← Quay lại trang sách

- XXII I-

Ít lâu sau.

Giống chim khảm khắc, vợ chồng đi ăn đêm mỗi con mỗi nơi, cứ đối mặt vào bóng rừng gọi nhau, tiếng lóng lánh suốt đêm. Những tiếng tha thiết đến tảng sáng thì thưa dần. Cụ già nói lúc ấy là lúc đôi chim gặp được nhau rồi. Nghe chim kêu, người Mèo hay đem ví với cái vui cái buồn số phận mình.

Sáng sớm, cô gái làm dâu trong nhà trở dậy bắc chõ ngô, đã nghe chim thủ thỉ nói chuyện trên hồi nhà. Hai con chim lú - chim én, nằm trong ổ, nũng nịu quay đầu quay đuôi, xô lệch cái cọng rơm. én hót, én ở trong đầu nhà đem điều tốt lành đến ở với ta. Nghe tiếng chim buổi sáng, ai nấy tự nhiên vui sướng.

Trên chòm hoa blề đỏ, những con khướu buông giọng khoan thai. Chỉ vài ba con khướu thức giấc mà ríu rít cả vùng. Khướu hay tíu tít như đàn bà về chợ. Hiếm hoi mới thoáng nghe được tiếng chích chòe, tiếng họa mi, tiếng thánh thót của con bách thanh.

Tiếng chim xôn xao không dứt.

Nhưng nắng sớm vừa lan tới, ra hiệu cho những đàn chim thôi đàn hát. Khắp nơi lặng im. Một tốp chào mào rừng đỏ choé, đội mũ nhung cao, mỗi con như một đốm đuốc lổ đổ bay ra, trải dài cả đàn trên vòm trời sương tan.

Cũng lúc ấy là những lúc trước cửa hàng mậu dịch có tiếng líu ríu, nhỏ nhỏ, như những con chim chích chim én êm ái sà đến thóc mách ghé mắt nhòm qua tấm cánh cửa cửa hàng sắp mở ra.

Nghĩa biết đấy là khách mua hàng bán hàng đã về. Các chị đương ngấp nghé, trò chuyện đợi mậu dịch mở cửa. Mặt trời lên cao - người ở xa đã lác đác đến.

Có hai người vào hàng. Anh và chị cùng đi một đôi dép lốp đế cao giống nhau. Nghĩa buông quyển sổ tính hàng nhìn ra, đoán tay đôi này mới cưới. Vợ chồng mới thường hay đi mua sắm và bước sóng đôi đậm đà như chim én ăn đôi thế kia.

Bộ cánh đôi vợ chồng mới này đẹp nhất chợ. Cái áo lụa đen phủ nếp váy hoa xếp lửng chéo trên bắp chân quấn xà cạp chàm mới của chị. Anh chàng thì áo chàm tả pủ[13]. Cổ cứng viền điệp chéo con cờ. Tóc mới cắt gọn ghẽ và cổ không đeo vòng bạc. Anh là một học viên trường bổ túc, một giáo sinh hay một cán bộ thanh niên xã? Thanh niên bây giờ không cưỡi ngựa không yên, không để đuôi tóc dài và đeo vòng, không thích mặc áo hở bụng, thắt lưng đỏ buộc quặt sau lưng, không ai ăn mặc sắm sửa như lớp người trước nữa.

Chị rờ tay lên đầu súc vải điều và tấm láng đen, rồi quay lại. Anh đứng đằng sau. Đôi má chị ửng đỏ. Lúc nào cái e thẹn của cô dâu mới cũng chín dừ. Dưới vành khăn nhiễu, từng món tóc mai tóc gáy xõa ra - các cô gái mới nhớn mấy năm nay không cạo nhẵn quanh đầu bắt chước kiểu cũ của các chị nhiều tuổi trước kia.

Như chim én đầu nhà, người vợ chạy đi chạy lại, nho nhỏ, khúc khích nói.

Đầu tiên, họ sắm cái chăn đỏ Nam Định đằng khổ rộng vừa đắp hai người. Nghĩa trả lại tiền thừa. Vẻ mặt chị tần ngần. Đã hiểu cách bán hàng, Nghĩa cười cười tính hộ:

- Mua thêm chục bát này, hàng mới về đấy.

Anh chàng gật, mua hai xâu bát Hải Ninh.

- Cái hộp đựng thuốc lào thuốc lá có gương soi, đẹp lắm.

Họ mua đôi hộp đựng thuốc có gương soi - món hàng thanh niên đương chuộng. Cái hộp xinh xinh để trong ngực áo hay giắt trên vành khăn đều tiện cả.

- Này ghim băng mới.

Lại cầm một chục cái ghim băng mới.. Rồi mua thêm bánh xà phòng Bạch Hồng, một chai dầu hỏa, hai lưỡi cuốc một thước rưỡi ni lông đỏ làm áo mưa... Anh lấy thêm năm đồng ra, Nghĩa trả lại, lại vẫn thừa tiền. Chị ngắm nghía chiếc áo trẻ em đốm hoa sặc sỡ treo đầu quầy. Thích quá, ngần ngừ lại toan lấy.

Nhưng Nghĩa tươi cười nói cản:

- Để dành chợ sau về mua.

Bấy giờ mới chịu thôi.

Nghĩa toan giỡn thêm một câu: "Chưa đến mùa thu bắp mà đã cưới nhau à? Sớm thế?”. Nhưng chỉ nghĩ mà không nói. Nghĩa thấy mình chạnh buồn, không đủ sức buông câu nói đùa.

Nghĩa nhớ một chuyện ở công trường làm đường dưới Ná Đắng. Tháng trước có đám cưới một nữ thanh niên ở tỉnh Thái Bình lên khai hoang lấy anh thanh niên dân tộc Mèo. Người ta bàn tán nhiều lắm về tay đôi này. Hai người đều công tác thanh niên, họ quen nhau rồi yêu nhau. Đám cưới tổ chức tại công trường. Rồi cô dâu chú rể về chơi nhà. Người con gái đường xuôi lấy chồng xa ấy chiều chồng, hôm sau cất tấm áo cánh trắng, mặc bộ váy áo Mèo thật đẹp. Bố mẹ thấy nàng dâu mới ưa nhìn, người quê lạ mà quen thuộc như cô gái làng, thì mừng quá - nhãng cả phong tục, ra tận cửa đón hai con. Nghĩa ngơ ngẩn nhớ câu chuyện vui, rồi ngơ ngẩn ngẫm nghĩ: “Nếu lấy vợ ở đây, khi trở về làng quê vợ dự cưới, chắc nam giới mình cũng phải diện quần áo dân tộc nhỉ?" Và tưởng tượng: “Đàn ông thì mượn hay may cũng dễ, không phức tạp như quần áo nữ." Câu hỏi và câu tự trả lời cứ quanh quẩn, vui vui, vơ vẩn trong đầu rồi phút chốc lại bắt Nghĩa quay về cơn buồn lúc nãy.

Nghĩa mới trở lên Phiềng Sa được ít ngày.

Dạo Tết, về quê Phú Thọ, câu chuyện đợi chờ "Tết về giải quyết..." như thư của anh cả, lại chẳng đi đến đâu. Những mong muốn xây dựng hạnh phúc ở quê nhà có lúc tưởng đã gần nắm được trong tay, thế mà rồi cứ tự nhiên lại hững hờ. Có lúc, nhất là lúc này, Nghĩa ngại không dám nhớ lại rõ ràng nữa. Cứ thế mà thôi, cái chuyện bé nhỏ riêng tư ấy hãy nhạt đi, rời rã đi. Nghĩ vậy, Nghĩa chua chát ngượng một mình: có gì đâu mà để nhạt phai. Nhưng sao đôi lúc nhớ đến thì nỗi nghĩ nỗi buồn vẫn dai dẳng thấm thía, róc rách như nguồn nước sâu trong đá.

Công việc bề bộn, bao điều phải nghĩ, phải làm ngày đêm chen lấn đến xâm chiếm hết tâm trí.

Trong đại hội Đảng họp dưới châu Yên dạo trước. Thào Khay được bầu ủy viên Ban chấp hành châu Đảng bộ - đồng chí châu ủy rất trẻ, rất xứng đáng của dân tộc Mèo. Nghĩa cảm động nhớ thiếu niên Thào Khay ngày mới đi công tác, cùng lớp tuổi, cùng dũng cảm như Vừ A Dính ở Pú Nhung. Bỏ phiếu bầu châu ủy mới, Nghĩa xúc động nghĩ ngợi miên man rất lâu. Mọi ý nghĩ về sự tiến bộ và vinh dự được vào cấp ủy Đảng của Thào Khay trong lòng Nghĩa thật tự nhiên, trong sáng. Nghĩa vẫn thiết tha: "Người Mèo đã có Đảng ở các cấp lãnh đạo. Thào Khay là đúng lắm. Trong vụ chống biệt kích xưng vua vừa qua, không phải cứ "cán bộ già" như mình thì bao giờ cũng đúng".

Cái nhìn cũ, định kiến, gia trưởng "lúc nào cũng tưởng như nó còn bé” đã không cho Nghĩa thấy ra Thào Khay đã lớn, đã giỏi và nhân dân các dân tộc vùng cao rất tự hào, tin cậy những người trẻ tuổi tài giỏi của họ. Phải cho đến đại hội Đảng, nghe báo cáo âm mưu quỷ quyệt và lâu dài của bọn phản động xâm nhập biên giới và nghe Thào Khay nói công tác y tế nhân dân, kể chuyện mấy lần xuống Ná Đắng, nghĩ gì, làm gì cho nhân dân, kiên quyết theo dõi tên biệt kích trá hàng thế nào, bấy giờ Nghĩa mới thấm thía cảm phục Thào Khay. Tập thể trí tuệ Đảng đã cho Nghĩa biết rộng ra, sâu hơn và hiểu được.

Thế là trong lòng Nghĩa lúc này lại bồi hồi những sai sót của mình và có thể những sai sót sâu xa hơn nữa mà Nghĩa chưa nghĩ ra. Đảng bảo đảng viên nhận nhiệm vụ lên công tác Tây Bắc "hãy lấy Tây Bắc làm quê hương thứ hai". Mười mấy năm nay, Nghĩa đã làm như Đảng bảo. Nếu cần hy sinh vì sự nghiệp cao cả của Đảng, Nghĩa có thể ngã xuống đất này. Gắn bó đến cả sống hay chết, từ lâu lắm, Nghĩa đã nghĩ đến, tự nhiên, không suy tính. Nhưng bấy nay sao vẫn băn khoăn điều gì.

Vợ chồng người thanh niên Mèo vừa vào mua hàng lúc ấy đã về được một đỗi đường. Mầu tươi vui váy áo người vợ chỉ còn thấy trong bóng nắng sa xuống lưng ngựa như một đốm hoa mắt. Nhưng Nghĩa vẫn tưởng tượng còn nhìn thấy họ rõ hơn cả lúc họ vừa ra khỏi. Nghĩa trông thấy họ ở lòng mình. Bóng dáng Thào Mỵ đương hiện ra, lẫn lộn vào đấy, đôi mắt sắc lừ và cặp má đỏ.

Tình yêu thật chẳng bao giờ giống nguyên và lặp lại như những con số để so sánh được, để ta cứ việc đứng núi nọ trông núi kia. Nhưng đã nhiều lần, quả là Nghĩa đã bắc cân đo lường tình cảm chi li đến thế đấy. Giữa lúc này, bao nhiêu băn khoăn và tính toán trước sau cộng lại, dồn thành một câu hỏi, chỉ một câu thôi: Có phải thật bấy lâu mình đã là người cán bộ của Đảng có toàn vẹn quyết tâm vì miền Tây quê hương thứ hai?

Có một người yêu Nghĩa. Nghĩa hiểu mối tình hồn nhiên và Nghĩa có thể đáp lại. Vì Nghĩa cũng yêu.

Nhưng Nghĩa còn tính. Nghĩa còn tính, còn tính, còn tính, mà vẫn chưa tính ra. Cái “băn khoăn dường như sai sót" ta hằng lo lắng có phải vì mối tình cảm còn phân vân chưa ngã ngũ này? Chưa giải quyết dứt khoát vấn đề trên, có phải là ta chưa toàn tâm toàn ý vì miền Tây? Quan niệm luyến ái, vấn đề tư tưởng… Thế nào đây? Nghĩa bâng khuâng nhìn ra lưng núi.

Tiếng ai nói bô bô sau lưng:

- Trông con ngựa vẫn rõ, anh Nghĩa nhỉ?

Nghĩa quay lại:

- Ờ, Viễn!

Viễn thú vị càng nói to:

- Kìa kìa con ngựa đứng lại rồi. Bây giờ vợ đương lấy cái ống đựng đàn môi ra. Đứa chồng cầm "con đàn môi đực", đứa vợ cầm "con đàn môi cái", hai đứa ngồi xuống tảng đá thi nhau thổi đối đáp... Còn là mai mới về đến nhà!

- Mày nói như thật! Con ngựa này không phải ngựa vợ chồng nhà ấy, ngựa này đương đi lại đây.

- Ngựa của đôi vợ chồng mới vừa ở đây ra.

- Trông gà hóa cuốc!

- Đánh cuộc với anh!

- Ừ, cuộc.

Rồi Viễn lại say sưa nói theo ý mình đương nghĩ:

- Tôi còn thuộc cả những bài hát họ thường hát. Cậu này công tác thanh niên, anh ạ.

Nghĩa hỏi:

- Cậu cán bộ Mèo ở công trường Ná Đắng lấy vợ Kinh người Thái Bình đấy a?

- Không phải.

Nghĩa ngượng vì đoán nhầm. Nhưng trong bụng lại mừng: cán bộ Mèo ở Phiềng Sa bây giờ đông đến mức mình không biết hết mặt!

Viễn tiếp:

- Giá tay đôi mới lấy nhau ở công trường Ná Đắng có đến đây, anh cũng không nhận ra đâu. Con bé mặc Mèo đã hay, đàn môi càng hay nữa, anh Nghĩa ạ.

Thằng này mới lên mà điều tra đã khiếp chưa!

Rồi Nghĩa hỏi Viễn, đột ngột:

- Cậu Viễn lấy vợ ở đâu?

Viễn cười to:

- Thưa anh, lấy vợ ở đâu, lấy vợ dân tộc nào cũng được, cốt là yêu ai thì lấy người ấy. Phương châm thế, nhưng khi nào giải phóng xong miền Nam mới đem thực hiện, anh Nghĩa ạ. Còn anh thì sao?

Nghĩa mủm mỉm, lúng túng, ngượng nghịu:

- Mình cũng như cậu.

Câu Viễn nói làm Nghĩa lại động lòng. Ngẫu nhiên, nó vừa khó chịu, vừa thấm thía như một câu phê bình đúng.

Viễn thuộc lớp thanh niên trạc hai mươi tuổi. Tốt nghiệp trung cấp lên miền Tây công tác thủy văn. Viễn đã qua trạm thủy văn Hang Tôm, lên Mường Tè, xuống vùng thấp Sìn Hồ ở suối Nậm Ma và mới về cửa suối Ná Đắng, đầu mùa lũ vừa rồi.

Con suối Ná Đắng thế là hết hoang dại từ khi lập trạm thủy văn. Trạm thủy văn tìm hiểu sự tuần hoàn của dòng nước. Từ đây, mùa đầy hay mùa kiệt, tốc độ và lưu lượng con lũ thấp hay con lũ cao của suối Nậm Ma, của suối Ná Đắng, đều nhất thiết được khoa học hỏi han, đồ đạc kỹ lưỡng. Cán bộ Viễn săn sóc dòng suối dòng sông phục vụ đời sống con người.

Quê Viễn ở vùng xuôi. Trước khi lên miền Tây, Viễn chưa hề biết mặt rừng núi. Lớp người như Viễn lớn lên sau cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, in bóng nhiều đức tính của thời đại. Sự giáo dục của nhà trường, của đoàn thể, của xã hội và những trang sách đẹp đã dạy Viễn biết yêu nhân dân cùng đất nước, thích đến những nơi xa xôi, làm những việc to lớn có ý nghĩa đặc biệt. "Đào núi và lấp biển"; đi bất cứ đâu.

Ban đầu Viễn cũng xốc nổi "thuần túy” thơ mộng, nhưng sau chính cái nghề thủy văn bề ngoài tẻ nhạt khắc khổ đã rèn cho Viễn hiểu nhiệm vụ cách mạng và công tác cách mạng cụ thể của thanh niên ngày nay. Hơn hai năm làm thủy văn trạm Nậm Tè rồi về Nậm Pô bên Mường Nhé, gian khổ triền miền trong rừng Nậm Pô, về đây, Viễn đã trở nên người vừa hăng hái, vừa lãng mạn, vừa thiết thực, khi làm công việc trước mắt lại biết nhìn phóng thấy tầm xa. Những thanh niên kiên cường đến miền Tây, đều trở nên như Viễn.

Ở trạm thủy văn Ná Đắng, mùa lũ đương qua. Không còn đàn rái cá xám sì lội ngược mép nước đi kiếm ăn. Những bụi cây, những triền đá vừa được con lũ nhả ra. Cái dáng nắng dịu dàng đã trở về trải vàng dài lấp lánh mình con suối. Người cán bộ thủy văn xuống bến sửa soạn kéo tời "cá sắt”[14] đo lưng lũ đương xuống nhanh.

Nắng lên buổi trưa tĩnh vắng. Ngoài nương bình yên mùi dứa chín thơm.

Nhưng những ngày nắng trên núi thường ngắn ngủi. Mùa đông đã lại thổi qua đầu rừng những cơn mây xám đứt chân, rách tơi tả. Không ai còn trông thấy cái trạm thủy văn Ná Đắng bé nhỏ bên bờ suối. Trong sương mù, Viễn và các bạn vẫn hàng ngày cặm cụi làm việc, học văn hóa và khiêng tro bếp vào xóm, để trồng hành và bón rau cải.

Bốn mùa qua, nhưng công tác Viễn, mùa nước kiệt thong thả ngồi thu thập số liệu hay mùa lũ đo nước cả 24 tiếng ngày đêm, vẫn thế, dai đẳng, kiên nhẫn, con người không thể vui buồn vì sắc mặt thiên nhiên.

Họ làm việc - công tác cách mạng!

Nghĩa hằng chú ý, quý mến Viễn và cả lớp cán bộ trẻ lên đây. Thày giáo, cán bộ y tế, ngân hàng, chăn nuôi, các ngành mậu dịch, lương thực, thủy lợi, thống kê... Gian khổ của họ bây giờ không giống của Nghĩa trong kháng chiến. Nhưng vấn đề tư tưởng và trách nhiệm, tình hình mỗi lúc khác nhau, không thể vo lại, đếm ra con số rồi so kè. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở vùng cao, lứa tuổi ấy có cống hiến lớn.

Nghĩa thường nghĩ: lớp tuổi hai mươi, nhiệt tình, tháo vát và hồn nhiên theo tiếng gọi của Đảng, đương hiên ngang đặt chân khắp đất nước Tổ quốc. Nếu họ lại được biết rằng một sườn núi Phiềng Sa, một quãng cửa suối Huổi Ca, một xóm Ná Đắng nhỏ bé, một dòng Nậm Ma, trong kháng chiến và trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân đã đổ sức đổ máu mới làm nên được và giữ được; nếu họ hiểu lòng trung thực sâu sắc của các dân tộc anh em Mèo, Xá, Dao, Hà Nhì, Lô Lô... đối với chế độ, chắc chắn họ càng thêm tin tưởng và vinh dự ở trách nhiệm mỗi việc đương làm cho tương lai vùng cao.

Nghĩa định trong các buổi họp thanh niên, Nghĩa sẽ kể từng chuyện,những chuyện truyền thống. Thày giáo có thể lấy đấy viết lại cho các em học với lịch sử cách mạng và kháng chiến địa phương. Câu chuyện bắt đầu từ khi lập nên khu du kích, rồi Phiềng Sa chiến đấu, Phiềng Sa được giải phóng bước vào xây dựng, đổi mới. Đế quốc và bọn phản động chưa chết, lại lộn kiếp bò về. Những âm mưu của đế quốc Mỹ phá hoại, gây đổ máu, lừa nhân dân bỏ đi. Nghĩa, chính Nghĩa đã trải mười lăm năm cách mạng rèn luyện cho đời mình ở đây mà Nghĩa vẫn chưa thấy hết tấm lòng nhân dân, Nghĩa vẫn không ngừa hết được thủ đoạn của đế quốc. Nghĩa sẽ trò chuyện với thanh niên tất cả.

Nghĩa hỏi Viễn:

- Hôm nay chủ nhật, đi chơi chợ à?

- Con nhà thủy văn chúng em làm gì có chủ nhật. Họp đoàn, anh ạ.

Viễn nói thêm:

- Lúc nào anh Nghĩa kể chuyện Phiềng Sa ngày trước. Anh hẹn rồi đấy. Chúng em thích nghe lắm.

Nghĩa chưa kịp "ừ", Viễn đã thoắt ra theo một đám thanh niên khác vừa đến. Cô Khúa Ly, bí thư chi đoàn đương cùng mọi người ríu rít đi về phía trường bổ túc văn hóa. Họp thanh niên ở đây. Những điều tưng bừng nhất trong tâm hồn đương chạy theo Viễn, theo đám tuổi trẻ hớn hở. Gian hàng và quanh mình Nghĩa bỗng rỗng không. Nhưng Nghĩa đã gọi to:

- Này Viễn! Tao đúng hay mày đúng?

- Anh đúng rồi.

Một đoàn ba con ngựa vừa lên tới. Ngựa lúc nãy hai người đánh cuộc xem ngựa nào.

Nghĩa nhận ra đấy là đồng chí giám đốc Sở thương nghiệp. Trên con ngựa đi sau, là một chị cán bộ. Ngang lưng đồng. chí giám đốc, tiếng “tăng-di-to" đương hát réo rắt.

Viễn quay lại. Cũng không phải để xem thật lúc nãy mình đúng hay sai, mà Viễn tò mò để ý chị cán bộ, người nhỏ nhắn, đương nhanh nhẹn xuống ngựa. Chị mặc bộ xanh ka ki Nam Định. Trong không khí nhẹ mát trên cao, đôi má chị hồng hồng. Quanh búi tóc, vểnh lên hai cánh khăn xanh hòa bình "Đông Đức" - như các cô gái Hà Nội năm ấy hay buộc tóc kiểu làm dáng thế.

Chị bước nhanh đến bắt tay từng người, cả Viễn! Nắm tay cô gái, Viễn cảm động, mặt anh chàng cũng thoáng đỏ. Nghĩa đã biết tin từ mấy hôm trước, có đồng chí giám đốc đương đi thăm các cửa hàng, các tổ cố định trên bên giới.

Câu chuyện của hai người cán bộ cũ gặp nhau, niềm nở, tự nhiên.

- Những ai lên vùng cao chúng tôi thế này?

Giám đốc nói:

- Người nhà cả.

- Không phải. Có người lạ đây thôi.

- À nhỉ! Có đồng chí Huổi Ca. Tôi xin giới thiệu cô Huổi Ca, kỹ sư chuyên về chè, mới về Sở công tác. Cô kỹ sư trẻ tuổi của chúng ta lên Phiềng Sa để nghiên cứu khai thác lại rừng chè. Tôi đã có lần kể với cô Huổi Ca những vinh quang và gian khổ trong thương nghiệp phục vụ nhân dân vùng cao của đồng chí Nghĩa. Đồng chí Nghĩa đây.

Nghĩa quên cả giới thiệu mọi người trong cửa hàng với khách. (Nhưng Viễn không ngượng, vẫn tò mò và rụt rè đứng đấy). Nghĩa đương bồi hồi lạ lùng. Huổi Ca! Huổi Ca! Huổi Ca kỷ niệm và căm thù! Làng Huổi Ca, anh em dân tộc Xá! Em bé sống sót được bộ đội đặt tên là Huổi Ca! Những em bé người Xá xưa kia, mắt sáng trong, người gầy lả, màu da đen bởi như mặt nước đục. Có phải không? Có phải cô bé Huổi Ca này không? Có phải đây như là cả tương lai dân tộc Xá đương đứng ra như một hiện thực rực rỡ trước mặt Nghĩa không?

Nghĩa hồi hộp hỏi lại:

- Cô Huổi Ca, có phải...

- Làng Huổi Ca dũng cảm hy sinh của dân tộc Xá chúng tôi, các anh bộ đội đã dạy tôi từ khi tôi còn bé như thế.

- A! Huổi Ca thật rồi.

- Vâng, Huổi Ca.

- Cô Huổi Ca có biết đồng chí Pàng?

- Ngày ấy chỉ còn có một anh tên là Pàng và tôi sống sót.

- Cô Huổi Ca vẫn nhớ.

- Không bao giờ tôi dám quên.

Im lặng.

Nghĩa hỏi:

- Cô Huổi Ca còn ở đây lâu không?

- Tôi lên xem rừng chè.

Viễn nói chen:

- Đi rừng chè thì qua cửa suối Ná Đắng. Đồng chí Pàng ở Ná Đắng, đồng chí ạ.

Huổi Ca hỏi:

- Đồng chí công tác dưới ấy?

- Tôi ở trạm thủy văn Ná Đắng.

- Thủy văn, thích nhỉ?

- Hôm nào mời đồng chí xuống chơi.

Huổi Ca đáp tự nhiên:

- Vâng.

Mắt Viễn sáng ánh và miệng cười. Thấy thế, Nghĩa nhớ câu Viễn nói lúc nãy: "Dân tộc nào cũng được, cốt là yêu nhau”. Nghĩa có cảm tưởng hết sức tốt đẹp và mau mắn: Viễn sẽ yêu Huổi Ca. Có thể hai người yêu nhau. Có thể lắm.

"Còn anh thì sao?" Cũng là câu Viễn hỏi Nghĩa lúc nãy. Giờ đây, câu trả lời càng nung nấu trong lòng.