Chương 1 Bức Thư Thứ Nhất
1
Một nếp sống cao sang, một địa vị cao sang, những dáng điệu lời nói cao kỳ,
Phượng không còn thấy ngợp ở những thứ đó nữa. Phượng bình tĩnh quan sát những thứ đó y hệt một bậc cao niên từng trải nhìn đàn con trẻ (chẳng gì năm nay Phượng cũng hai mươi tám tuổi), đôi khi còn như một người ngồi hàng ghế khán giả xem một vở tuồng trên sân khấu.
Phượng ý thức được rõ ràng lắm những vàng son giả trá, những danh vọng phù du của cuộc đời. Phượng mang ơn “ông nhà văn” vì chính ông ta đã dạy Phượng đạt được cái nhìn trong suốt đó. “Ông nhà văn!” Phượng vẫn gọi ông ta như vậy cũng như ba luôn luôn luôn dùng hai chữ “ông ta”. Chính ông Nhà Văn đã trực tiếp hoặc gián tiếp hướng dẫn Phượng thấy rằng bất kỳ cái gì cao quý thật sự đều ở tầm tay tất cả mọi người, không hề kiêu kì vòi vọi, chẳng hề biệt lập kín cổng cao tường. Phượng vừa rời Sài Gòn sớm nay, tới khu hẻo lánh này của Vũng Tàu, được dành cho một phòng riêng trên gác xép, tối mai khoảng chín, mười giờ khuya gì đó, Phượng sẽ ra bãi, xuống ghe vượt biên như đã hoạch định. Sáng sớm nay Phượng đã rưng rưng nước mắt lẳng lặng ra đi với một cái sắc nhỏ xách tay thật nhẹ, má và chị Trang hẳn cũng rưng rưng nước mắt tự ý vắng mặt. “Kẻ ra đi mang theo quê hương trong lòng!” Đúng là câu nói cố tình khoa trương để tự an ủi. – Phượng nghĩ vậy – Quê hương là núi rừng, sông, biển, là sắc thái bốn mùa đổi thay, là người thân còn sống, là người thân đã mất!... Cất bước ra đi, vướng mắc như con cá quậy trong vùng lưới bổ vây. Rứt ruột ra đi, hồn đầy thương tích, quê hương còn lại đó muôn đời xa cách, nếu như đó là cuộc ra đi không có ngày về, cuộc ra đi bất hạnh: sống nhờ đất khách, chết chôn quê người!
Tới địa điểm Vũng Tàu, được dành cho căn gác xép vắng vẻ này, Phuợng muốn xin bà chủ nhà cứ để mặc cho mình ở yên, khỏi lo cơm nước. Phượng đã có sẵn sáu chiếc bánh chưng vuông vắn xinh xẻo chị Trang mua cho và một lọ thịt băm má rang mặn thành ruốc sỏi, dư ăn cho đến tối mai đợi lúc ra bãi xuống ghe. Phượng nằm một mình cho sầu khổ lắng xuống, cho trí sáng bừng lên dẫn tới suy tư… Thỉnh thoảng tiếng người, tiếng đồ vật va chạm từ dưới nhà vẳng lên như từ một thế giới – Phượng nguyện thầm – cho sầu khổ lắng xuống, cho trí sáng bừng lên! Nếu chuyến đi trót lọt, gặp lại anh Trung, ông anh ruột, gặp lại Họa, chàng trai theo đuổi Phượng từ thời trung học, cả ba sẽ bàn cách làm giấy bảo lãnh chu đáo nhất, nhanh chóng nhất để ba – lúc đó hẳn đã được Cộng sản thả rồi – để má, để chị Trang ra đi bằng đường lối chính thức.
2
Tối mai Phượng đã ra đi. Đi chui! Bão biển, có thể lắm! Gặp hải tặc, có thể lắm! Chết đói, chết khác, chết kiệt lực phơi thây cùng các bạn đồng hành trên con thuyền bập bềnh chưa lật úp, có thể lắm! Nhưng không sao, điều cần là Phượng đã hoàn toàn cất được gánh nặng đá đeo về những nỗi niềm thắc mắc trước đây trong những bức thư Phượng gửi cho “ông nhà văn” – mười một bức cả thảy – tuần tự gửi vừa trong vòng một năm, tính từ sau ngày Cộng sản chiếm trọn miền Nam cho đến ngày ông ta bị bắt giữ. Phượng đã không sao tự kiềm chế nổi. Phượng phải viết và gửi những bức thư đó. Không một phút nào Phượng thấy là mình làm sai; nhưng lạ thay, Phượng luôn luôn thắc mắc về những bức thư đó, nhiều khi có cảm tưởng như mình đã hy sinh quá nhiều lòng tự ái – lòng tự ái mà đương nhiên người con gái còn son nào cũng phải có. Phượng viết cho ông ta đến bức thư thứ mười một, và dĩ niên nếu ông ta chưa bị bắt giữ, Phượng còn tiếp tục viết nữa. Viết dấu tên mình, viết không hề đòi hỏi một lời hồi âm mặc dầu thâm tâm muốn lắm. Thoạt chỉ vì chứng kiến cảm tình nồng nhiệt của đấng sinh thành ra mình – ba Phượng – mỗi khi mê mải đọc bất kỳ một tác phẩm dài ngắn mới in nào của ông ta, rồi nghe ba đọc cho cả nhà nghe một đoạn sau khi đã tóm lược cả câu chuyện. Mãi sau này khi đã hoàn toàn vào tuổi trường thành, Phượng đích thân đọc những tác phẩm mới ấn hành của ông ta, không quên hăm hở mua ngay vào ngày phát hành đầu tiên mấy nguyệt san và bán nguyệt san vẫn thường có sự hiện diện của ông ta. Phượng mê đọc không kém gì ba, tuy vẫn là mỗi người một cách. Nhưng phải đợi đến ngày Phượng được gặp ông ta lần đầu, nghe ông ta diễn thuyết lần đầu tại ngay trường mình về một đề tài văn chương, Phương mới khám phá thêm một điều nơi ông ta và nơi chính Phượng. Thuở đó các trường đại học có phong trào mời một số nhà văn, nhà tư tưởng tới thuyết trình tại giảng đường cho toàn thể sinh viên nghe bất kỳ một đề tài văn chương hay triết học nào. Ngày đó ông ta đến trường Phượng sớm hơn giờ mời. Ông tới như một sinh viên thế hệ đàn anh tới thăm sinh viên thế hệ đàn em đương thời. Cử chỉ lời nói thật gần gũi, thân mật. Ông trẻ hơn Phượng chừng mươi tuổi. Rồi mọi người vào đại giảng đường… Rồi ông ta lên bục diễn thuyết… Thính đường chỉ có lời nói của ông vang lên, người nghe ngẩng mặt, cúi đầu cũng không tự biết nữa. Tới phần nêu một vài câu hỏi để bế mạc cho buổi nói chuyện, câu hỏi cuối cùng là của một nhỏ bạn cùng lớp thân nhất của Phượng. Nhỏ xin diễn giả soi sáng thêm về tâm trạng phức tạp phong phú của người Việt khi biểu lộ vui buồn. Ông ta bèn nhắc lại vở chèo Tấm Cám. Ông nhắc nhanh thiết tha và gợi cảm hình ảnh Tấm nhịn phần ăn của mình để nuôi con cá bống. Giọng ông ngâm như hát lời thơ lục bát Tấm gọi con cá bống mỗi khi cho ăn:
Bống ơi bống,
Bống lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Đừng ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.
Qua giọng ngâm của ông, Phượng thấy được rõ niềm cảm thông giữa người với vật khi lòng mình trong sạch, hiền hòa, và chí thành. Ông ta lần lượt nhắc lại rất nhanh mấy lần hóa thân của Tấm: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi dệt và sau cùng là quả thị. Khi ông nhắc đến đoạn: Sau bao nhớ thương, hoàng tử nhân một dịp đi săn vào nghỉ quán nước, nhận ra miếng trầu cánh phượng Tấm têm, rồi gặp lại chính Tấm từ quả thị trở lại cõi đời. Nói đến đây – Phượng nhớ lắm – ông ta bỗng ngừng bặt lại dễ đến nửa phút. Cả thính đường nín lặng tưởng có thể nghe được cánh chuồn, cánh bướm vang vọng từ ngoài vào. Rồi ông nói:
- Sau bao oan thác truân chuyên đến như vậy về phần Tấm, sau bao thao thức nhớ thương đến như vậy về phần hoàng tử, tới lúc hai người gặp lại nhau trong trường hợp bất ngờ vạn hạnh đến như vậy, tưởng cả sân khấu bên trên lẫn toàn bộ khán giả bên dưới phải vui òa thành ánh sáng mới phải chứ! Không, niềm vui điển hình của người Việt Nam mang nặng định mệnh suốt dòng lịch sử thể hiện thành tiếng hát của Tấm vào lúc đó. Tấm sờ như pho tượng đá nhớ thương vừa nhúc nhích cựa mình trở lại kiếp người, và Tấm cất tiếng hát, Tấm hát rằng… Và ông ta hát. Trời, cả thính đường sững sờ! Không ai ngờ rằng câu trả lời đã chuyển thành bài hát, bài hát của Tấm khởi sự bằng câu:
“Vì nhớ thương ai, em trở lại đời…”
Điệu hát, giọng hát thê thiết não nề! Ông ta hát trọn bài, đôi chỗ ông kéo dài giọng ca, đôi chỗ xô dồn lời ca, đôi chỗ ngập ngừng đứt quãng, đôi chỗ kèm theo chút điệu bộ như Tấm trên sân khấu. Tất cả cố tình làm như vụng về, nhưng thực ra ông sống hẳn với bài ca, làm chủ điệu hát, tất cả những cái ông cố tình làm như vụng về chỉ để gây bầu không khí chân thành cảm thông với nỗi niềm Tấm lúc đó. Bài hát hết, lại một lần nữa ông ngừng bặt trong một phút, rồi cất giọng khẽ, rất khẽ, nhưng không một ai trong thính đường mà không nghe rõ mồn một. Giọng ông mệt mỏi lạ lùng, nhưng tràn ngập thương yêu trong thổn thức, ông nói:
- Niềm vui của người Việt thường thể hiện như vậy đó, y hệt như mưa lạnh bình minh. Thức giấc trên giường nghe mưa rơi rả rích bên ngoài, nhưng cũng đồng thời nhận thấy ban mai ló rạng vàng lộng ở tít phía chân trời Đông xa xa. Mâu thuẫn không để đâu cho hết được, nhưng cũng phong phú không nói sao cho xiết được, và kiếp người qua định mệnh người Việt cũng do đó mà quyến rũ lạ lùng. Giọng ông bỗng trong sáng hẳn như một người tưởng sắp ngã khuỵu bỗng vùng đứng lên, như ánh nắng chợt bừng sáng khi vừa thoát khỏi khối mây tắc nghẽn, giọng ông còn đượm vẻ hài hước nữa:
- Nhưng thôi, riêng điều này có thể là một đề tài cho một buổi thuyết trình khác, lần này tôi xin phép tạm ngừng nơi đây. Xin cám ơn, cám ơn nhiều lắm tất cả các bạn đã chú ý theo dõi lời nói của tôi hôm nay.
Ông ta cúi chào, vẫn giữ vẻ mặt tươi thật tươi và thốt thêm lần nữa:
- Cám ơn, cám ơn!
Lần đầu tiên gặp mặt, nghe ông diễn thuyết, Phượng khám phá thêm một điều nơi ông và cho chính Phượng: Hãy có được cái nhìn cô đọng, cái nhìn đó soi tới đâu biến nơi đó thành phồn thịnh: phồn thịnh màu sắc, phồn thịnh âm thanh, phồn thịnh ý nghĩa sống, phồn thịnh tình người. Ở trường về hôm đó, Phượng đọc lại bài phê bình một tác phẩm của ông ta. Nói là phê bình một tác phẩm, sự thực bài đó đã nhận định chung cả phương thuật hành văn lẫn tư tưởng trong toàn bộ tác phẩm của nhà văn họ Hoàng cho tới ngày đó. Bài phê bình dài với những đoạn trích dẫn tác phẩm để chứng minh. Phượng gạch đỏ những nhận định chính. Bài phê bình đó Phượng đã cắt ra từ tờ báo rồi xếp vào tập vở ghi những bức thư đã gửi. Phượng mở sắc tay đọc lướt những dòng gạch đỏ.
“… Hoàng Q. vẫn là người thanh niên sống thiết tha với thời cuộc đầy dẫy đau thương, ngổn ngang trắc trở của dân tộc Việt Nam…
Ông sống tất cả những vui buồn âu lo của thế tâm con người…
Ông ghét Cộng sản v ì chúng bạo tàn, khinh cái chính quyền theo Tây vì chúng vô liêm sỉ, thương người nghèo khó bần cùng, ghét tính bủn xỉn, yêu lòng vị tha…
Hoàng Q. tuy không trình bày những tâm trạng độc đáo dị thường, nhưng trình bày với một lòng thiết tha dào dạt. Ông có giọng mê say, lôi cuốn của một thi sĩ trữ tình hơn là một tiểu thuyết gia. Ông tả cảnh, ông bộc lộ cảm nghĩ chủ quan say sưa suốt từng trang dài. Có lẽ vì thế mà ông thích dùng ngôi thứ nhất để kể chuyện. Nhiều nhà phê bình cho rằng đó không phải là kỹ thuật thích hợp nhất cho người viết truyện, nhưng không có gì thích thú cho bằng được nghe một nghệ sĩ phong phú tài hoa như ông Hoàng kể đê mê lan man về cảnh đẹp, người đẹp, về các bản đàn điệu hát…
Ông theo dõi tham dự các biến cố xảy đến trong xã hội với tất cả sự sốt sắng thiết tha, nhưng thay vì để gây những thắc mắc khắc khoải dày vò tưởng như bất tận, thì ông lại khiến lòng ta thơm lên vì hương thơm bát ngát của đạo đức, và ấm lên vì niềm tin nồng nàn vào cuộc đời…
Tóm lại, đọc ông thấy đủ những sắc thái của đời đấy, những nghèo khổ mà không tị hiềm, đói khát mà không thù hận. Trái lại nhân tính được trau chuốt để vươn lên thành khát vọng, hòa đồng với hạnh phúc mênh mông; có tuổi trẻ ham học, có tuổi già bao dung, có tinh thần sung mãn, có những mối tình trang trí cho cuộc đời mang màu vương giả, có những đam mê dạy cho thế nhân một nền thẩm mỹ chan hòa. Khắp các giai tầng khi gặp ngang trái đều biết vươn về thương cảm, nâng đỡ, an ủi, vỗ về...”
Đặt trả lại bài phê bình vào tập vở, đặt tập vở lên chiếc bàn nhỏ đầu giường, Phượng ngả mình nằm xuống, mắt nhắm lại nhưng không phải để ngủ.
3
Tối mai Phượng đã ra đi. Bão biển – có thể lắm! Gặp hải tặc – có thể lắm! Chết đói chết khát, chết kiệt lực phơi thây cùng các bạn đồng hành trên con thuyền bập bềnh chưa lật úp – có thể lắm! Nhưng không sao, điều cần là Phượng hoàn toàn cất được gánh nặng đá đeo về mười một lá thư Phương đã viết, đã gửi cho ông ta. Bản nháp cả mười một lá thư – và cũng là những bản lưu – chính là tập vở trên bàn kia. Nói là bản nháp, kỳ thực những dòng dập xóa rất ít. Tối mai Phượng đã ra đi. Hành trang của Phượng thật nhẹ, hầu như không có gì ngoài một bô đồ mang theo để thay đổi, nhưng tập bản lưu đó bằng mọi giá Phượng phải mang theo. Rất gọn và kín đáo, Phượng ngồi dậy, với lấy bức thư thứ nhất… những dòng chữ quen thuộc, quá quen thuộc của chính mình! Bức thư ghi ngày 7-6-1975. Không gửi bằng bưu điện mà bằng tay – tất cả mười một lá thư đều gửi bằng tay – Phượng đến tận nhà ông ta lẳng lặng thừa dịp vắng vẻ thuận tiện bỏ vào chiếc thùng thư xinh xắn sơn màu xanh lá mạ gắn ngay bên cửa.
Ngày 7-6-1975
Ông kính mến,
Chắc là ông ngạc nhiên lắm khi nhận được thư này.
Tôi đã có ý định từ lâu tới gặp ông, nhưng rồi bỏ ý định đó mà chờ được gặp ông theo thiên thành, mặc cho tự nhiên đưa đẩy. Tôi có cảm tưởng như ngày đó chẳng bao giờ có. Tôi “quen” ông từ ngày tôi còn nhỏ xíu, những ngày nằm hoặc ngồi bên ba tôi, nghe người đọc từng đoạn truyện của ông, đôi khi tôi vừa nhổ tóc sâu cho ba vừa nghe người đọc từng đoạn ngắn mà người cầm lòng chẳng đặng. Người đã cho tôi hiểu tác già là gì.
Tác giả có nhiều uy quyền quá! Và tôi rất ghét tác giả những quyển mà tôi thích nghe ba tôi đọc. Ông biết tại sao không? Để tôi nói nhỏ ông nghe nhé – bởi vì chữ Hoàng tên ông mà ngày nào tôi cũng phải đánh vần lần nào cũng sai. Rồi lớn lên, những tác phẩm của ông là một ám ảnh lớn trong tôi. Rồi trung học… rồi đại học… những ngày dài ở trọ, tôi nghĩ nhiều đến ông, nghĩ đến nhân vật của ông. Và đặc biệt những dòng sông, những bến đò, chao ôi quý giá làm sao, tôi soi thấy trên những dòng sông ấy không chỉ hình bóng của riêng tôi, mà cả thời ấu thơ của tôi với mấy vụ hè liền, vào dịp được nghỉ học theo ba lênh đênh trên sông Tiền, từ Tân Châu (Châu Đốc) đến Sa Đéc. Sông Tiền mặt nước lúc nào cũng mênh mông hậu hĩ mấp mí tràn bờ. Ba năm này, ba tôi chọn nghề buôn theo dòng sông Tiền cốt để che dấu tông tích cho một người bạn chí thân vốn tập kết ra Bắc năm 1945 và đã bỏ ngoài đó trở về Nam qua ngả Lào. Thuở đó, thưa ông, “cô bé” tôi rất thích thú ngắm những nét cau có giận dữ của dòng sông đúng lúc ba tôi khởi sự dùng chèo khuấy động sự yên tĩnh của nó cho thuyền rời bến. Rồi sau này khi đã là “cô gái”, tôi tiếp tục đọc ông. Nỗi ám ảnh về những dòng sông, những bến đò càng lớn ngợp nơi tôi. Ngày ông tới trường tôi diễn thuyết – thượng tuần tháng Mười Một 1974, năm tôi hai mươi tuổi – đó là ngày thiên thành lần thứ nhất tôi được gặp ông như đã hằng mong ước từ bao nhiêu năm. (Có ai ngờ cuối niên học đó, tôi chưa kịp thi tốt nghiệp ra trường thì Cộng sản đã chiếm trọn miền Nam mất rồi.) Ngày đó, lúc thoạt thấy ông qua cổng trường bước vào, tôi xúc động đến bàng hoàng, mấy ngày sau còn giữ nguyên cảm giác choáng ngộp đó. Ông với chemise trắng, cravate màu xanh thẫm. Lúc ấy tôi thấy chỉ có ông và tôi, và tôi tự nhủ thầm nếu tôi gọi thật nhỏ tên ông ông tiếp tục bước tới, còn lại tôi với… với một nỗi niềm chếnh choáng bâng khuâng khó tả. Buổi nói chuyện của ông tại đại giảng đường trường tôi hôm đó, tôi tin tưởng chỉ có tôi là hiểu trọn vẹn những gì ông nói. Những ngày ở bệnh viện mỗi lần đọc lại một tác phẩm của ông là một lần thấy nó mới thêm. Và rồi kể từ ngày 30-4-1975, ngày Cộng sản toàn thắng miền Nam, đổ bóng ngự trị của chúng lên toàn thể đất Việt, tôi tạm rút lui về quê nhà sống những giây phút ngạt thở, nhưng còn cố níu lấy hy vọng tự do. Tôi nằm lẩn trong xó tối nghiền ngẫm lại tác phẩm của ông. Tôi bị má la hoài về chuyện đó, nhưng ba tôi, nếu người có mặt, bao giờ cũng kịp thời đỡ đòn cho tôi, “Đừng mắng con, để nó tự do, sau này nó không còn được…” Nhưng bây giờ thì tôi hiểu rồi ông ạ. Chiến dịch “phần thư khanh nho” của Tần Thủy Hoàng cũ tái diễn dưới hình thức mới “kiểm kê văn hóa”, “bài trừ văn hóa nô dịch đồi trụy!”... Cả một tủ sách của tôi, cả một tủ sách của chị tôi, cả một tủ sách riêng của ba tôi tại phòng khách, tất cả, tất cả sạch sành sanh vét! Lúc đó tôi vắng nhà. Khi trở về, tôi không hỏi. Cả nhà cũng không ai nói. Tại hộc tủ tồi tàn của tôi còn lại ba quyển của ông cùng với La Porte Etroite của André Gide, cuốn Ca Ngợi Cô Đơn của Kahlil Gibran và cuốn Khúc Hát Dâng Đời của Tagore. Gia tài còn sót lại của tôi!
Tiếng đại liên nổ giòn đuổi theo tiếng một chiếc Honda phóng đến hết tốc độ dọc theo một đại lộ tương đối vắng với một hàng cây sao cao vút (hàng bên kia đã bị đốn từ mấy năm trước vào một dịp mở đường). Khoảng chín giờ đêm, có tiếng la của một người nghèo đói đã bị một người nghèo đói nào khác cướp giật.
Tại sao tôi biên thư cho ông? Ông có bực mình? Nếu tôi tiếp tục biên thư cho ông, ông có phiền lòng?
Và hình như tôi chưa nói rõ gì với ông.
Cầu chúc ông có được một vài giây phút thoải mái trong ngày và xin kính tặng ông những may mắn còn sót lại nơi tôi.
Kính thư, Ph.