← Quay lại trang sách

- II -

Không đếm được, bà Giàng Súa không còn đếm xuể được rồi về sau còn những mấy năm phải chạy chỗ đổi rừng ở nữa!

Chỉ nhớ một lần ngước mắt nhìn đằng xa thấy trong làng có người ra cày như vạc núi, xả núi cho những luống đất xám vờn khắp các triền bên kia, thấy hoa thuốc phiện sặc sỡ nương nhà ai, thì biết đã lại sang mùa mới.

Nhiều năm đã qua. Con nguồn chảy ra suối, con suối chảy ra sông, năm này năm khác của con người thì không biết chảy đi đâu.

Một lần kia, bà Giàng Súa vào rừng kiếm rau ăn, gặp một cụ già Mèo. Bà cụ này vẻ lạ người, lạ váy áo, chắc tận đâu đến. Người nghèo thường đi như vậy. Ngay cả những người nghèo sắp chết, mà còn gặp bao nhiêu lo lắng, vẫn phải lang thang đi tìm đất mới, núi mới. Cơ chừng từ xa đến, cụ già ấy không biết bà Giàng Súa ở rừng một mình, chưa được làng xóm cho nhạt ma, chưa được trò chuyện với mọi người.

Cụ già ấy cùng bà Giàng Súa đứng lại, nói chuyện.

- Bà ơi! Bà có biết dưới làng Xá mới bắt được một người Mèo trôi từ ngoài suối Nậm Ngù vào.

Bà Giàng Súa sợ hãi, khép hai mảnh vạt áo đã rách mòn hở lên đến ngang ngực, cúi đầu, nới khẽ:

- Tôi không biết đâu.

Cụ già kể:

- Sáng hôm ấy có người Xá trong làng ra suối Nậm Ngừ bắt cá, gặp một người đàn bà Mèo đương đứng soi mặt xuống nước. Người Xá hỏi: Làm gì thế? Người đàn bà Mèo không nói, chỉ cười, trỏ tay xuống dòng nước chảy.

Người Xá lội ra xem thì thấy một con hổ to nằm chết trong lòng suối. Bây giờ người đàn bà mới nói: Chồng tôi ngã chết đuối ở suối này. Hai vợ chồng tôi là ma, không phải là người đâu.

Người Xá khiêng xác con hổ và dắt người đàn bà ấy về, đem ngâm cả hai vào vũng nước cứt trâu dưới sàn nhà.

Được vài hôm, con hổ sống lại, cầm cái nón đội lên đầu, hóa thành người đàn ông mặc áo vàng. Người đàn bà cũng ngồi dậy. Cùng nhau nhận vợ chồng, từ lúc ấy không phải là ma nữa. Hai vợ chồng người Mèo bèn quỳ lạy, ơn người Xá cứu sống.

Người Xá mới hỏi:

- Xưa kia thì quê ở đâu?

Người chồng trả lời:

- Tôi là người Mèo quê tận Phiềng Sa kia.

Nghe xong câu chuyện, bà Giàng Súa rùng mình, mất một lúc mới nới được:

- Con tôi..

Cụ già nhìn kỹ bà Giàng Súa, rồi hỏi lại:

- Con bà đấy ư?

- Tên nó là Thào Nhìa.

- Bà ơi! Bà đã biết đường ra suối Nậm Ngù chảy qua dưới làng Xá chưa?

Hỏi thế rồi cụ già đi. Con suối nhẹ nhàng lượn ngang ống chân, như con rắn luồn qua.

Từ đấy, lần nào bà Giàng Súa vàn rừng kiếm cái ăn, cũng để ý tìm cụ già người Mèo lạ.

Nhưng không bao giờ gặp lại.

Có lúc bà Giàng Súa nghĩ cụ này cũng chỉ là ma thôi. Ma tận đâu đến, thế thì cái làng Xá ở suối Nậm Ngù chắc xa lắm. Bà Giàng Súa biết làm thế nào đi tới được!

Có lúc càng nhớ, thì bà Giàng Súa lại ngỡ như hôm ấy chỉ là mình chiêm bao giữa đường và nói chuyện một mình. Người đi rừng buồn bã, mình vẫn nói với bóng mình thế, chứ chẳng phải gặp ai đâu. Người già cũng giống trẻ con, hay trò chuyện một mình. Thương nhớ quá thì tưởng ra thế thôi. Có phải thế không?

*

Mười năm đã qua.

Vào một năm nào đấy, bỗng dưng quan đồn đem hết lính đi đâu. Người nói sang Lào, người nói sang Vân Nam. Cả nhà thống lý Mùa Sống Cổ chạy theo.

Mới được mấy ngày, chưa kịp bàn tán hết câu chuyện, lại thấy quan Tây, quan Mèo trở về, vẫn ở trên đồn dưới châu như trước. Ai cũng bảo: bờ rào chưa mở đã lại đóng kỹ hơn rồi[4].

Nhưng chẳng may từ đấy không năm nào còn thấy đoàn ngựa buôn của ông Sìn về. Động rừng động suối, người đói bỏ đi vãn cả núi.

Dù thế nào mặc lòng, trước kia, hàng năm có ông Sìn đến... đoàn ngựa thồ hàng ông Sìn mà về thì như trông thấy còn có ngày đứa con trở lại.

Bây giờ thì không còn gì trở lại để nhớ, không còn khi nào ngước nhìn ra chờ đợi. Mặt người bây giờ âm thầm như rừng sâu. Bà Giàng Súa không chờ, không nhớ, không biết gì nữa.

Trong khi ấy, người qua ngoài rừng càng đồn đại: Trời đất các nơi đã đổi khác cả rồi.

Có một năm, quân Chính phủ đến.

Mùa đông năm 1947, nhiều tổ võ trang tuyên truyền Xung phong Quyết tiến của đội trưởng Long Mèo chỉ huy đã tiến sâu vào vùng tạm chiếm Tây Bắc, lên gây những mối cơ sở đầu tiên trên đất Lai Châu.

Rồi đoàn cán sự tỉnh, các tổ võ trang tuyên truyền huyện đi tiếp theo. Đồng chí Hồng Dương vào Tuần Giáo, đồng chí Chung vào Điện Biên... Các tổ Xung phong Quyết tiến giao lại cơ sở quần chúng Lai Châu, rồi tiếp tục phát triển ra biên giới.

Quan Ba phải gọi thêm quân lên giữ đồn. Nó càng giết người, làm ác hơn nữa.

Nhưng cũng từ đấy, nhân dân đã có cách mạng, không chịu cúi đầu như trước. Cán bộ đã về, cùng nhau quyết đi lấy lại đất nước.

Người tốt truyền tai nhau, nói: "Chính phủ đã đến, ta được cha mẹ về dìu dắt đi cùng rồi". Không theo quan Ba, bỏ thống lý, bỏ cả mua muối trên đồn, người Mèo đi với cán bộ. Có những nơi như Pá Nhung, như Điện Biên, như Long Hẹ, cả vùng làm thế.

Giặc Pháp sục vào rừng, dồn ra. Nhưng không được. Người lại chạy vào rừng lập khu du kích. Ai nấy tin có ngày trời sáng khắp rừng, có ngày được thấy đất nước của ta.

Mẹ con bà Giàng Súa vẫn thui thủi sống trong các hốc đá. Một hôm, có một người lạ tìm đến hốc đá. Bà Giàng Súa quì sụp xuống, Thào Khay không kịp trốn, rúc vào trong hang.

- Người nhà quan… người nhà quan…

Bà Giàng Súa lẩm bẩm. Cán bộ nhấc bà Giàng Súa lên:

- Bà Giàng Súa ơi, tôi không phải thằng quan đâu.

- Ai đấy?

- Tôi là cán bộ.

Cán bộ nói cho bà Giàng Súa nghe nhiều chuyện. Nghe ra thật bỡ ngỡ, đâu bây giờ cũng khác cả. Rồi đồng chí cán hộ bảo:

- Bà Giàng Súa ơi, bà Giàng Súa đi theo tôi...

Thào Khay bước đến, nắm tay anh cán bộ, kêu: "Tôi đi với!”.

Ba mẹ con ra khỏi cái hốc đá.

Ba mẹ con theo cán bộ. Tự nhiên, mạnh bạo, không sợ gì nữa.

Đã bao năm, bây giờ mới lại có ngày được trông thấy nắng từ sáng đến chiều. Ba mẹ con về ở với nhân dân khu du kích bên kia núi.

Khu du kích không giống ở làng ngày trước, chẳng ai thấy bà Giàng Súa có ma. Không ai còn thì thào con mẹ Giàng Súa có ma. Không ai đánh, không ai đòi đem giết bà Giàng Súa. Cách mạng đã đem bà Giàng Súa về và giới thiệu rằng bà Giàng Súa cũng như mọi người, biết yêu đất nước, ghét thằng Tây, vì thèm được có đất nước sung sướng nên cùng mọi người một lòng đánh thằng Tây.

Những điều mới lạ, thật mới lạ. Bà Giàng Súa tin có điềm lành đến thì bỏ được cái khổ. Những điều tốt lành đã đến, làm cho lòng người khô cạn bỗng dưng hồi hộp chợt vui như đầu năm thấy con chim én về làm tổ trong mái nhà.

Thào Khay đã lớn, gần trạc tuổi Thào Nhìa năm trước. Thào Khay đã biết gài cái sáo trên gấu áo. Thào Khay giỏi cày nương, cành nhanh, cày chắc tay hơn cả bố ngày trước. Thào Khay mải mê đi theo các anh cán bộ, học hát, học chữ. Thào Khay khoe với mẹ thế. Thào Khay còn khoe với mẹ nhiều chuyện. Khay nói thế nào thì mẹ cũng vui.

Có hôm, bà Giàng Súa thấy Thào Khay về. Khẩu súng trường nhô cao hơn mang tai, khoác trĩu đằng lưng. Mẹ chưa hỏi, Thào Khay đã nói:

- Con đi công tác.

Rồi lại đi ngay. Lắm khi Thào Khay đi cả tháng không về. Cán bộ bảo: Bà Giàng Súa đừng lo, Thào Khay đi công tác. Người khu du kích rỉ tai bà Giàng Súa: "Thào Khay vào bộ đội, Thào Khay đã vào bộ đội đấy".

Dù Thào Khay có đi đâu, đi xa bao lâu, bà Giàng Súa vẫn yên lòng, không quản ngại. Thằng Khay đã biết cùng bộ đội đi đánh giặc. Trong khu du kích, ai cũng làm nương và đánh giặc lúc đánh xa lúc đánh gần, những công việc ai cũng biết. Thế nào thì mẹ vẫn thấy mặt con, mẹ còn gặp con.

Từ khi theo cán bộ về ở khu du kích, được làm người như mọi người, bà Giàng Súa nghĩ lại những ngày cực nhục ở rừng, nhiều đêm không chợp mắt. Bà Giàng Súa nhớ Thào Nhìa. Mẹ nhớ con.

Rồi đến một năm ấy xảy ra những việc thật to hơn cả đời người. Bộ đội Chính phủ lần này về cùng với du kích, đánh tan hẳn cái đồn. Có mỗi một đêm mà trông lên đồn lên châu chỉ còn thấy một đám khói đen. Bốn bức tường cao đổ xuống thành một đống đất đỏ. Những tảng đá chân tường, người các làng ngày trước phải khiêng đến, cạp lên, kiên cố thế, cũng long lở cả ra rồi. Thống lý Mùa Sống Cổ chạy đâu mất. Có người bản quan Mèo đã trốn sang bên kia biên giới.

Cả chín châu mười mường đều thấy bộ đội về. Đi đâu cũng nghe nói: "Đất nước thật đây rồi! Đất nước ta thật đây rồi!".

Bà Giàng Súa về làng cũ, làm nhà ở thênh thang ngoài núi tranh, như mọi người. Nhà mới mọc khéo đông đúc tựa bát úp. Người từ dưới lên, mới tới ngang dốc đã nghe tiếng chuông loong coong ở cổ con dê nhà ai đứng trên đầu mỏm đá.

Trong lòng bà Giàng Súa cũng nghe có tiếng nói:

- Yên vui rồi! Đất nước ta thật đây rồi.

Một đêm kia, bà Giàng Súa mơ thấy mình đương trở về mười mấy năm trước. Thào Nhìa, Thào Khay, Thào Mỵ, ba con hãy còn bé. Mẹ con hôm ấy đưa nhau đi đâu xa, giữa đường gặp một bà già người Xá. Bà Giàng Súa hỏi:

- Bà ơi, có phải đường này ra suối Nậm Ngù không?

- Phải.

Rồi bà người Xá hỏi lại:

- Bà ơi, có phải người Xá và người Mèo trời sinh ra cho làm anh em một nhà không?

Bà Giàng Súa đáp:

- Ngày xưa, có người Mèo hóa hổ chết đuối ở suối Nậm Ngù, trôi qua làng Xá. Người Xá ra vớt được, cứu cho sống trở lại làm người Mèo, rồi nhận làm anh em.

Bà Giàng Súa nhìn thấy thằng Thào Nhìa cất tiếng cười to nhăn cả vết sẹo trán

Giữa lúc ấy, ở khắp các nhà trong làng, những tiếng gà mèo gáy lắc lư, kéo dài, ấm như từ lòng đất vang lên. Bà Giàng Súa tỉnh chiêm bao. Nghĩ xa nghĩ gần, bà càng thương đứa con xa.