← Quay lại trang sách

- XXII -

Mùa mưa hết từ lâu. Con suối Nậm Ma hung hăng đã đổi nét mặt hiền từ, bây giờ bước qua suối chỗ nào cũng được.

Ở trạm Ná Đắng, các đồng chí thủy văn mới bắc cái cầu mây qua suối. Sợi dây tời kéo "cá sắt" đo lũ chưa kịp cất, còn chống lửng ngang lưng cây chò.

Trong đêm khô tạnh, tiếng con chim lạ ở đâu kêu, nghe lóng lánh như tiếng nước chảy canh khuya, khiến có lúc còn giật mình tưởng con lũ vẫn đuổi sau lưng.

Nhưng không. Những ngày đầm ấm cuối năm đã tới. Vải lanh để may váy áo mới đã phơi trắng đầu núi. Váy áo các chị suốt ngày hắc mùi lá lanh. Cố dứt việc để đi chợ, đi giữa chợ, hai tay vẫn hoa lên xe lanh. Và ở nhà, đến nửa đêm các chị còn tước lanh, tiếng vòng cổ tay vẫn lách cách bên kia vách. Nhưng mà vội việc may sắm thì bao giờ chẳng vui!

Những phiên chợ cuối năm lại nhộn nhịp, đầy mong ước. Mỗi người một cách mong chợ. ông cụ người Xá dưới Ná Đắng đợi chợ để lên mậu dịch mua cái lưỡi cuốc, mua cái chân chài. Cô Mỵ nhớ Nghĩa, cô giơ tay đếm từng phiên chợ. Nghĩa xuống khu họp, họp xong có lẽ lại đi phép về xuôi. Thảo nào, cô Mỵ cứ phải tính ngày chợ, bồn chồn đến thế. Cô Khúa Ly thì mong Thào Khay. Thào Khay cũng xuống họp dưới khu. Đến ngày chợ này Thào Khay đã về chưa?

Một chợ hai chợ, trai gái mong thương mong nhớ, và còn biết bao người yêu nhau, biết bao người có công việc đợi ngày chợ. Cán bộ Viễn, anh cán bộ thủy văn mới lên, nghe nói chợ Phiềng Sa vui, cũng náo nức thèm đi. Những anh chị vệ sinh viên các xóm về chợ đón thuốc muỗi DDT. Còn các thày giáo và cán bộ khảo sát đường, cán bộ địa chất đến đây, cố nhiên, ngày chợ trên vùng cao miền tây đối với họ đẹp như một ngày chủ nhật rồi. Các chị trong làng càng mong chợ. Nghe đồn cửa hàng vừa có vải chàm tấm in hoa trắng làm nền váy, khéo hơn cả hoa vẽ sáp. Các cụ, tay xách ô, tay xách điếu xuống chợ gặp bạn già, cùng nhau nhấm nháp bát rượu. Trẻ con mang lồng chim xuống chợ chọi chim…

Từng đoàn ngựa thồ hàng rộn rịch lên. Những con ngựa nông nhàn các làng Mèo đã rời cái tàu ngựa nhỏ quây cọc gỗ đầu nhà, ra đi chở hàng cho mậu dịch. Con ngựa nhà chắc lăm lẳm, sức cõng trên sáu mươi cân chưa kế nạng thồ, ba bốn ngày vượt dốc, mắt và tai vẫn tươi tỉnh, vó cất đều, đuôi phất như múa.

Mậu dịch đã sửa soạn hàng Tết. Nô nức, người các làng đổ về chợ.

Vẫn một thói quen cũ kỹ của tuổi già, mấy cụ người Hà Nhì đem hàng xuống chợ sớm nhất. Bó chân hương tăm mộc to như bó mạ, dựng la liệt từng cụm cạnh mấy xâu men rượu, với cả một địu bánh mật ủ kín lá. Vai địu thật khỏe, bắp nổi múi như đá tảng, các cụ còn hạ xuống nào những chiếu cói, nào ghế và mâm mây. Lại cả một cái hông nấu rượu vừa một người chui lọt. Một cụ đội cái hông nấu rượu lênh khênh cao vượt đỉnh đầu, phải cúi mới đặt nổi xuống đất.

(Cái hông nấu rượu to quá, chẳng phiên nào bán được. Bây giờ không mấy ai nấu nhiều rượu còn cần đến cái hông to thế. Tan chợ, mọi thứ đều bán hết. Phiên nào cũng chỉ còn ế cái hông. ông cụ đội về. Chợ sau lại chịu khó đội hông đi).

Các cụ người Hà Nhì bày hàng xong xuôi, ngước lên nhìn bãi chợ hãy còn sớm quá, còn vắng. Mới loáng thoáng mấy anh cán bộ địa chất, anh "khảo sát" áo xanh mũ "cát" mới. Họ đi chợ vác theo cả thước đo, bạt và cái chân gỗ máy ngắm!

Nhưng trong nhà mậu dịch, những cánh cửa hàng sáng cả bốn phía đã dựng gọn lên, đẹp tươi nguyên như tờ tranh màu của phòng thông tin. Nhân viên bán hàng đã tề chỉnh ra đứng quầy. Hai cô mậu dịch người Lô Lô có khuôn mặt trắng bầu lúc nào cũng đỏ ửng và mỉm cười. Một cô bách hóa, một cô bán vải. Ngày chợ, diện váy áo dân tộc, hai cô cùng đẹp như nhau: áo chẽn khuy chéo, hoa đỏ thêu rực rỡ trên ngực, cái váy vuông vắn bốn thước láng đen nhánh.

Gian cạnh đó, một thanh niên Mèo chăm chú thử thăng bằng chiếc cân treo để cân muối trong quầy thực phẩm. Hơi muối lên nước đã cọ đen kịt mặt gỗ. Anh cẩn thận xem lại cái cân. Chốc nữa, người mua nhộn nhịp, không thử được.

Trên bãi trước, các gian hàng đã đầy người và bộn bề đủ mọi thứ của một ngày chợ.

Bánh ngô, bánh dầy - có người đem bán, có người đeo đi ăn. Vừa đến chợ đã tìm đá kê để bắc bếp, quạt than hồng rồi nướng bánh nghi ngút.

Bên hàng rượu đã bày ra từng chồng bát.

Hàng "thắng cố" to nhất. Khách mua xúm.xít quanh cái chảo đương sôi sùng sục. Một làn khói đục, nặng, mơ màng ngào ngạt béo quyện lên quanh từng buộc thịt với xương, từng buộc mỡ với bạc nhạc. Trong chảo xếp một bó chân giò nào chân bò, chân dê, nào chân chó. Ông hàng người Mèo lại vừa ném thêm xuống chảo một cái đầu dê có hai con mắt lé lên, răng nhe như con dê còn đương kêu be be.

Mấy cụ già, lưng đeo ô, tay xách chiếc điếu cày. Các cụ vừa đến đầu chợ đã sà vào hàng rượu, ngửa bát. Bà hàng biết lệ đong ra mỗi cụ một ống nửa cân rượu đầy. Một cụ sẻ ra hai bát, tay nâng, mời cụ bạn làng xa về, cách đã mấy chợ đến hôm nay mới được gặp. Rồi thôi thì mọi chuyện đố ra, chuyện hợp tác xã đương lập, chuyện con dâu xấu con dâu tốt, chuyện đổi công chuyện lên hợp tác, chuyện đóng móng ngựa ở lò rèn ông Tỏa, chuyện con trai đi nghĩa vụ xuống dưới khu mới có thư gửi về, lại chuyện người bên Lào vẫn nhắn về khoe đế quốc Mỹ có cái tàu bay mười hai đầu…

Sôi nổi nhất, đã có lần, luôn mấy chợ, các cụ chỉ nói về cái thuốc DDT hay lạ lùng. Nhưng bây giờ, chợ cuối năm, hầu như cả chợ đều bàn tán, đoán trước, đố nhau xem chuyến hàng mậu dịch sắp lên có những gì.

Những chuyến hàng sắp lên làm xôn xao cả mọi người. Đầu ghế hàng rượu, một ông già nghiêng tai nghe đến méo hẳn một bên mặt, ông nghe ai nói đằng kia một câu gì chưa rõ.

- Khách Sìn thế nào…

Ông nọ cười khà khà, hút cạn nốt bát rượu, hỏi thêm:

- Cán bộ Nghĩa à?

Nhiều câu vằng lại, choang choác. Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Cũng không rõ ai nói ai hỏi gì nữa. Có người cất tiếng kể:

- Chính phủ ta mở chợ lập nên mậu dịch mà nó bảo...

Một người đương kéo dở điếu thuốc, bỏ tắt ngang, nói to:

- Ngày xưa có ai đã đếm được bao nhiêu người chết vì chen nhau mua muối chưa?

Người thì reo, người kêu. Chẳng biết vì căm thù những chuyện ác ngày trước của quan Tây, quan Mèo, hay còn tức cái đứa vừa đâm một câu nói ngang, dám ví cán bộ Nghĩa với khách Sìn.

Những cụ khác ngồi im. Tiếng tợp rượu êm nhẹ, lẳng lặng. Chiếc gáo múc của bà hàng khoan thai nghiêng cổ vò, đổ rượu ra, róc rách đều đều như tiếng con suối nhỏ chảy.

Một ông lão mà người ta nghi đã chót nói câu đâm ngang lúc nãy bây giờ đương bần thần, lẩn mẩn nói một mình. Còn ông lão vừa cất câu mắng, vẫn rỉ rả kháy:

- Này, có đứa cũng tiếc đấy, tiếc không còn lính đi bóp cổ đánh thuế. Không có lính uống rượu rồi vác cả vò đi, bà hàng này còn nhớ không? Thống lý ăn thuế mỗi vò hai cân rượu. Dễ thường nó còn tiếc cả bây giờ không có thằng Tây đồn giết người lúc nào cũng được.

Ông cụ bị mắng bỗng cười khà khà, nói vội một câu cộc lốc:

- Phải rồi, phải, nhớ ra rồi, không có thằng quan thống lý.

Có người đùa:

- Nhớ cả quan Mèo à? Thế thì đi lấy chân gà xem cái số thằng thống lý còn sống bên Lào hay chết bên Lào rồi mà theo.

- Đem chân con dê thối về mà bói.

Ông lão ngồi đằng kia bỗng dưng lại nổi giận, đứng dậy nói lung tung. Đám rượu các cụ ồn ào như một đám cãi nhau to.

Nhưng chợ vẫn đông người mua bán, người đi chơi quanh cái hàng rượu lộn xộn mà không để ý. Chỉ có mấy cụ bà tất tả chạy lại, xem cụ ông nhà mình rượu vào có sinh sự gì trong đám ấy không. Một đám trẻ đến đứng xem rồi cười ầm ĩ. Lúc sau mới yên.

Yên đâu đấy rồi, một ông cụ từ nãy vẫn ngồi lặng bây giờ mới đứng lên nói một hồi:

- Này, các người ở đâu về mà định giết người ở đây? Quên rồi à? Các người có còn nhớ ông Nhìa Páo ngày trước, năm nào chẳng giết được một con ngựa tải hàng khách Sìn, năm nào làng ta chẳng được ăn thịt ngựa tải hàng khách Sìn. Có năm Nhìa Páo còn bỏ được một lũ gián, một lũ dế vào tai con ngựa nhất ngựa nhì của lão chủ ngựa Đèo. Thằng chủ ngựa họ Đèo dưới châu Yên mất nghiệp từ năm ấy. Có ai nhớ không? Ông lão Nhìa Páo này cả đời không ăn một hạt muối, thế mà sống lâu thế. Chỉ tội nỗi trời làm lão điếc tai. Nhìa Páo không nghe tiếng gì đâu. Sao lại dám mắng lão, đứa nào còn mắng lão thì ông ném cái điếu cho vỡ mặt mày ra! Không bao giờ Nhìa Páo nói nhảm. Nhìa Páo có công với cách mạng đấy.

Nghe nói thế, những người say rượu lú lẫn mới ngớ ra nhìn ông. Nhìa Páo. Còn cái ông già một đời không ăn muối, ông Nhìa Páo ngày xưa lúc nào cũng thù đàn ngựa thồ hàng cho khách Sìn thì vẫn lẳng lặng ngồi uống rượu. Ông lão điếc chẳng nói câu nói ngang lúc nãy và cũng chẳng để ý gì đến xung quanh. Lão chăm chú nghiêng đầu như đương còn để tai nghe trên bát rượu ngô vàng óng.

Giữa lúc ấy, một người thét to:

- Ngựa mậu dịch lên kìa!

Thế là, kể cả các cụ vừa ồn ào cãi cọ quanh hàng rượu, cả dãy bán bánh ngô nướng, cả ông lão người Nùng bán chiếu, cả tay đôi tay tư trai gái thổi khèn và những đám người lớn trẻ con chơi chọi chim trước cửa trụ sở ủy ban cũng bỏ lồng chim lỏng chỏng đấy, hò reo chạy ra.

Nhưng không phải.

Đây là đám các đồng chí trưởng thôn và xã đội, cả cán bộ Mặt trận, cán bộ phụ trách xã ở những làng phía suối Nậm Ma lên trao đổi công tác với ban chỉ đạo. Mấy chị lên chợ cũng cùng đi trong bọn. Một anh bưu tá đeo túi thư đương vội vội lách ngựa vượt lên trước.

Đã thành lệ, cứ cách phiên, cán bộ cơ sở lại về ban báo cáo sản xuất và công tác, và đường thư đi "nhị yếu” cách ngày của người bưu tá ở xã cũng cứ chọn chợ mà về.

Ngày chợ trên vùng cao cũng là ngày công tác, ngày hẹn ngày chờ ngày chơi ngày nghỉ, nhiều vẻ. Trụ sở ủy ban xã và cơ quan ban chỉ đạo vùng cao Phiềng Sa, đến ngày chợ, như cái bến xe. Cả ngày tấp nập người tới người đi.

Những con ngựa Nậm Ma hiền, mảnh dẻ, leo dốc suối lên, dây cương chỉ vắt hờ vòng quanh bờm, con ngựa vẫn trật tự đứng phất đuôi nguyên một chỗ.

Đồng chí xã đội trưởng vội việc, vừa đến chợ, chẳng biết đã xin đâu hay mua đâu được một thùng những quả đào, chín muộn sứt sẹo vì trận mưa đá dạo nọ, đem đổ bừa ra đấy cho ngựa nhá tạm. Mấy con lợn cao lêu đêu xộc đến, tranh ăn với ngựa, cướp được quả đào nào thì tha ra xa, nhá côm cốp cả hột.

Lại nghe những tiếng nháo nhác khác:

- Ai lên dốc kia? Có phải hàng mới lên đấy không?

Một đám đông nữa dưới dốc đương lên.

Nhưng không phải hàng mậu dịch dưới châu Yên tới. Vẫn người dưới Ná Đắng lên chợ. Người Ná Đắng ngong ngóng đợi chợ, mỗi phiên càng lên nhiều.

Vui nhất những anh trai khăn vố, giày cỏ. Ná Đắng hay Phiềng Sa, người Mèo hay người Xá, tuổi trẻ ở đâu cũng mau quên và dễ thiết tha. Trên đường về chợ, họ gặp nhau, cùng xuống ngựa, cầm tay bạn, lấy chiếc hộp gương đựng thuốc lá ra đổi mồi thuốc cho nhau, rồi chuyên tay điếu, mỗi người hút liền ba bốn hơi, rồi mới lại lên ngựa, rong ruổi về phía núi xa.

Người các làng đi chợ vẫn đi lên từng bọn đông, khiến người trên chợ ngóng xuống, chốc lại giật mình, tưởng hàng dưới châu Yên đã tới.

Không, đấy là đoàn người địu diêm tiêu đến bán cho mậu dịch. Mùa này khô ráo, người trong làng rủ nhau vác chảo, xách ống nước, đem lương đi ở hang lấy diêm tiêu. Diêm tiêu bán được nhiều tiền. Có tiền, nhà nhà đua nhau tìm mua chiếc đèn pin vỏ đồng, đôi phích hoa đỏ, bao giờ cũng hỏi xem: có đủ cả hai chiếc phích vỏ đỏ mới mua.

Có anh cắm cúi cõng chiếc địu to. Trong địu nhơ ra cái gáy mượt lông, chiếc mõm hung hung đỏ hếch và hai con mắt tráo trưng. Con khỉ độc ấy ngồi thò cổ lên, bề ngoài nom có vẻ ung dung, kỳ thực bốn chân cu cậu đã bị trói chắc vào đáy địu. Du kích Ná Đắng mới bẫy được con khỉ, đợi ngày chợ, hôm nay đem bán sống cho cửa hàng thu mua.

Người Ná Đắng lên chợ mỗi phiên một đông hơn.

Trong đám về chợ có cụ già người Xá làm thày cúng ngày trước. Cụ đi với một đám thanh niên. Người theo ông cụ lên mua chân chài, cụ biết chọn chân chài tốt nước thép. Người đi học đúc cày ở lò chủ tịch Tỏa. Người về học lớp kế toán để về giúp xóm lên hợp tác.

Ông già nói:

- Các cháu ơi! Chúng ta cùng nhau đi học nghề rèn đúc. Thằng Tây bảo: trời không cho người Xá ruộng, trời bắt nó suốt đời phải cúi đầu, lấm mặt đi thổi lửa đốt nương. Thằng Tây chỉ nói lừa. Phen này ta được mắt trông thấy người Xá làm chân chài, làm được cày cuốc rồi.

Mùa cá vừa qua, ông cụ lên cửa hàng, tìm mua dây cước câu. Mua được sợi cước xanh, ông cụ hỏi:

- Chính phủ có bán chân chài không?

Người bán hàng đặt lên mặt quầy một bộ chân chài mới, xủng xoảng hàng trăm cái vòng sắt nhóng nhánh ánh thép. Ông cụ ấy sờ tay vào mà còn run rẩy chưa tin thật đấy là mắt mình đương trông thấy bộ chân chài. Có như thế, có như thế thật, cái chân chài, cái chân chài nuôi người Xá, bố mẹ để cho ngần nào của cũng không sánh được. Một bộ chân chài từ đời ông đến đời cụ để lại, nếu mất chân chài thì cầm bằng chết đói đến mất giống. Rách bao nhiêu lưới thì cái chân chài vẫn phải còn. Từ thuở trẻ, ông cụ đã vác chân chài đi kiếm ăn các suối, đến nay hơn bảy mươi tuổi mới trông thấy một bộ chân chài mới, thật mới.

Ông cụ người Xá nói với cô bán hàng người Lô Lô:

- Một đời lão già chưa thấy cái chân chài mới thế này, đồng chí ạ.

Cô mậu dịch bé nhỏ cười:

- Cụ ơi, cái này thì ở lò rèn cụ chủ tịch Tỏa bây giờ làm nhiều lắm.

- Thế a?

Ông cụ hỏi như reo rồi giơ cả hai tay ra hứng bộ chân chài, đứng ngước mặt lên trời. Những điều mà cả đời người Xá nghèo mong ước và đi tìm kiếm, đã thấy đây.

Ông cụ và đám thanh niên lên học rèn đúc vào thẳng lò rèn chủ tịch Tỏa.

Năm trước, dưới châu Yên tải cày cuốc mẫu Thái lên bán. Nhưng đất núi ác hơn đất ruộng, cày Thái không hợp. Người ta mua cày về, lại phải đem phá ra đúc lại lưỡi mới. Thấy thế, Nghĩa tổ chức thu mua cày hỏng và đề nghị dưới khu cấp gang để các “cửa hàng tư liệu” vùng cao cho gia công đúc tại chỗ.

Bây giờ mới thật lò rèn họ Vừ. Chủ tịch Tỏa mở lò rèn. Đâu đâu nghe tin cũng mừng. Chủ tịch Tỏa và các thợ bạn già vừa làm vừa truyền nghề. Người Thái, người Lừ, người Dao cả châu Yên, khắp các vùng cao biên giới từ sông Mã tít sang ngọn Nậm Kinh, Nậm Ma đều gửi người về học.

Đồng chí chủ tịch châu Yên nói:

- Cụ chủ tịch Tỏa ra giúp ngành công nghiệp, dạy nghề cho thanh niên đến hết năm nay thì nhớ truyền lò cho người khác, còn phải làm chính quyền đấy!

Xem ra chủ tịch Tỏa say sưa tổ rèn hơn công việc chủ tịch xã nhiều.

Lò rèn dựng trên lưng đồi sau chợ. Bễ lò thở suốt ngày như tiếng con suối to chảy. Những gian xưởng rộng thùng ra, như kiểu nhà người Dao lan tiển thường ở chung mấy gia đình một.

Trong gian đúc, đám người đến học nghề đông hơn thợ cả. Người gọt khuôn, người vùi lại chiếc lưỡi vừa rời khuôn đúc đã nguội xám mà còn bùng lửa trong đống mạt cưa ủ. Hai dãy lưỡi cày mới, nhẵn bóng, xếp nghiêng trước cửa lò, màu gang nom ngon tưởng ăn được, như những miếng bánh ngô tía.

Chủ tịch Tỏa úp nốt một mặt khuôn trên. Mấy người học việc nhanh nhẹn khiêng khuôn nghiêng ra, miết mạch đất thó rồi lót tay nhấc nồi nước gang đỏ rực, gạt hết than, đổ vội xuống lòng khuôn. Lửa xèo xèo bắn vào những miếng tạp dề da hổ che chân che đầu gối. Cái lưỡi cày nổi hình trong khuôn, ưỡn cong như lòng quả coỏng đỏ.

Chủ tịch Tỏa ra bắt tay ông cụ, rồi nói:

- Đương đợi người Ná Đắng!

Ông cụ người Xá quay lại, trỏ vào đám thanh niên đằng sau:

- Ná Đắng lên học rèn đúc đây. Ở đâu có Chính phủ thì có người Xá, ông chủ tịch đừng lo.

Chủ tịch Tỏa cười ầm, cứ quen tay giơ lên, lúc nào cũng như đương gắp miếng sắt trong lò ra.

- Không, không, khác trước rồi, khác trước rồi, cụ nhìn xem quê ta kìa.

Dưới kia, đương buổi đông chợ. Những chiếc ô đen, ô xanh xoay tròn bên cạnh từng đàn ngựa đứng phảy đuôi. Trông một lúc rồi ngẫm nghĩ, thấy khác trước thật.

Một dãy trụ sở, mậu dịch, bưu điện, trường học, cái trạm xá mười giường, có hàng rào râm bụt tím vuông vắn vây quanh, tất cả hiện ra dưới hàng cây sa mu xanh mờ.

Cái lồng chim nhỏ bé treo đầu hè nhà trường. Tiếng đàn của một đám học trò đương gẩy chơi ngoài sân. Trước bàn làm việc của thày giáo có tờ giấy lót bìa cứng, trên kẻ dòng chữ nắn nót "Tuổi trẻ với vùng cao" - dòng chữ thổ lộ tấm lòng bền vững, cao quý, đẹp đẽ của thanh niên các dân tộc anh em quyết tâm lên xây dựng vùng cao.

Trên đường xuống châu Yên lại thấp thoáng một đoàn ngựa đi lên. Hình ngựa in lấp lánh giữa hai hàng ruộng bậc thang. Giữa những vòng nước trên mặt ruộng đánh đai các mỏm núi quanh làng, giữa những luống cày rập rờn như làn sóng đỏ vờn lên tận chỏm núi. Có làm được ruộng nước, người mới có chỗ ở yên, cả dưới Ná Đắng bây giờ cũng thế.

Trước cửa lò rèn ở lưng đồi, một ông già người Xá và một ông già người Mèo im lặng nhìn xuống, trong lòng dào dạt tiếng trẻ nhỏ thánh thót đọc bài:

(Mùa Đảng chào kế...)

Có Đảng chỉ đường...

Cái “thị trấn" Phiềng Sa mà một đêm năm trước đã tưởng tượng thấy trong câu nói và bàn tay trỏ vào núi của cán bộ Nghĩa, thấm thoát đến bây giờ đã là sự thật.

Ông cụ người Xá toan cất tiếng hát. Nhưng nhớ lại mình xưa nay chỉ biết mỗi một bài hát nỗi khổ người Xá. Lại thôi. (Từ đấy về sau không bao giờ hát buồn nữa).

Thốt nhiên, chủ tịch Tỏa nói to:

- Đoàn ngựa lên kia, ngựa thồ hàng đấy. Ta xuống xem anh Nghĩa lên chưa?

Đoàn ngựa thồ, đoàn ngựa thồ hàng trăm con đương lốm đốm chấm giữa màu núi tranh xanh lặng lẽ. Con dốc lên chợ, lúc khuất lúc tỏ, lượn nghiêng phơi ra một bên sườn đường mới sửa, đỏ ối, nhấp nhô, phấp phới chạy tít xa đến cạn tầm mắt.

Đoàn ngựa thồ hàng gần tới Phiềng Sa.

Trên núi, người thính tai đã nghe rõ tiếng hát ồ ề khấp khểnh kéo qua suối, qua gió. Phảng phất những tiếng a ơ cất lên, đôi lúc ngắt quãng, cái giọng khê dài của một người Thái hát đưa ngựa - anh ngồi vắt vẻo trên lưng con ngựa nhất đi đầu đàn.

Đích thật đoàn ngựa thồ rồi. Đám thanh niên ở giữa chợ tươi cười chạy ra. Một ông già Xạ Phang bán kẹo lạc, suốt buổi cứ ngồi lầm lì vơ tiền vào cái túi Lừ to, lúc ấy cũng phải ngước mắt nhìn. Một ông người Dao ngừng tay xé thuốc lá, giắt cái cán cân lên sau gáy, ngẩng đầu. Bao nhiêu người hồi hộp, luống cuống lên. Trong dẫy bếp nướng bánh ngô của các bà, những cái quạt mây tròn nặng trình trịch càng phành phạch mạnh tay. Khói nướng bánh ngô bánh dầy xanh đặc hơn trước.

Những thồ lê hái sớm, lê xanh lê vàng, má quả còn thon chưa đẩy, những thồ đào đỏ gắt cuối mùa. Những quả chanh chín vàng ối. Quả mận muộn tím đen, phủ ngần phấn trắng, ghé răng cắn một cái, ngọt xớt muốn tan cả hột.

Từng địu, từng thồ lê, đào, chanh, mận xếp liền nhau ken như bờ tường đá, chất đầy đống, chưa ai hỏi đến. Có đám trẻ con chạy nhung nhặng, không xin ai mà cứ tự nhiên đến nhặt ăn.

Những cô bé con tám chín tuổi, trạc tuổi Mỵ đã có lần trốn đi chợ ngày trước.

(Bạn đọc có còn nhớ ngày trước, hôm ấy anh Nhìa nói dối mẹ đem em xuống chợ?)

Những cô bé Mèo đỏ cũng trạc tuổi Mỵ thuở ấy, hôm nay xúng xính váy đen áo đỏ, nghiêm trang chẳng kém các chị. Các em cũng cõng cái địu nhỏ trên lưng, chân bước con cón, vừa đi vừa xe, vuốt, thoăn thoắt rút từng sợi lanh giắt bên thắt lưng. Các cô bé chăm chỉ hệt các chị lớn. Chỉ khác là hơi háu ăn một chút. Mới đến chợ, các cô bé đã cầm dao gọt lê ăn. Rồi mới tíu tít chạy chen giữa các chị, ra ngồi cả đám bên sườn đá, nhá mận, bàn tán, cười, ngả nghiêng nhìn xuống, cùng nhau đoán xem có phải đấy là đoàn ngựa thồ hàng mậu dịch hay ngựa đi nương lấy ngô, hay ngựa tải xi măng cho thủy lợi xây giếng, hay ngựa các anh địa chất, các anh thủy văn. Có lúc, mong quá, nhìn nhầm con ngựa ra con bò vàng đủng đỉnh lạc ra đường giữa bãi tranh.

Những cô gái các dân tộc tung tăng rực rỡ cả ngày chợ. Đông nhất các cô Mèo trắng, dép lốp đen, váy trắng xòe, vạt áo xanh đen so le, chỉ đỏ thắm.viền lên tận cổ áo. Một vành khăn chếp nếp, gió thổi cuốn từng tua lụa đuôi khăn sặc sỡ tỏa xuống tung lên như đàn bướm màu, con đậu con bay chấp chới trên lưng người.

Quanh các cô ngồi ngoài ghềnh đá ngóng đoàn ngựa mậu dịch lên, từ lúc nào, đám trai đã tấp nập quấn đến.

Mấy anh du kích, tay xách lồng chim, tay cầm ống điếu, lưng đeo súng. Họ ngồi ghé trên hòn đá tảng, rút sáo thổi. Khẩu súng trường báng mới vừa được châu phát, vẫn nghiêng trên vai.

Người quây tròn vòng trong vòng ngoài xem những tay nhảy khèn giỏi. Tiếng khèn là nỗi buồn cái vui của người Mèo. Bây giờ không còn lính quan phá chợ thì cái khèn chỉ đem vui tới, vui nhất là đám khèn chợ. Người mua rượu từng bát đem đến mời anh nhảy khèn giỏi. Bài khèn vừa vung vẩy nhảy đến đoạn theo điệu "đi chơi" một ông cụ đã bưng bát rượu ngô ngọt thơm đến ngồi đợi thưởng cho anh trai khèn.

Cả cuộc chơi cũng đợi đoàn ngựa thồ hàng đương lên. Bây giờ đã trông rõ. Cứ độ mười con lại có một thanh niên Thái theo ngựa. Họ ngồi vắt vẻo trên đỉnh thồ hàng, hai chân cũng thõng ra đằng trước. Tiếng hát Thái kể lể đường trường man mác. Tiếng hát xôn xao chảy theo lòng suối, cuốn dài vào chân đá, khuất xuống tận chân núi đằng kia. Rồi tiếng hát lại ngỡ ngàng mở ra hai bên bờ cát, chiều chiều tha thướt biết bao nhiêu cô gái trong làng ra ngồi tắm. Tiếng hát Thái chứa chan, đầm ấm, ngân mãi, vang xa…

Đoàn ngựa của mậu dịch đã lên tới. Lưng ngựa cõng ngất ngưởng từng súc vải đỏ, vải láng, vải xanh Nam Định, xanh Sỹ Lâm... Hàng khiêng ô đen, ô hồng và dép cao su, những sọt bát đĩa, thìa cốc. Không đoán biết còn mấy chục mặt hàng mới nữa được bọc kín trong bao tải chồng chất trên lưng cả trăm con ngựa đương tiến vào chợ.

Những con ngựa ruổi đường xa, từ dưới vùng thấp châu Yên nóng bức leo dốc lên đến vùng cao mát rợi. Dòng mồ hôi từ sống mũi ngựa xuống còn bóng nhoáng bây giờ ngùn ngụt bốc hơi giữa đám người xúm đến. Một mùi hôi ngựa nồng nàn, ấm áp quen thuộc với quang cảnh làng Mèo sầm uất đầy ngựa đứng quanh nhà. Rồi thì vang lừng tiếng hí thảnh thơi của lũ ngựa vừa được cất cái khiêng thồ nặng hõm lưng xuống. Cái tải lót ướt đầm mới rơi ra, ngựa đã phất đuôi, rũ mình, hí hởn gõ vó, cất mõm. Có con háu ăn, cúi cuống xốc những quả lê của bọn trẻ nghịch ngợm sán đến đương ném cho ngựa ăn.

Ngựa lên rồi, đoàn ngựa đã lên rồi. Cả cái chợ mong ngóng đương đông càng đông nữa. Tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng nước ngọn suối mới bắt nhánh quanh về đầu núi gần đây để thử sức chảy làm thủy điện. Tiếng bộ xà tích lủng liểng bên sườn với chiếc vòng tay bạc túc tích chạm nhau của những cô gái hay làm lúc nào cũng vội vội bước. Cái nhạc bạc nhỏ ngân thoảng một tiếng nhẹ trên tấm ngực đẫy đà của cô gái Pú Piéo làm duyên bỗng chen lên như tiếng gió kỳ ảo, xao động lạ thường.

Mỵ đã ngồi từ lâu ngoài ghềnh đá, giữa đám bạn. Nhưng lòng Mỵ không mong mỏi và không có niềm vui giống các bạn. Các bạn Mỵ đương đùa nhau đoán xem ai mong mua những cái gì. Mấy thước vải, một con chỉ, một chiếc gương mới, một bút máy Trường Sơn, một cái đèn pin...

Họ còn những ước ao và chờ đợi thầm kín gì nữa? Khó ai biết, ai không biết. Khúa Ly bảo Mỵ:

- Mày thì mày chỉ đợi cán bộ Nghĩa thôi.

Một cô khác bảo Khúa Ly:

- Mày thì mày đợi ai?

Rồi cô nọ đổ cho cô kia đương ấp ủ nỗi mong giấu giếm và thiết tha ấy. Các cô vốn e lệ, thế mà tiếng cười động lòng đã giòn giã lan dài qua các mỏm đá, giữa đoàn ngựa thồ rầm rập lên qua.

Đám người tải hàng tới tấp nhảy từ lưng ngựa xuống. Những anh thanh niên Thái đuổi ngựa, anh kế toán người Kinh ở phòng thương nghiệp dưới châu lên kiểm tra sổ sách, họ tất tả chạy qua. Không thấy Nghĩa. Không ai thấy Nghĩa. Nghĩa chưa lên.

Sau cùng, phía tảng đá khuất đầu đường chỉ còn trông thấy có Thào Khay thúc ngựa ló ra. Các bạn reo to:

- Khúa Ly kìa! Khúa Ly kìa!

Nhưng chẳng thấy Khúa Ly đâu. Con mắt đợi chờ của Khúa Ly đã nhận ra Thào Khay từ dưới dốc, trước cả các bạn. Cô đã yên tâm và có lẽ muốn tránh bị các bạn chế giễu, cô vừa lẩn đi đâu rồi.

Thào Khay vừa đi khu, dự hội nghị bàn kế hoạch phát triển trạm xá dân lập ở vùng cao.

Thào Khay trỏ cái thồ cói to trên lưng con ngựa đi trước:

- DDT đấy!

Những người quanh đấy thích mê, reo ồ, kêu: “Nhiều quá! Nhiều quá! Hoan hô!”

Lần đầu không cho phun thuốc, người ta bẻ cả vòi phun. Nhưng rồi những nhà mạnh bạo để phun thuốc thì dù phun dày hay mỏng, bao nhiêu bọ chó, ruồi vàng cũng chết lăn ra. Bây giờ thì người ta gọi các vệ sinh viên đến cứ việc tha hồ phun thuốc trắng cả bàn thờ. Những chữ "đê đê tê" (DDT) lạ lùng nghe đã quen tai.

Trông thấy chủ tịch Tỏa, Thào Khay nói:

- Khu đồng ý cho trạm xá ta có kinh phí thành bệnh viện hai mươi giường rồi, ông chủ tịch ạ.

Một người nghịch, hỏi:

- Ông chủ tịch a?

Người khác nói:

- Ông bố vợ chứ!

Có người vẫn nhìn quanh:

- Khúa Ly đâu nhỉ?

Khúa Ly trốn những tiếng cười đã chạy ra đứng tận cuối chợ.

Thấy Mỵ bước lại, Thào Khay bảo em:

- Anh Nghĩa về phép chưa lên, Mỵ ạ.

Một người cười:

- Cán bộ Nghĩa về quê “tìm rượu uống"[12] rồi.

Giữa tiếng cười đùa tự nhiên của các bạn, mắt Mỵ phảng phất một vòng nước mắt. Nhưng không ai để ý. Người ta còn đương ồ cả đến xem dỡ hàng.

Thào Khay lại nói:

- Có công văn gọi mày đi học trường y tế đây.

Mỵ hỏi lại anh:

- Thật đấy à?

Mỵ mau miệng hỏi lại anh câu ấy. Thật đấy a? Không hiểu cô Mỵ còn muốn nghe lại cho biết thật Nghĩa về quê dưới xuôi làm gì, hay muốn biết mình thật sắp được đi học. Có lẽ muốn cả hai.

Bà Giàng Súa chậm chậm bước tới, sung sướng và ngượng nghịu, lặng lẽ nhìn hai đứa con đương nói chuyện với nhau giữa đám chợ ồn ào.