc dầu thông thường chàng vẫn nặng trên 70 kilô. Người khiêng cảm thấy nặng vì chân khí trong cơ thể chàng được tập trung vào đan điền nhưng không được phát ra nên kéo cơ thể sát xuống mặt đất, như thể 1 vật bay trong không gian lơ lửng bị sức hút cực mạnh của quả địa cầu. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học võ thuật cố gắng giải thích hiện tượng biến nhẹ thành nặng song chưa ai đưa ra được lý luận nào thỏa đáng. Người ta chỉ có thể nhận định là hiện tượng thay đổi trọng lượng chỉ xảy ra đối với 1 số võ sĩ có tài nghệ thượng thừa.
Gã tiều phu trẻ đặt cái bồ xuống đất, rồi đứng xoạc chân, miệng thở hồng hộc. Hắn cầm cái mù soa hồng phe phẩy 1 lát trước khi lấy buộc vào đầu để che nắng.
Gã già thúc giục:
-Chịu khó 1 chút nữa, tàu sắp chạy rồi.
Gã trẻ thở phù phù:
-Đàn anh yên tâm. Em đã dặn thằng xếp ga. Hắn phải ra lệnh cho tài xế đợi mình.
-Tao cố yên tâm, mà vẫn sốt ruột. Nhanh lên mày, tao có linh tính là công việc bị trục trặc.
-Ồ, đàn anh cũng tin dị đoan nữa ư?
Hai người đã khiêng Văn Bình đến sát đường rầy. Gã tiều phu già hò lên 1 tiếng lấy trớn, rồi cả 2 tung cái bồ bằng tre đan nặng chình chịch lên sàn toa tàu lộ thiên.
Khi ấy, Si Thoeng vừa từ con đường mòn tiến tới.
Và nàng nhìn thấy cái khăn tay màu hồng thắt tréo trên đầu gã tiều phu trẻ.
Nàng đứng lặng người, toàn thân lạnh ngắt như biến thành tảng băng. Cái mù soa hồng này không xa lạ với nàng. Nó là của nàng. Tự tay nàng thêu chữ đỏ ở góc. Nàng đích thân đến xưởng dệt đặt mua 1 mét vuông, mang về cắt ra làm khăn tay. Sự thật đã hiện ra rõ rệt trong trí phán đoán của nàng. Chiếc Amphicar nằm trơ trọi trên đường mòn, chìa khóa còn cắm ở công tắc, những mẩu thuốc lá Salem, chiếc khăn tay đầy kỷ niệm vắt vẻo ngang trán gã đàn ông ngăm ngăm, diện mạo không lương thiện, và cái bồ dài trông như áo quan bằng tre đan khá nặng, đều liên hệ với nhau. Nàng biết Văn Bình đã bị bắt, và chàng đang nằm trong bồ. Nhưng làm cách nào cứu được chàng?
Tàu hỏa đã từ từ chạy, âm thanh chuyển động 1 vùng. Si Thoeng nhanh chân nhảy lên 1 toa lộ thiên, chở đầy hộp cạt tông. Nàng ngồi sau đống hộp, quan sát đối phương ở toa sau 1 cách an toàn. Nàng thấy họ mà họ không thấy nàng.
Người đàn ông già dựa lưng vào cái bồ, ngất ngư hút thuốc lá, loại thuốc lá sâu kèn, quấn trong lá chuối non phơi khô, thông dụng ở miền quê Thái lan. Còn tên tiều phu trẻ vẫn tiếp tục gặm xương gà, miệng nhồm nhoàm, chốc chốc lại chiêu ngụm rượu, và phê bình:
-Rượu ngon ghê!
Con tàu chồng chềnh như thuyền say sóng. Ly rượu vừa rót đổ luôn vào mũi, tên trẻ giãy đành đạch như đỉa phải vôi:
-Ôi chu cha!
Gã tiều phu gạt cái ly từ trên tay tên trẻ văng luôn xuống bờ đê đường sắt, giọng bực bội:
-Mày chỉ nghĩ đến nhậu nhẹt tối ngày.
Tên trẻ văng tục, rồi nói:
-Lần nào đàn anh cũng cấm em uống rượu. Công việc xong rồi, đàn anh còn bịt miệng em làm gì nữa, tội nghiệp.
Gã tiều phu già nghiêm giọng:
-Chưa xong đâu. Tao sợ có chuyện.
-Chuyện gì?
-Hồi nãy, lúc tàu chạy qua đường mòn, tao thấy 1 cái xe hơi. Mày hiểu không? Xe hơi đậu ở gần khúc quẹo. Tao sợ là đồng bọn của hắn đang đổ đi tìm.
-Ồ, nếu vậy mình phải gặp họ.
-Tao thoáng thấy 1 mụ đàn bà.
-Mụ đàn bà? Đàn anh th