← Quay lại trang sách

- I -

Năm nào cũng vậy, đoàn ngựa buôn của ông khách Sìn về đến châu Yên, dừng lại, thay tay thồ, thì vừa xong gặt hái tháng mười. Các phiên chợ tết đã đến rồi.

Ông khách Sìn chỉ bán ghé chợ châu Yên có một phiên, rồi lại đóng hàng vào ngựa mới, bắt đầu lên Phiềng Sa. Hàng của khách Sìn vốn quen ăn các chợ Mèo.

Câu chuyện giữa khách Sìn và chủ ngựa Tòng hôm ấy.

- Chào ông chủ Tòng, năm nay bao nhiêu ngựa ông đi Phiềng Sa được? Hàng nặng đấy, ông ạ.

- Bẩm ông chủ, ngoài trăm con tôi cũng có thừa sức.

- Tốt lắm...

- Nhưng mà...

- …

- Con nhất, con nhì... tôi.

- Sao?

- Nó... ốm.

- Không may cho ông.

- Vâng, bẩm ông chủ, mấy chợ nay, tôi bỏ cả những chuyến thồ gần thật ngon ăn để đợi hàng ông chủ về…

Ông khách Sìn liền khóa ngay cái giọng sắp muốn mè nheo của lão chủ ngựa:

- Phải rồi, ông mà lên được Phiềng Sa với tôi, ông cứ nhấc cái thồ xuống là có tiền chảy đến, ông còn kiếm gấp trăm những chuyến ngon ăn khác kia!

- Vâng, cũng nhờ lộc ông chủ.

- Hàng tôi cần lên kịp chợ, không nấn ná được. Để bảo ngựa ông Đèo vậy.

Lão chủ ngựa Tòng xám hẳn mặt. Ngựa lão Tòng vốn quen thồ hàng cho khách Sìn trên chặng Phiềng Sa đã hàng chục năm. Ngưạ tốt, khách hàng sòng phẳng, mà lão Tòng mỗi chuyến lên vùng Mèo cũng phát tài riêng được một bọn thuốc phiện mang lậu về.

Không ngờ khách Sìn lại dửng dưng ném phắt ngay lão đi như thế.

Lão Tòng cay quá, đứng ơ. Ông khách Sìn còn vỗ vai lão, cười nhăn nhở, nói:

- Ông chủ bằng lòng nhé, sang năm giúp cho tôi, tôi chờ đấy.

Nhưng lúc ấy lão Tòng chẳng còn nghe biết khách Sìn nói vuốt gì nữa. Lão điếng người, lại nghĩ đến hai con ngựa.

Hai con ngựa nhất, ngựa nhì đầu đàn của lão.

Chỉ có nửa buổi, lăn ra chết cả.

“Hay là nhà thằng Đèo hại mình?” - Lão Tòng hốt hoảng, bối rối nghĩ.

*

Đoàn ngựa thồ hàng ông khách Sìn lên Phiềng Sa.

Tết sắp đến, những đoàn ngựa thồ hàng của người buôn lại lũ lượt lên các vùng núi cao miền tây.

Không ai biết ngựa buôn hàng ở mãi đâu về, phía nào tới, Vân Nam xuống hay bên nước Lào, nước Miến Điện sang, hay từ ngoài sông Đà vào. Nhưng cứ trông người đi đuổi ngựa cho các ông chủ hàng có thể đoán những chặng đường họ đã đi qua. Đủ cả: người Kinh, người Lào, người Thái, người Xạ Phang, người Hà Nhì, đôi khi cũng có người Xá, người Mèo tận Mường Cò Nòi bên Miến Điện. Hễ năm nào nhiều người Xạ Phang, người Hà Nhì theo ngựa thì bảo đoàn này trên Vân Nam xuống, có người Kinh thì chắc hàng ngoài cửa Vạn sông Đà vào, có người Lừ, người Khạ thì biết họ từ Lào sang.

Có đến ngoài trăm cơn ngựa thồ hàng ông khách Sìn lên Phiềng Sa.

Con ngựa nhất, con ngựa nhì thắng yên cương đỏ, lưng không đeo hàng, thung dung đi trước. Tiếng nhạc rung sang sảng. Trên bờm cắm ngù đỏ, hai bên mông rực rỡ chiếc hoa thị vải đỏ năm cánh.

Những con ngựa mộc, thồ hàng đi sau, tai nghe nhạc, mắt chăm chăm nhìn vào cái hoa đỏ đính đuôi ngựa trước, mõm cất cao, bước không loạn vó, không đá nhau, không quơ vặt ven đường. Ngựa nào cũng ngoan nết bắt chước hai con đầu đàn.

Lão chủ ngựa họ Đèo ngồi xếp chân trên cọc thồ giữa lưng con ngựa thứ ba. Lão náu mình trong chiếc áo bành tô đẫm nước mưa, xám ngắt. Nếu chốc chốc không thấy từ trong đống áo xù xụ có một đám khói thuốc lá cuốn xanh mờ nhả ra, cũng dễ tưởng đấy là một kiện hàng.

Sau lưng lão, cứ chừng mười thồ, lại một người phu ngựa kèm.

Những người phu co ro cầm cái roi, khi thì lập cập chạy theo ngựa, khi thì gật gưỡng ngủ ngồi trên thồ hàng.

Đàn ngựa kéo dài qua những vùng vàng rượi cỏ tranh cứ xoay tròn lên lưng trời, đi cả ngày trông xuống vẫn thấy độc có một vết dốc vượt hôm trước. Không một tiếng người, chỉ nghe vó ngựa và tiếng roi quất dứ qua quãng kẹt núi dựng, tiếng gió gào quẩn trên đầu sóng cỏ tranh, chốc lại xô lên, lấp cả người, cả ngựa.

Đôi khi mặt trời rầu rĩ nhô ra, làm cho các mỏm núi và đến cả các khe suối xa bỗng nhiên nhuộm nắng úa xuộm.

Một tiếng hát, tiếng hò hay tiếng kể lể than vãn của người phu ngựa Xạ Phang đột ngột cất lên, lê thê lướt qua. Cái dốc núi càng rét, càng vắng, càng chơ vơ.

*

Bóng tối trĩu nặng từng quãng, nhanh và dữ tợn. Các mỏm núi đương vàng rực, bỗng xanh rợn. Gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa các triền đồi tranh im lặng.

Đoàn ngựa lên dốc. Tối dần.

Một lúc, cả đoàn dừng lại. Những người phu nhảy xuống, chạy quanh ngựa, hấp tấp rút trên túi ngực ra một ống nứa đựng rượu ngâm củ gấu đặc sẫm. Họ lần lượt xách cương kéo mõm từng con ngựa lên, rồi dốc ngược cả ống rượu gấu vào họng ngựa. Những tiếng hí rít vang sâu vào các hõm núi. Con ngựa rùng mình, lắc lắc, nhảy vung hai chân trước. Rồi lại đứng yên. Ngựa đã quen được nhai củ gấu ngâm rượu thuốc, mỗi chuyến đi dài. Rượu gấu ngấm vào làm rung bốn vó, đổ thêm sức cho ngựa dấn nốt đoạn dốc cuối cùng dài nhất, dai dẳng nhất.

Rồi đoàn ngựa lại chuyển động và bắt đầu ló lên một quãng trống lưng đèo, trông như đàn kiến nối nhau, nhấp nhô.

Trên một khe núi kia, bà Giàng Súa đương nhìn xuống.

Đàn ngựa thấp thoáng qua khúc đường còn loang lổ sót lại một chút nắng đến chỗ tối bóng núi, bà Giàng Súa không đếm hết từng con được. Bà chỉ thấy mờ mờ lố nhố.

Bà Giàng Súa sợ hãi, nghĩ đến các con.

Trong vách, lúc ấy chỉ có bé Mỵ ngồi bên đống lửa đương lụi. Bé Mỵ đợi anh Nhìa vác thêm củi về nhóm sưởi. Còn Khay thì ra nhà nương lấy ngô. Sao hai anh em nó đi lâu thế? Bà Giàng Súa lại lo. Cứ bao giờ có nỗi lo láng gì đến, mọi người mẹ đều tựa gà mái ấp, muốn được các con mình ở cạnh. Chúng nó đi đã lâu, mà đàn ngựa ai lên núi thì nhiều thế kia, dài thế kia…

Ngựa lên núi, ngựa lính, ngựa quan, ngựa thồ người buôn, ngựa nào cũng chỉ buộc lo, buộc sợ vào mình. Ngựa nào cũng của quan, của người chức việc, của người ta. Nhà bà Giàng Súa chưa được nuôi ngựa bao giờ. Mà đời bà, con ngựa chỉ có mang tai họa đến mà thôi.

Năm ấy, đương cày nương xuân, chồng bà Giàng Súa phải bỏ cày. Mùa nương nhà dân sao bằng mùa thuốc nhà quan, chồng bà Giàng Súa đành cắm cái cày giữa nương, bỏ đi tải thuốc phiện cho nhà thống lý.

Con ngựa tải thuốc phiện lần ấy chẳng may tuột chân xuống vực đá.

Có người về bảo: lúc ngựa ngã, chồng bà còn bíu được ghềnh đá, thằng người nhà quan thấy rơi mất thồ thuốc, nó mới luống cuống đẩy nốt chồng bà xuống.

Có người về nói: tại chồng bà sợ quá, nhảy liều theo ngựa và thuốc phiện.

Có người về thì thào: chồng bà phải ma chài nên đánh mất thuốc phiện nhà quan, quan bắt nó chết rồi.

Người nào cũng rằng đích tai đã nghe quan nói thế.

Đằng nào thì chồng bà Giàng Súa cũng không về nữa, dù cho mọi đồn đại khác lời nhau. Nhưng còn một điều ghê gớm hơn thế. Ấy là từ đấy, cả làng bảo: con mẹ Giàng Súa có ma.

Người ốm rét mê hoảng, reo: “Giàng Súa, con ma Giàng Súa bắt tôi!". Hôm sau nữa, có người ra nương gặp bà Giàng Súa về rồi ốm, họ bảo đấy là tại đi đường gặp "con ma Giàng Súa". Bà Giàng Súa khiếp sợ quá. Có lúc tưởng mình có ma thật, bà Giàng Súa đã đi lấy sỏi lấy đá ngậm hàng tháng trong miệng. Khi còn bé nghe nói ai có ma muốn giải ma thì ngậm hòn đá ba mươi đêm, con ma sẽ hóa cục máu ra theo hòn đá. Hòn sỏi nằm trong miệng đủ ba mươi đêm, đến lúc bà Giàng Súa nhổ ra, cũng chẳng thấy cục máu ra!

Người làng xôn xao lo lắng, giận dữ bàn tán: cho mẹ con nhà Giàng Súa ăn Tết này xong rồi đem giết đi. Nếu không, cũng có lúc ma làm chết hết làng.

Đến cả bé Mỵ cũng nghe trẻ con dọa bé Mỵ thế. Suốt ngày, suốt mấy ngày, suốt tháng, bé Mỵ, các anh Thào Nhìa, Thào Khay, với mẹ, cứ ngồi xó nhà, tưởng người ta sắp xông vào bắt đem đi giết.

Rồi, một hôm, ai như ngựa nhà thống lý đến trước cửa. Có nhẽ thế. Một tiếng quát chõ qua khe cửa:

- Con ma Giàng Súa! Mày chết đi, con ma Giàng Súa à!

Tiếng chân ngựa vừa rời, bốn mẹ con bà Giàng Súa lật đật chạy vào rừng. Đấy là quan bảo, hay người làng đến chửi rủa? Chạy vào rừng, cũng chẳng dám quay lại đeo đi một mảnh chảo gang vỡ nữa!

Từ đấy, bốn mẹ con chúi vào rừng sâu. Tối quá, khổ quá. Nhưng thà ở rừng một mình, chứ nếu ra ngoài gặp người thì còn khổ hơn, hãi hơn. Thấy bóng ai làm nương phía nào, mẹ con lại lủi đi trú chân rừng khác - như con hươu, con chuột sợ người. Quanh năm chẳng gặp ai. Người ta cũng tránh ma chài. Mẹ con cứ vật vờ như người hủi, người ốm lâu bị làng đem bỏ vào rừng đợi chết.

Nhưng không chết. Mẹ con bà Giàng Súa bám lấy rừng mà sống. Cũng phá được một khoảnh nương kín đáo trồng bắp và nuôi được nhiều đàn ong mật trong gốc cây. Không chết, bà Giàng Súa sống mịt mù như trên đời chỉ còn có bốn mẹ con.

Mấy năm như thế, mấy năm đổi rừng ở mấy lần, bà Giàng Súa cũng không đếm được.

Lúc ấy có tiếng lạt sạt đến sau lưng bà Giàng Súa. Một thân cây to tướng rơi huỵch xuống trước vách. Thào Nhìa chạy vào, vừa thở vừa trỏ tay đằng kia:

- Bao nhiêu ngựa, mẹ ơi!

Bé Mỵ cũng lật đật chạy ra khỏi đám lửa lom đom. Bé Mỵ rét quá, run rẩy, lập cập hàm răng hỏi anh:

- Nhiều quá hả? Có ngưa à? Ngựa nào, ngựa quan à?

Thào Khay, ngoài nương ngô, cũng vừa về.

Cái địu nhẹ thếch khoác vai, buông thõng một dây nghiêng trên lưng. Trong địu lăn ra mấy bắp ngô khấp khểnh, hạt long, hạt chuột gặm, mỗi bắp rơi một nơi. Cũng chưa ai buồn nhặt, có gì mà nhặt! Khay đứng trố mắt, như hỏi Nhìa. Thào Nhìa còn mải cắt nghĩa cho bé Mỵ:

- Không, ngựa thồ đấy. Mày chưa trông rõ à? Một toán lại có một người đuổi ngựa đấy thôi. Toàn ngựa tải hàng.

Chẳng hiểu gì cả, bé Mỵ cũng reo to:

- Phải rồi.

Thào Khay nhìn ra phía dốc núi tối mịt rồi nói:

- Ngựa tải hàng, mẹ ạ. Nhiều quá. Mẹ thấy không?

Bà Giàng Súa đáp:

- Mẹ nghe tiếng rồi.

Những tiếng gì cứ vừa xôn xao vừa mơ hồ tới, như tiếng rít, tiếng vó ngựa, tiếng thở, tiếng nhạc khô lạnh ở cổ ngựa.

Trẻ con lúc nào cũng thích xem ngựa. Cả ba anh em đều ra chăm chú nhìn xuống. Bấy giờ chẳng nhìn thấy gì nữa, nhưng vẫn sướng mê vì chúng đương tưởng ra một đàn ngựa hết sức đông đương nối đuôi đi lên, lẫn lộn với bóng sương, bóng núi, bóng tối.

Bà Giàng Súa đứng dậy, gỡ cái địu nghiêng trên vai Thào Khay. Cái bắp ngô bị chuột cắn xơ xác rơi nốt xuống. Bà toan hỏi Khay: "Còn mấy bắp này thôi à?", nhưng thấy bọn trẻ con mải nghé nghiêng, bàn tán chuyện đàn ngựa, bà lại im. Nỗi lo hết ngô chen mềm vui có các con đông đủ trước mặt. Bà Giàng Súa thở dài rồi ngồi xuống.

Lát sau, bà khe khẽ nói:

- Ngựa tải hàng ông Sìn đấy. Tết đến rồi.

Bây giờ thì cả các chỏm núi và vệt đường chân dốc đều đã bị xóa mờ từ lâu. Nhưng người đàn bà khốn khổ vẫn trông thấy trong vòm sương đặc những ngày xưa có gió thổi thật rét, những ngày Tết nhộn nhạo tiếng khèn, tiếng sán tiếng thanh la, tiếng người cúng hò hét, rin rít, có cả xóm đến xem cúng và ăn cỗ.

Ngày Tết vui những nhà ai ngày trước. Trẻ con khi ấy cũng biết uống từng bát rượu.

Bốn mẹ con cứ ngồi yên quanh bếp đã vạc hết lửa, trong lòng rừng.

Trên lưng dốc tối đen dưới kia bỗng bật hồng một loạt đuốc dài, sáng lốm đốm như hàng chân con giời leo đương bám bóng đêm bò lên.

Đã nghe rõ hẳn tiếng móng ngựa trượt đá, tiếng ngựa hí vào đêm vắng. Những âm vang lạ lùng đem đến bao nhiêu chờ đợi và lo lắng cho mọi người.

Một cái Tết lại sắp qua ngoài kia, đến tận các làng xa. Lũ con bà Giàng Súa nương náu trong rừng không biết Tết, chỉ mang máng cái Tết từ lâu lắm, và bao giờ nghĩ đến cũng háo hức vô cùng.

Đêm ấy, mẹ con nhà Giàng Súa đành ngồi chịu lạnh đến tận khuya.

Không dám nổi lửa, sợ người ngựa đi ngoài rừng trông thấy.

*

Đoàn ngựa thồ hàng ông Sìn đã tới Phiềng Sa trong đêm.

Hàng trăm đuốc dong từ dưới dốc lên cửa đồn. Thêm hàng trăm đuốc dõng làng của ông thống lý cho xuống đón.

Ánh đuốc rực lửa. Khói và sương quyện nhau, ẩm nặng vai áo. Bờm ngựa, tóc người ướt trắng. Những bó đuốc củi thông ngào ngạt thơm, cháy xèo ra nước. Lửa đương đượm, lại càng lung linh sáng hơn.

Đoàn ngựa bốc hơi, bốc khói mù mịt, cứ nguyên cả thồ hàng chất ngất trên lưng, rầm rập vào thẳng sân đồn Phiềng Sa.

Hàng chục người phu ngựa và cả dõng làng đã quen việc tất bật chạy trước vào dọn kho dưới trại lính để nhấc hàng, đặt tạm cả thồ xuống.

Bóng tối đầy ánh đuốc đỏ ngòm lại thêm sáng trắng đèn măng sông, trên đồn vừa cho lính xách xuống hai chiếc.

Những con ngựa leo dốc suốt ngày, bùn bắn lên tận mắt, quấn xệt cả bờm, bây giờ đương đứng thở hộc ra. Thế mà dường như hơi rượu gấu vẫn còn thúc mấy con ngựa khỏe cứ dựng đứng chân đạp nhau, cắn nhau, đòi về chuồng, đòi ăn. Có những con đánh ghen loạn xạ rồi lăn đùng ra xát lưng xuống đất. Vì ngứa hay vì phẫn uất nỗi gì không biết. Đám phu ngựa cuống quýt ghì cương, chạy quanh, quát chửi, dỡ thồ thật nhanh, rối rít, ngột ngạt trong khói đuốc, hơi người, hơi ngựa.

Loáng mắt, tất cả những thồ hàng được phủ bạt kỹ đã chất đống khắp mấy gian kho.

Những người phu chỉ còn kịp dắt tống lũ ngựa ra tràn rồi quay về nằm lăn quanh đống hàng. Mấy người khác còn sức mò đi tìm củi, nhóm lửa sưởi cho bớt cóng rồi bắc nồi. Hơi lửa vừa bén, bọn người ngả lưng kềnh tạm lúc nãy cũng lồm cồm bò dậy, men đến tìm lửa. Người Thái, người Lào, người Xạ Phang xúm xít họp bọn với nhau cùng đợi nồi cơm. Họ không đánh chửi nhau như lúc chơi bạc.

Xếp hàng của khách đã yên tề cả, lão chủ ngựa Đèo mới giắt cái roi da vào thắt lưng, tay cầm một bó hương to của người nhà vừa lấy trong thồ ra. Lão đi cúng vía cho ngựa, cho đàn ngựa vừa qua một chặng đường bình yên.

Lão Đèo lại đầu tràn ngựa buộc con nhất, con nhì. Lúc nãy thồ cỏ riêng đã được đặt ở đấy. Bóng tối im phăng phắc làm cho lão Đèo rợn gáy. Không, không phải tại hai con ngựa còn đứng xa, mà vì lão Đèo đã đi đến tận nơi vẫn chẳng nghe mảy may động dạng quen của hai con ngựa mồi. Cái khịt mũi, cái giũ bờm, một tiếng phất đuôi cũng không.

Lão Đèo quơ tay ra. Đến lúc chân đá đụng cái thồ cỏ mới biết thật là không có ngựa. Tai nạn ra sao đến đây rồi! Hai con ngựa vốn cực khôn, hai con ngựa hái ra tiền cho lão, không bao giờ chúng bỏ cỏ mà vơ vẩn đi đâu lúc sắp cúng vía thế này.

Sợ hãi, kính cẩn, lão Đèo châm nguyên cả bó hương, cắm lên đầu cái cọc gỗ, rồi mới ra tìm ngựa.

Đằng cổng trại, lửa sáng lập lòe từng vệt, có tiếng kêu. Rồi một lũ người cầm củi thông chạy đến. Trong ánh đuốc nhấp nhem, trong tiếng ngựa rít, tiếng vó ngựa dồn dữ như phi nước đại, mấy người lính hì hục vác đá đến chèn bờ rào cái bãi chăn ngựa.

- Nhanh lên! Nó ra bây giờ thì chết cả.

- Cái gì đấy?

- Ngựa điên.

Lão Đèo rủn người, cố nghếch nhìn vào cái bãi tối đen. Hai bóng ngựa hiện lên, chờn vờn, cao "như ngựa ma". Lão nhận ngay ra đấy là con ngựa nhất, con ngựa nhì của lão.

Bóng hai con ngựa đương múa vung hẳn hai chân trước lên. Nó đạp gió phăng phăng, nó rống dài những cơn hí hết sức ghê rợn. Hai con ngựa gieo mình xuống. Hai con ngựa lại chồm dậy. Hai cái đầu vật vào nhau. Hai cái đầu lảo đảo quay ra, chát chát đập vào tường đá, như ném đá.

Bỗng chốc, cái bóng ngựa điên lại hất tung chân, rú lên, húc đá, lại húc bờ đá, rồi lan ra chỗ có đám người. Lũ lính đương khiêng đá lấp cổng, bỏ chạy cả.

Chỉ còn mình lão Đèo vẫn đứng ngơ ngác. Lão đã lõi đời cái nghề chủ ngựa thồ. Lão Đèo biết mình bị đứa phản. Hà, hà, chính tay lão vừa mới đánh bả làm thuốc bỏ chết tươi cả hai con nhất, con nhì của nhà chủ ngựa Tòng để tranh chuyến thồ hàng khách Sìn này. Bây giờ đứa phản phúc nào, chỉ mới lúc nãy thôi, đã bỏ con gián, con dế vào hai lỗ tai ngựa lão?

Con gián bò trong óc! Ngựa ngứa óc, nhức óc, phát điên! Không tài nào cứu nổi nữa!

Năm nào ngựa lên Phiềng Sa thường cũng phải có con chết thế. Có đứa phản, chủ ngựa nào cũng đề phòng mà không được! Nhưng lão không ngờ nó lại dám phản vào những con ngựa nhất của lão thế này!

Lão Đèo không dám đứng nhìn hai con ngựa quý cứ húc vào đá cho đến chết rụi xuống. Hai con ngựa sắp chết rồi.

Lão Đèo trở vào. Lão đã tỉnh bừng người, hết choáng váng. Đêm rét buốt, nhưng lão cởi phăng áo bành tô, vứt vào mặt người phu ngựa ngồi ngoài cửa kho.

Lão Đèo sừng sộ hỏi bọn phu đương còn bắc bếp đun nước, giữa đám sưởi. Rét quá, không hiểu họ đã biết chuyện ngựa điên chưa.

- Chúng mày có đứa nào là người họ Ma?

Những khuôn mặt nhấp nhô trong bóng tối và lửa bếp, ngớ nhìn ra. Lão lại quát, bằng tiếng quan hỏa:

- Đứa nào họ với thằng Tòng?

Cả bọn vẫn trố mắt. Có người lại lẳng lặng cúi xuống đẩy bếp.

Lão Đèo bước đến trước mặt một người phu gầy đét và cao, trên lưng bù xù khoác một cánh áo tơi lá móc diều, đương ngồi cạnh lửa mà vẫn run rẩy. Lão Đèo vung tay giựt, vất cái mũ nồi của người ấy xuống rồi nắm tóc, kéo đứng lên:

- Tao hỏi thế, chứ tao biết mày là thằng họ Ma phản tao rồi.

Lão gầm:

- …Mày phải chết!

Lão Đèo đẩy vập mặt người phu ngựa vào góc tường đá. Lão quay lại, đảo mắt sục sạo tìm mấy người nhà lúc ấy vẫn còn cứ ngồi ngây. Lão Đèo quát:

- Đánh!

Cả đám người đứng giựt lên, vác những thân cây thông xô vào, phang lia lịa. Người phu gầy ngã ật ra, không kêu một tiếng. Như một cành củi.

- Đánh!

Những thanh củi vẫn nện chí chát xuống. Ngoài kia vẫn còn vang vào từng cơn rú khủng khiếp đến long óc của hai con, ngựa điên.

Lúc ấy, ông khách Sìn xách cây đèn bão, cùng với thống lý Mùa Sống Cổ đến nhòm vào đám người đứng xem đánh phu. Ông Sìn nói to:

- Thôi thôi, ông Đèo! Hôm nay hãy cởi cái khó cái nhọc ra.

Thống lý Mùa Sống Cổ nói:

- Tội gì thì cũng trói để đấy, mai hãy giết nó, ông chủ à!

Ông khách Sìn giơ cây đèn, cười lóe cả hai hàm răng vàng, bảo lão Đèo:

- Tối nay ta lên chào quan đồn. Áo của ông đâu?

Ông Đèo ra nhặt áo. Giận dữ ầm ầm thế, nhưng ông vẫn nhớ lúc nãy quẳng cái áo bành tô vào xó cửa. Người phu còn ngồi chỗ ấy, y nguyên cái áo trùm trên đầu, như lúc lão chủ ngựa ném.

Ông Đèo mặc áo, quay vào, trỏ mặt bọn phu ngựa đương vực người bị đánh dậy, đặt trước đám lửa sưởi.

- Mai ông đánh chết tất cả chúng mày. Chỉ biết vục đầu vào ăn! Tối nay ngựa thằng nào đuổi ban ngày thì thằng ấy buộc cổ vào đấy mà ngồi canh!

Rồi ba người, ông chủ hàng, ông chủ ngựa và lão chúa đất thong dong lên đồn. Người nhà cắp một bọc đồ lễ những gì không biết, chỉ đoán được hai người nhà bưng hai cái ấm đồng thuốc phiện của quan thống lý đem theo. Tối nay, trên đồn có tiệc suốt đêm.

Đi mấy bước, ánh đèn bão ông Sìn xách dưới tay chỉ còn lấp láy trong vòm sương.

Đám phu ra đốt lửa nằm cắt canh nhau suốt đêm ngoài giữa sân, trước tràn ngựa.

Họ sợ có người lại đến giết ngựa. Họ vẫn nghe đồn trên Phiềng Sa có những người cả đời không ăn muối, chuyên tâm thù khách buôn, năm nào cũng tìm hại ngựa của khách buôn.

*

Dù sao thì đến ngày chợ cũng là đến những ngày thong thả trong một năm ở Phiềng Sa. Người suốt dọc suối Nậm Ma tận dưới Ná Đắng xa mấy buổi đường cũng lặn lội lên.

Có đoàn ngựa buôn ông khách Sìn về, Phiềng Sa thành chợ đông mấy ngày trên bãi đá ngang lưng núi.

Từng đám các cô gái xuống chợ, lưng cõng địu, tay xe lanh, váy áo lam lũ bạc dã như đi nương. Chỉ khác một vẻ: bước đi tất tưởi, rộn ràng hơn. Đến mỏm núi bên kia chợ, mấy cô rẽ vào khe đá, đặt địu, lấy váy áo, khăn, thắt lưng mới ra thay.

Những cô gái nhà nghèo thì vẫn đi thẳng, đến lúc gặp người trai lạ mới dừng lại. Nếp váy cũ rách tỏa ra, cô không dám bước. Con mắt xấu hổ, nhìn quanh dưới đất, không biết nhìn đâu, trốn đi đâu. Đành đứng lại cho người qua rồi mới lại đi. Đến cửa chợ, một tay với cất lanh lên địu, một tay ngượng ngùng khép cái ngực áo không có yếm. Cái địu trĩu trên dáng lưng cúi gò, cô len lén bước vào chợ.

Sớm nhất chợ có bà hàng rượu. Bà hàng đến ngả chõng, đặt chồng bát, hạ chum rượu cõng trên lưng xuống, rồi tìm đá kê làm ghế cho khách ngồi. Khách đã hóng sẵn cả đấy. Mấy ông già đói muối về tìm mua muối. Người ta hỏi nhau: hôm nay quan đồn bán muối hay ông Sìn bán muối? Chẳng biết có còn bán nữa không?

Có những ông già năm nào cũng đi chợ, nhưng cả đời không biết đến hột muối, mặt mũi cứ hốc hác trắng bệch. Tuy vậy, người đói muối cũng như người nhịn muối và người không ăn muối bao giờ, các cụ hãy ghé vào hàng, ngồi chống tay lên má, lặng lẽ, nghĩ ngẫm, hớp một vài cân rượu đã.

Mỗi chốc, ngựa về buộc quanh gốc đào càng nhiều, đuôi ngựa hoa lên như múa. Ngựa ấy đi chợ, ngựa ấy đem về bán.

Người hút thuốc phiện nằm ngổn ngang trong các lều giữa bãi, rì rầm chuyện bán súng, bán lậu bạc trắng sang Miến Điện. Những người buôn các thứ hàng hiếm này ở tận đâu đến, không ai biết. Họ không thèm để mắt tới món nước thịt thắng cố[3] hay bánh ngô nướng ngoài chợ. Họ cũng không ra ngồi chõng rượu ngô của bà người Mèo..Họ đêm ngày chè chén trong quán người Hoa. Và, chủ quán ra mời khách, phải xách theo cái hũ sành đựng rượu. Rồi đổ rượu xuống lòng bàn tay, đánh cái diêm châm. Lửa rượu xanh lét bùng lên, hắt ngọn lửa từ lòng bàn tay ra. Có rượu mạnh thế, khách mới chịu vào quán.

Tiếng súng bắn thử, tiếng chửi, tiếng cười, tiếng kêu khóc của những người đằng kia chen vào mua muối, cùng tiếng khèn rờn rợn nhảy tập tòe suốt đêm.

Càng về trưa càng đông, đông nhất đám trai gái. Tuổi trẻ chưa biết thế nào là khó nhọc. Có anh đi mấy ngày mới về tới. Khi đi cái sáo giắt túi ngực, khi về vẫn một cái sáo ấy giắt túi áo ngực. Chẳng mua bán gì mà vẫn đến chợ.

Ai cũng thấy ở chợ có thứ cần, thứ lạ, thứ thích - chợ cuối năm mới có, mà hiếm tiền mua. Họ đi ngắm những chiếc lọ, chiếc hũ, cái chum sành, cái thìa, cái bát của người Hoa và người Lừ buôn bên kia biên giới sang.

Lưỡi cày, lưỡi cuốc, lưỡi rìu của các bác thợ đúc người Mèo Xanh đem bán; bác thợ đúc bắt nẹt người mua, phải đem ba lưỡi hỏng với hai đồng bạc trắng đến mới đổi được một lưỡi cày mới. Nhiều người chịu không thể mua nổi, đành trở về cày mãi cái lưỡi cho đến khi mòn tròn lên tận bắp.

Nhưng có tiền đút cho quan thống lý thì những cái to hơn, hiếm hơn lại đến tay được dễ dàng. Đấy là những đám buôn lậu đem bán súng, đổi súng lấy thuốc phiện. Người thử súng bắn đòm đòm lên trời từng phát, bắn thử cả đêm, bắn nhiều đến những con ngựa cũng dạn súng, nghe nổ mà vẫn đứng cúi mõm, điềm nhiên phất đuôi.

Hàng ông Sìn, xúm xít, vòng trong vòng ngoài, người đông ních cả mấy gian của lính đồn vừa mang bạt ra dựng.

Hàng ông Sìn bán toàn những thứ quen, ai cũng mê mà ít ai sắm được. Nào muối, dầu hỏa, lại diêm, hạt tiêu, các loại kim và chỉ mầu, các thứ vải đỏ, vải đen, láng xanh, khăn mặt tổ ong trắng cho đàn ông quấn đầu, và mũ dạ, ô đen, đèn pin bán cho các ông thống lý, thống quán - còn ông xéo phải là quan hang bé nhất trong làng cũng thèm

có tiền để lấy mỗi thứ một cái, nhưng chưa bao giờ mua được.

Ông Sìn mua hàng vào thì mua nhiều lắm. Ông Sìn đưa một trăm con ngựa lên. Nhiều con chỉ mang nạng thồ không, đợi hàng mua vào. Mặt hàng ông Sìn đậm mua nhất là thuốc phiện, vừa nhẹ vừa lắm tiền, rồi đến gạc hươu, gạc nai, xương hổ, mật gấu, xương thú mua được đem nấu thành cao ngay giữa chợ, rồi mật ong, da hổ da báo, sợi lanh, củ tam thất, sa nhân, hoàng liên già, có bao nhiêu cũng vét hết.

Người không tiền đem các thứ của rừng kiếm được đến đổi ông Sìn cho được đồng nào mừng đồng ấy, bán như đổ của đi. Cả một bộ xương hổ, xương khỉ đem đổi được có một bát muối. Nhưng biết làm thế nào!

Ông khách Sìn cứ nằm trong nhà quan thống lý, hút thuốc phiện cả ngày. Năm thoảng ba thì mới ra đứng hàng. Ông chỉ thích đứng bán, đứng đổi cho các cô con gái. Cô nào đẹp đến xem hàng, ông Sìn cho không một con chỉ đỏ. Nhưng ai nhận của ông cho rồi phải ra hàng uống chung với ông một bát rượu - ông Sìn bắt thế.

Người ta sợ chết khiếp, chẳng ai dám uống rượu ông Sìn. Bởi vì uống thế thì khác nào mượn bát rượu mà thề lấy nhau.

Mặc ông Sìn mời khéo và đưa cho tha hồ ngắm nghía những con chỉ đỏ mỡ, óng mượt, và thân hình ông ấy cũng béo trắng những mỡ, mồm ông ấy cười đầy răng vàng, ông thật là giàu nhưng chỉ có vài cô gái Nhắng, gái Thái, gái Lừ, là người hầu quan hay bọn vợ lính ở trại con gái dưới châu Yên lên, các ả này ra uống rượu để được ông Sìn thưởng cho chỉ đỏ.

Chợ chỉ đông những người đi xem, người đói, người cả đời không biết mặt hạt muối và những người lũ lượt kéo đi tìm muối, tìm lưỡi cày. Chợ chỉ nhiều những người ấy.

Muối ông Sìn bán riêng một chỗ đằng kia. Cả ngày cả đêm quanh hàng muối, người cứ nghìn nghịt leo lên nhau, chồng đống như đá đè. Tiếng chửi rủa kêu khóc lúc nào cũng vang một góc núi. Chẳng mấy hôm không có người chen mua muối bị chết bẹp.

Những ông già về chợ, chẳng xem mà cũng chẳng muốn mua. Những ông già nằm giữa trời hút thuốc phiện, có người vợ lụ khụ che ô ngồi bên cạnh.

Những người khác thừ mặt, mắt thờ ơ nhìn đi đâu. Họ quây quanh cái bàn bày rượu, uống đã tàn mấy chồng bát, cứ hớp cạn một bát lại cãi cọ nhầm bát chưa uống. Say rồi ngã ra đấy.

La liệt người say nằm khắp nơi. Người vợ nhẫn nại lẳng lặng mở ô che cho chồng say vừa ngã thiếp xuống giữa đường mà còn quềnh quàng quơ tay lên như vẫn đang chen mua muối! Đến lúc nào tỉnh, người vợ chạy đi mua cho chồng bát thắng cố đem ăn với bột ngô. Có gói bột ngô, bấy giờ mới chịu lấy ở địu ra, cùng ăn.

Chợ ấy có cái đông, có cái khổ, lại có cái buồn, đủ cả.

Trai gái thì nhởn nhơ đằng kia. Các cô các cậu mới nhớn lên, còn chưa quen lo, không biết cạnh đấy có những người vợ nhịn nhục ngồi như đá mọc, che ô suốt buổi chầu chồng vì bực tức, uất ức mà say rượu, say thuốc phiện đến thế.

Cô gái thắng bộ váy áo mồi, đứng thành dẫy, lưng tựa vách đá. Trước mặt, các cậu mặt rượu đỏ bứ, cầm khèn, thi nhau thổi bài khèn "xuân". Cậu thì nhảy vòng rộng điệu "đi chơi”, cậu đương lò cò điệu "cuốn chỉ" sang qua sang lại. Tiếng khèn vun vút nâng nhịp bài "múa hát" rộn ràng. Các cô vuốt dải khăn đào, mủm mỉm, nhìn theo người trai tài hoa đã khéo thổi khéo múa gắng vượt qua cả ba điệu khèn "xuân” mồ hôi vã đầy mặt rồi mà vẫn nhấp nhô đánh gót, tung cả hai chân lên, thật tài, ai cũng mê.

Đằng góc chợ trước bỗng nhốn nháo. Tiếng kêu, tiếng quát chửi ầm ầm. Mấy chị người Dao nhút nhát bưng địu chạy. Như có cướp có cướp đến phá chợ.

Nhưng không, đấy là toán lính dắt ngựa nhà quan thống lý đến lấy thuế. Mười con ngựa đi lấy thuế, lưng đeo những chiếc giỏ to kệt, xồng xộc vào thẳng giữa đám đông. Người chen ngột lên, lại quát, lại kêu, lại chửi, nhốn nháo chẳng biết tiếng người đi chợ chửi quan hay tiếng lính chửi người ta.

Lính lấy thuế mà thu đủ các thứ, đầy đến ních mấy chục cái địu, trĩu hai bên lưng ngựa mới thôi. Ai bán bắp ngô nộp thuế ngô. Mười lạng thuốc phiện thu một lạng. Người Lừ đi bán ba cái túi cũng phải nộp thuế một. Tấm vải Thái tốt lành, lính đem lục tung ra, cắt lấy hai sải. Ông cụ người Hà Nhì đi chợ bán ghế mây phải nộp thuế sống hai chiếc ghế. Bà già người Dao tần ngần đưa ra cho chú lính nhận hai xâu men rượu. Rau thì lấy đủ hai thồ rau cải, mấy chục bó hẹ. Còn lính vào hàng lính ăn, lính uống, lính lấy gì, không kể như thuế.

Ngựa quan đến đầu, lấy thuế hai bên hàng chợ đến đấy, đến đâu cũng lại dậy lên tiếng kêu, tiếng thét, tiếng đập đánh và người chửi, người chạy.

Lính dắt ngựa thuế ra đến tận vách núi chỗ trai gái đứng chơi, tìm người bán hàng. Đám chơi không phải thuế. Nhưng các cô gái sợ lính, chạy tỏa đi. Mấy anh nhảy khèn đương hăng thế mà cũng ngơ ngác lủi mất. Tan đám.

Bọn lính thu thuế ra khỏi, cái chợ vừa ngớt kêu khóc, ngớt chửi, lại thấy đằng trước mặt rầm rầm những người chạy dạt ra. The thé có tiếng kêu:

- Chết rồi! Chết rồi!

- Ma! Ma!

Trông ra, chỉ thấy Thào Nhìa và bé Mỵ.

Thằng bé Thào Nhìa nhợt nhạt. Vệt sẹo trên trán nó kéo dài tận mang tai trái, rét quá, thâm sịt lại.

(Năm trước, Nhìa đương ngồi đầu nhà, có con gấu đi qua, tát một cái vào mặt. Vết đau khỏi, để lại chiếc sẹo dài, tím bầm ngang trán).

Lúc ấy, Thào Nhìa và bé Mỵ, hai anh em đứng đầu chợ, một đứa che lưng một cái tết đệp đay móc đen, tóc sã bết kết xuống. Chẳng khác hai cơn gấu nhỏ vừa chui từ trong rừng kín ra núi tranh trống, đương còn choáng váng, ngơ ngác, tựa vào nhau để chống đỡ phòng những con thú khác xông tới cắn nhết.

Cả chợ lại nháo nhác.

Thào Nhìa và bé Mỵ, hai anh em đưa nhau đi chợ thật. Mỗi Tết, đến ngày chợ, mẹ vẫn cấm không cho các con xuống chợ. Mẹ sợ các con gặp người dữ, họ giết mất.

Các làng đổ về chợ, lũ lượt qua dưới cửa rừng, hôm nào cũng đông. Đứng tận trong im vắng rừng sâu vẫn còn nghe vẳng vào tiếng khèn than thở, tiếng vòng bạc róc rách cổ tay các cô gái đi chợ - Thào Nhìa cứ đoán rồi bảo em thế.

Thào Khay thì chẳng tò mò háo hức gì cả. Mới hơn mười tuổi Thào Khay không thiết chợ, Thào Khay chỉ chăm đào củ mài và bẫy chuột.

Thào Nhìa lớn hơn, đã đến tuổi thổi sáo. Thào Nhìa tìm cây trúc khoét ống sáo ngồi thổi một mình trong rừng. Tai mình lại nghe tiếng sáo của mình, chỉ thấy buồn và sinh nghĩ thêm. Thào Nhìa thèm đi chợ, thèm thấy người. Bé Mỵ nghe anh kể có nhiều các cô gái làng đi chợ thì thích, bé Mỵ cũng mong được xuống chợ.

Nhưng mẹ nói:

- Con ơi, mày xuống chợ thì người ta giết mày.

- Sao người ta giết, hả mẹ?

Lời mẹ dọa cũng không khiến bé Mỵ sợ.

Hôm ấy, Thào Nhìa và bé Mỵ ra nương - mẹ tưởng vậy. Thế là hai anh em chạy luôn xuống chợ Phiềng Sa.

Anh em Thào Nhìa ở rừng từ năm còn nhỏ dại, chưa biết chợ, không biết thế nào là cái chợ. Bây giờ mới nhìn ra cái chợ thật khác cái rừng. Cái chợ đầy người, đầy khói thịt thơm, gì cũng thấy lạ, thấy sướng.

Thào Nhìa muốn lân la đến chơi chỗ đám trai gái ríu rít khèn sáo kia. Nhưng không dám. Thào Nhìa chỉ đứng mãi đằng này, bên cạnh cái lều người nhà ông Sìn đương nhộn nhịp nấu cao hổ và đóng hàng - hàng mua đến đâu, đóng dần đến đấy.

Thào Nhìa nhìn vào đám chơi trong chợ, mê quá, rút ống sáo ra lăm lăm cầm tay. Bé Mỵ thì đương mê mải hoa cả mắt vì những con chỉ đỏ óng nuột lắc lắc trên tay một ông răng vàng, béo tròn, béo trắng. Mũi bé Mỵ muốn ngạt vì mùi chảo nước suýt thắng cố. Vô số người chầu quanh chảo có người cầm muôi cắm cúi múc vào trong chảo. Mới trông người ta húp đã thấy ngon, nếu được ăn thì ngon đến đâu.

Đứng xa tận đây, khuất quá. Dần dần, càng thích thì bạo hơn. Thào Nhìa không còn nhớ hai anh em là "con nhà Giàng Súa có ma" vừa ở rừng xuống. Thào Nhìa chỉ thấy mình đương đứng giữa mọi người, như mọi người. Thào Nhìa dắt em mon men ra chỗ trống.

Bỗng có người dáng chừng nhận ra, kêu choáng. Thế là bốn bên đã đầy những tiếng kêu, tiếng quát:

- Lũ ma nhà Giàng Súa kìa!

- Ma! Ma! Ma!

Cả cái chợ, lần nữa, lại nhốn nháo như có cướp đến.

Đầu tiên, Thào Nhìa ngớ ra, không hiểu. Mình đi chợ, sao người kia sợ? Không phải. Anh em mình là trẻ con, ai sợ gì mình? Có phải không? Sau nghe tiếng hô hoán mỗi lúc một to, Thào Nhìa lại nhận thấy nhiều người đương sừng sộ chạy đến, hầm hầm muốn giết hai anh em - như mẹ đã bảo thế. Thào Nhìa liền lôi em đi. Mỵ cuống quýt giằng tay anh ra. Mỵ đương thích xem các thứ ở chợ. Mỵ không nghe tiếng quát, Mỵ không biết, Mỵ không sợ ai hết. Nhưng Nhìa thì thào rít vào tai em: “Mẹ bảo rồi! Người đến giết mình kìa!”. Mỵ nhớ ra. Thế là hai anh em bỏ chạy.

- Bắt! Bắt nó!

- Ma chài muốn làm chết cả cái chợ này đây!

- Chết thôi!

- Bắt nó!

- Trời ơi!

Những người già đương nốc rượu lại hò bắt rầm rĩ nhất. Các tay say thuốc phiện vẫn nằm bẹp đấy thì cứ nhắm mắt mà kêu. Các ông rượu đứng lên, một chân bước ra một chân lùi vào, lắc la lắc lư quanh quẩn vẫn một chỗ. Và chỉ lát sau, các bàn rượu tiếp tục bề bộn, từng chồng bát xếp ra với đủ mọi chuyện cưới xin, mua bán, vay nợ, mai ai bán muối, mua lưỡi cày ở đâu và những chuyện thân nhau hay thù nhau, muốn giết nhau. Người tư lự thì chống tay lên má, mặt rượu lẩn mẩn thần ra, im im. Lại như lúc trước.

Đằng kia, đám đông chen mua muối càng chồng đống lên. Người nhà ông Sìn đứng bán muối đương kêu mệt, sắp nghỉ bán. Thế là cái giọng nó muốn vòi tiền đấy. Cố chen vào nếu không lại phải khổ đận nữa, phải vào quỳ lạy tận nhà ông thống lý, phải có thuốc phiện bỏ ra thì mới đổi được muối. Mặc người kêu dưới chân, người hét sau lưng, có người tắc thở, đương giẫy đành đạch tụt xuống, cũng không ai buồn ngoảnh ra. Tất cả cứ húc, cứ đạp thục mạng.

Còn sót lại có một anh trai mải nhảy khèn quanh mấy cô gái đứng tựa vai nhau, mặt đỏ lừ. Các cô đương truyền tay húp nốt bát rượu. Truyền đến anh thổi khèn giỏi nhất còn lại thì anh ấy đã chạy lao vào đám xúm xít mua muối lúc nào rồi.

Cũng không ai còn bụng dạ đuổi bắt hai đứa trẻ nhà ma Giàng Súa nữa!

Thào Nhìa và bé Mỵ chạy trốn qua cái khe dưới mé đồi giữa chân đồn quan ba với nhà quan thống lý. Trên lô cốt lởm chởm đá tai tường, có lính đứng thò súng xuống. Những hòn đá to tướng như đương lăn theo.

Trên đầu hai đứa trẻ, bóng đồn cao và bóng nhà thống lý sập xuống. Nhà thống lý thì oai nghiêm như cái núi. Lúc nào cũng lũ lượt có đến mấy chục người cõng nước dưới suối lên, chia nhau đi đổ bể nước bên đồn và đổ vào ao cá bên quan thống lý.

Được quãng xa, Nhìa và Mỵ đứng lại. Hai anh em vẫn thèm chợ, muốn trở lại. Nhưng trông lên đồn thấy những cái tai tường và mũi súng, thì hoảng quá, lại chạy. Hai anh em đã chạy xa.

Một lúc, lại đứng lại, lại thèm chợ. Và không hiểu tại san người ta đánh đuổi chẳng cho anh em mình đi chợ?

*

Buổi chiều ấy, gió lại nổi dữ. Mỏm núi tranh đương vàng bỗng sạm đen, ngả tối chóng quá.

Mỗi cơn gió lùa vào rừng sâu đưa theo nhiều tiếng động mới lạ, bà Giàng Súa cứ nghe, lúc thì náo nức muốn vui, lúc lại càng ảo não. Một đời người không ai lại nghĩ mình có lúc phải chui rúc lấp mặt xuống chân rừng thế này. Cha ông người Mèo bao giờ cũng muốn ở chỗ nào suốt đời được ngẩng lên thấy trời.

Cho nên, những tiếng xa xôi ngoài núi tranh đầy những làng xóm đã làm cho người tù trong rừng càng khát nghe. Bà Giàng Súa thèm nghe tiếng gà lợn kêu điếc tai, con bò rung chuông, con ngựa lọc cọc trên đá. Tiếng ai đương gọi vọng ra nương. Một con chim đỏ như lửa nỉ non hót. Trong sân đá xếp quanh tường. Chen giữa những cây mận, cây lê, có cây đào và một dây bầu lọ xanh xanh vừa nhú quả. Nhớ làm sao những ngọn nguồn cơn vui trong núi chiều, những buổi đi làm từ mờ sớm đến mờ tối ngoài nương, suốt ngày mọi người cuốn trong công việc.

Bà Giàng Súa cứ ngồi nghe và nghĩ vu vơ thế. Ba đứa con đều như mẹ - cả bé Mỵ cũng đã biết rầu rĩ rồi. Bốn mẹ con châu đầu, lặng im đến tận lúc nào thằng Nhìa nhớn nhất cũng lăn ra ngủ. Cả túp lều co ro chìm vào lối đi ăn đêm của thú rừng. Có con hươu sợ hổ bắt, lúng túng chạy, đụng lưng cả vào vách.

Tối ấy, trong gió đưa tới túp lều nhà bà Giàng Súa nghe có tiếng sáo và nhiều tiếng ngựa. Tiếng quát, tiếng người rít chửi rõ mồn một. Hẳn là ông khách Sìn đương thúc người nhà đóng hàng lên thồ để ngày kia xuôi được sớm. Bà Giàng Súa đoán sắp đến ngày tàn chợ, khách Sìn lại đi rồi.

Thào Nhìa đã dặn em giấu đừng nới mẹ biết chuyện xuống chợ. Nhưng bé Mỵ vừa về đã kể hết với mẹ. Mẹ sợ quá, bảo Nhìa:

- Rồi có lần mày chết không trông thấy mẹ đâu.

Thào Nhìa cúi đầu. Nhìa không cãi lại mẹ. Nhưng Nhìa vẫn băn khoăn không hiểu sao người ta lại đuổi đánh mình. Và Nhìa càng thèm xuống chợ. Mẹ không nói gì nữa. Nhìa cũng không dám hỏi mẹ. Bà Giàng Súa lặng im.

Lửa bếp đã vạc từ lâu. Không đứa con nào trông thấy mẹ ngồi thầm trong vách. Nước mắt đầm đìa mặt mẹ mà mẹ cũng chẳng biết. Từ lâu, bà Giàng Súa đã nghĩ rằng dù sao thì ngày hôm qua còn tốt tươi hơn ngày hôm nay và đời người thì ngày càng tàn, tàn dụi như cái củi nào rồi cũng cháy đi thành than.

Bé Mỵ chưa ngủ được. Bé Mỵ hãy còn mê lên vì cái chợ. Nó bảo mẹ:

- Mẹ ơi! Mẹ kể chuyện chợ ông Sìn nữa đi, chợ ông Sìn ngày trước có những gì?

Xuống chợ, thấy hàng trăm thứ không hiểu, bé Mỵ còn muốn hỏi mẹ hàng trăm câu.

Mẹ vẫn hay kể chuyện chợ ông khách Sìn ngày trước - đã thành tên người làng gọi "chợ ông Sìn". Mẹ kể cho con nghe những thứ mong ước thiết tha từ thời con gái mà bà cũng chưa bao giờ biết, chưa bao giờ có, những tấm vải xanh, vải đỏ mới, những con chỉ đỏ thêu cổ áo, cái kim sào tốt, hai thứ hạt tiêu đen, hạt tiêu trắng, hạt tiêu chữa bệnh đau bụng, người đẻ được ăn chục hạt tiêu thì nhiều sữa và khỏi đau bụng... Chuyện những cô con gái đi chợ không hay ăn thắng cố, chỉ thích bánh ngô nướng và bát cháo đặc của người Xạ Phang bán - bà Giàng Súa biết cả. Nhưng bà cũng chưa được ăn.

Bé Mỵ nghe mẹ kể những chuyện giống nhau như thế đã bao nhiêu lần, từ khi cô bé đến tuổi biết nghe chuyện mẹ. Mà lần nào mẹ kể nghe cũng đều hay. Nhưng hôm nay mẹ không trả lời con hỏi, mẹ không kể chuyện chợ nữa, mẹ nói:

- Không được đi chợ đâu. Con gái ngày trước đi chợ đã có đứa hư, quên họ người Mèo, đi theo ông khách Sìn.

- Đi có về không, hả mẹ?

- Nó không muốn làm người Mèo thì chẳng nhớ được đường về nữa.

- Khổ nó.

Mẹ bảo:

- Đừng thương đứa quên đường. Chỉ thương người không về được thôi.

- Ai không về được, hả mẹ?

Mẹ im, không đáp. Mẹ động lòng. Lát sau, mẹ thở dài:

- Ông thống lý thường bắt người đi tải hàng cho khách Sìn. Năm nào ông Sìn cũng lấy đi được nhiều của cải của người Mèo, ngựa thồ không hết, phải bắt người đi tải thêm. Năm nào lấy người đi...

- Chắc đi xa lắm, mẹ nhỉ?

- Ừ.

- Rồi có về được không?

Đêm xuống, rừng lạnh buốt.

Tiếng chân ngựa dồn dập nổi lên xa xa. Những tiếng chân ngựa khủng khiếp đời bà Giàng Súa. Rồi một ánh đuốc đến vung tròn ngoài sườn đá.

Tiếng hỏi rít vào:

- Thằng Nhìa có đây không?

Thào Nhìa nhỏm ngay dậy:

- Có.

- Vào ông thống lý có việc quan.

- Việc gì thế?

- Tải hàng ông Sìn.

Mẹ kinh hoảng, kêu:

- Con ơi!

Thào Nhìa luống cuống áp mặt vào vách, hỏi ra:

- Bao giờ?

- Đi ngay bây giờ.

- Không đi đâu! Tôi không đi đâu.

- Muốn sống thì mau lên. Tao còn phải đi gọi đứa khác đây.

Bà Giàng Súa gào to:

- Trẻ con mà cũng đi tải hàng!

Tiếng quát vào to hơn:

- Mau lên! Chết cả bây giờ!

Ông thống lý đã gọi mà không nghe thì chỉ có đợi chết thật.

Bà Giàng Súa sợ quá, hỏi lạc, tiếng không ra khỏi vách:

- Bây giờ đi à?

Người dõng ở ngoài càng xẵng:

- Tao hết đuốc bây giờ thì tao dỡ nhà mày ra làm đuốc đấy.

Bốn mẹ con đều rú lên.

Thào Nhìa lật đật chạy ra. Người dõng cưỡi ngựa, dong cây đuốc theo sau.

Chỉ nghe tiếng khóc nức của Thào Nhìa vẳng lại, lẫn vào tiếng vó ngựa lạt sạt trên cỏ tranh.

Sớm hôm san, ba mẹ con bà Giàng Súa ra đứng ngoài mỏm núi.

Đoàn ngựa ông khách Sìn đã xuống tới đầu dốc. Khác lúc lên, còn nặng hơn cả lúc lên, chiếc nạng thồ bây giờ lún chặt dưới những kiện hàng cao ngất.

Ông chủ ngựa họ Đèo, tay cầm roi, mặt xám như cơn mưa chiều. Không có ngựa nhất ngựa nhì dẫn đường, ông Đèo cưỡi ngay con đầu, tự mình dắt cả đàn ngựa. Đàn ngựa khuất xuống chân núi bên kia rồi, mà còn tiếp theo một đoàn dài những người đi thồ hàng thay ngựa. Lính đồn đeo súng áp tải sau. Năm nay ông Sìn về Phiềng Sa lấy được nhiều hàng, phải bắt thêm những hơn ba mươi người phu tải.

Ba bốn ngày đường xuống, người đi bốn năm ngày rồi thế mà khi quay đầu lại vẫn nhìn thấy chỏm núi quê. Và người đứng trên núi nhìn theo, sớm nào cũng tưởng người còn đi quanh trong nẻo rừng trước mặt.

Nhưng ngày này sang ngày khác chỉ thấy mây mù từ nách núi dưới ấy đùn lên.

*

Mấy hôm sau, bọn lính đồn trở lại, kể chuyện:

Đoàn ngựa ông khách Sìn bị cướp đón đánh ngay giữa lưng dốc. Lão chủ ngựa họ Đèo phải cướp đâm thủng bụng, ngã ngựa, chết ngay. Chắc hẳn lại chuyện các chủ ngựa tranh ăn, thù nhau giết nhau.

Mỗi buổi sáng, bà Giàng Súa đứng nhìn xuống núi. Nó đi nửa đêm, nó đi buổi sang. Khi đêm gió thổi, khi sáng mặt trời lên đầu núi, lại tưởng ra lúc nó đi.