← Quay lại trang sách

Chương 2 Ba

1

Sau này lớn lên Phượng đã làm quen nhiều và ưa thích – say mê nữa – những giây phút bâng khuâng nơi ráng chiều rộng lớn mà cô tịch, nơi quãng vắng thê thiết đìu hiu. Mỗi lần như vậy là y như Phượng nhớ đến cảnh sông nước mênh mang, bến đò hoang tịch mà Phượng đã từng sống với ba vào vụ hè thuở còn là cô bé. Nhưng phải đợi mãi sau này khi Phượng đã biết tự động săn đón và tìm đọc những tác phẩm của ông ta, Phượng mới có dịp quan sát để tìm hiểu tại sao ba thích những tác phẩm đó. Phượng chú ý những đoạn văn ba ưa đọc lớn, những đoạn văn mà tới đó nếu đương nằm thì ba vùng ngồi dậy, đương ngồi thì ba vùng đứng lên hơn về một quãng đời nào đó của ba. Từ những dữ kiện đó, Phượng ráp nối, suy diễn và tìm hiểu dần. Duy một lần Phượng và ba nói chuyện lâu hơn cả, chuyện về tù đày tra tấn, đặc biệt chuyện một vụ vượt ngục tại Côn Đảo. Lần nói chuyện đó của ba quá đặc biệt đến nỗi Phượng nhớ hoài, nhớ mãi về sau này. Phượng nhớ cả năm đó – 1970 – Phượng mười bảy tuổi, chỉ còn một năm nữa là xong tú tài để lên đại học. Phượng nhớ cả câu chuyện khởi sự từ sau bữa cơm chiều bảy giờ kéo dài tới mười một giờ khuya. Phượng ngồi nơi bàn học, ba nằm trên xích đu ngay kế bên. Nguyên quán ở Vĩnh Long, gần Sài Gòn thôi, nhưng có mấy khi ba sống ở quê nhà. Ba được nội đưa lên Sài Gòn theo học từ nhỏ, hết tiểu học qua trung học tại Chasseloup-Laubat. Đỗ tú tài xong, ba gia nhập làng báo liền. Ba thuộc hạng ký giả kỳ cựu nhất thuở ban đầu báo chí miền Nam. Ba viết cho báo Opinion của Ngân hàng Đông Dương – Banque de l’Indochine – đặc biệt theo dõi thị trường gạo tại Hồng Kông; hối đoái tại toàn bộ Á Đông: Yokohama, Thượng Hải, Bangkok, Hồng Kông, Manila. Rồi ba trông nom luôn cả tờ Công Luận tiếng Việt. Đó là vào những năm 1938-1939. Hằng năm ba theo ban giám đốc nhà băng đi họp ít nhất là hai lần tại Paris. Vào những dịp đó ba qua thăm Bỉ, Hòa Lan, Thũy Sĩ, Đức… Chân trời nhìn ngắm hiểu biết của ba sớm được mở rộng như vậy nên ba thường xuyên mang căn bệnh “thèm chân trời”. Càng về sau này khi ba không còn dịp may đi đây đi đó nữa, căn bệnh càng dằn vặt ba dữ, thì may thay ba tìm thấy linh dược nơi tác phẩm của “ông nhà văn”. “Trái đất dường như nhỏ xíu với ông ta à,” – một lần ba nói với Phượng sau khi đọc một chương trong đó tả rất kỹ, rất linh động cuộc hành trình của một nhân vật đương di chuyển gấp từ Paris qua Đại Tây Dương để tới New York.

Đời sống của một ký giả như ba – dù ký giả thuở ban đầu đi nữa – vẫn đầy dẫy những nét quyến rũ riêng của nghề nghiệp này: cách sống la cà ở khắp nơi vào mọi lúc thật quyến rũ; ăn uống thất thường nhưng sành sỏi, thật quyến rũ; giao thiệp thân mật, bay bướm, thật quyến rũ… Những điều này ba gặp đầy dẫy trên những trang in của “ông nhà văn”. Ba làm báo cho nhà băng, thân cận giới tài phiệt quốc tế nên rất thích về thời cuộc. Năm 1938, ba đã thấy trước thế nào Đệ Nhất Thế Chiến không sớm thì muộn sẽ phải xảy ra. Quả nhiên! Vì vậy ba khoái những tiên đoán thời cuộc căn cứ trên những dữ kiện kinh tế, chính trị, quân sự cùng đan lát thành một bối cảnh rộng lớn. Trong hầu hết tác phẩm của ông ta, ba tìm thấy những âm hưởng đồng điệu đó. Tuy xuất thân làm báo gần giới tài phiệt Pháp, nhưng ba căm giận chính sách thực dân Pháp tại Đông Dương và chống sự nhượng bộ của Pháp với Nhật vào thời đó. Và ba đã cùng một số chiến hữu quốc gia chủ trương thêm tờ tuần báo Tin Tức Chủ nhật trong khi vẫn viết cho tờ Opinion để vừa giữ thế, vừa lấy tin tức, vừa dùng làm bình phong ngụy trang. Rồi chẳng bao lâu các báo của Cộng sản bị đóng cửa (La Lutte, Dân Chúng), các cán bộ Cộng sản bị bắt giam. Trong khi không ai gặp gỡ luật sư L. người Pháp. Maitre L. là luật sư chỉ định, công khai – avocat désigné, officiel – để sẽ biện hộ cho đám phạm nhân Cộng sản. Ba đã liên lạc và nhờ được Maitre L. thực hiện giúp việc tiếp tế cho những nạn nhân Cộng sản trong nghề ký giả. Ba nói cho Phượng hay là mỗi lần thăm nuôi như vậy tốn chừng năm mươi đồng thời giá. Chính bồi bếp của Maitre L. mua hộ thức ăn và thuốc men cần thiết.

2

Chính những bồi bếp của Maitre L. mua hộ thức ăn và thuốc men cần thiết để gửi vào trong nhà lao.

- Thế là ba đã vào con đường chính trị thực sự rồi. - Phượng đã nói với ba như vậy.

- Nhưng ba không gia nhập Đảng Cộng sản mà vào Nhân dân Cách mạng Đảng, đảng viên gồm tất cả những ai nhiệt thành với sự nghiệp giải phóng đất nước, giành độc lập, chứ không đề cao công nhân như Đệ Tam Quốc tế.

- Ba hoạt động tại ngay Sài Gòn?

- Đúng! Trên bề mặt ba vẫn viết cho báo Opinion để vừa ngụy trang vừa lấy tin tức dồi dào và xác thực, nhưng phụ tá ba là một người bạn chí thân, anh Phác. Ảnh làm con thoi liên lạc với những địa bàn hoạt động khác, thoạt là Tây Ninh – vì giáo phái Cao Đài nơi đây có tư tưởng chống Pháp rõ ràng. Rồi trường hạ sĩ quan của Pháp ở Thủ Dầu Một cũng có một số đồng chí của ba lẩn được vào, rồi từ địa bàn hoạt động dần xuống Vũng Tàu, bắt liên lạc với số lính phản chiến không chịu theo Pháp đánh Thái Lan năm 1940.

Phượng nói như reo:

- Ngay từ ngày đó ba đã biết “kính nhi viễn chi” Cộng sản!

Ba cải chính liền:

- Không đâu con ơi! Chúng nó tinh ma lắm. Bản chất của chúng như vậy mà. Thoạt ba thấy có một số bạn học xưa của ba từ Hà Nội vào tìm liên lạc với ba. Họ muốn tổ chức mình rồi đó, vì họ thấy ba quen khắp mặt công chức cao cấp, chỗ nào ba vô cũng được. Là ký giả mà! Ba là người duy nhất có thể cung cấp cho họ những nguồn tin phong phú nhất. Vả lại thuở đó nanh vuốt Cộng sản chưa xòe ra, còn hiền lành lắm. Lòng yêu nước thiết tha muốn đánh đuổi thực dân, giành độc lập... là mẫu số chung vằng vặc rõ ràng cho tất cả. Đệ Nhị Thế Chiến đã bùng nổ.

Ngừng một chút rồi ba mới nói:

- Kế đó là vụ Nam Kỳ khởi nghĩa hoàn toàn do Xứ ủy Đảng Cộng sản chủ trương và phát động. Ba bị bắt chỉ là do các đảng viên Cộng sản khai ra. Họ khai những liên lạc bàng hệ để đánh lạc hướng mật thám Pháp mà che chở cho những tổ chức của chính họ. Điều đó cũng là lẽ khôn ngoan thường tình thôi. Nhưng phải đợi đến khi đọc tác phẩm chi tiết.

Phượng ngước nhìn, suy nghĩ lục lọi trí nhớ:

- Con nhớ rồi ba, cuộc Nam Kỳ khởi Nghĩa đã chiếm trọn vẹn một chương.

Ba gật đầu:

- Y như quay lại cả một cuốn phim. Khi đọc xong ba mới biết là viên Xứ ủy miền Nam của Đảng Cộng sản có ra gặp Trung ương ngoài Bắc, nhưng Trung ương cản vì tiên đoán cuộc khởi nghĩa sẽ bị cô lập. Viên Xứ ủy trở lại Sài Gòn, vừa đặt chân xuống sân ga xe lửa thì bị bắt với đầy đủ tài liệu. Sài Gòn bị bố ráp tức khắc và ém nhẹm. Đúng ngày giờ, các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Long An tuần tự nổi dậy, nhưng Sài Gòn – bộ não – thì im bặt. Mười bảy thôn Vườn Trầu của vùng Bà Điểm, Hóc Môn vốn có truyền thống chống ngoại xâm từ thời Trương Định, từng là cái nôi cho những hoạt động Cộng sản từ trước 1930. Vào dịp Nam Kỳ khởi nghĩa này, dĩ nhiên mười bảy thôn Vườn Trầu lãnh trách nhiệm thanh toán các cứ điểm Sài Gòn vào ngày giờ đã định. Có bốn cứ điểm chính: Đánh vào trại lính 11e RIC, vừa để diệt lực lượng bộ binh Âu Phi – xương sống của quân lực Pháp – vừa cướp vũ khí; đánh vào thành Ô-Ma (Camp aux Mares – thuở đó khu này còn đầy dẫy những đầm ao), cũng vừa để đám lính khố đỏ có dịp theo quân khởi nghĩa khỏi phải đi đánh Thái Lan, vừa để cướp vũ khí; phá khám lớn Sài Gòn để giải phóng tù chính trị; và sau cùng chiếm nhà Bưu điện để bảo đảm về thông tin liên lạc. Quân khởi nghĩa xâm nhập Sài Gòn như những dân thường, tập trung rất nhiều dọc theo từ chợ Bến Thành đến Chợ Lớn.

- Không sợ lộ ư ba?

- Lộ sao được, thời đó từ năm giờ chiều trở đi là đường Sài Gòn-Chợ Lớn từ chợ Bến Thành đến khu Đại Thế Giới tấp nập như mở hội, ngày nào cũng vậy. Phương tiện giao thông chính yếu là xe điện và xe thổ mộ. Họ vui chơi ăn nhậu, đánh bạc tại khu Đại Thế Giới suốt ngày đêm mà. Dạo đó Chợ Lớn càng đông rộn vì đám người Tàu chạy loạn từ Hồng Kông, Thượng Hải sang, Nhật đương tiến như vũ bão tại Trung Hoa. Nhưng quân khởi nghĩa đợi đến gần sáng không thấy hiệu lệnh gì, vội rút lui. Tránh sao một số bị bắt.

- Hồi ba bị bắt còn bị tra tấn nữa chứ?

- Tránh sao khỏi. Ba bị tra tấn ở bót Catinat. Ngày nay mỗi lần qua đó ba còn rùng mình nè. Những cuộc lấy khẩu cung thường khởi sự vào mười hai giờ đêm. Thoạt dỗ ngọt không được, nó bắt mình nằm sấp, dùng roi đánh giữa hai bàn chân, dân thần kinh dẫn lên buốt óc. Hôm sau hai chân sưng vù lên, không đi được, phải lết. Giai đoạn hai tới còn “cho đi tàu bay” nghĩa là nó treo mình lửng lơ mà sơi dây trói mình chỉ quấn chặt nơi hai ngón tay cái.

- Trời, làm sao mà treo mình được vậy, ba?

- Khó gì con, khi quấn sợi dây treo vào hai ngón tay cái thì mình còn đứng trên ghế, nó hất ghế đi, thế là mình lửng lơ, chân không đến đất, cật chẳng đến trời, sức mạnh kéo xuống từ hai ngón tay cái, bốn thằng bốn bên thay phiên nhau đánh, đánh ở bụng, ở ngực, đau buốt tới óc, còn toát mồ hôi nữa. Giai đoạn ba tới quay điện.

Phượng nhắm mắt, lắc đầu hỏi, cố tình để lảng câu chuyện sang lãnh vực khác:

- Về phương diện này chắc “ông nhà văn” không bổ túc gì thêm cho kinh nghiệm của ba?

Ba trợn mắt phản ứng liền:

- Có chứ! Thế con quên chương Sáu ở cùng tác phẩm đó à? Nhân vật của ông ta chịu đựng cuộc tra tấn cuối cùng rùng rợn hơn cả, đó là cực hình “đi tàu ngầm”. Nhân vật bị trói chặt từ đùi xuống đến cổ chân liền vào một tấm ván, phần thân trên được hoàn toàn tự do trừ hai cổ tay bị trói quặt về phía sau. Nó bắt nằm ngửa theo thế dốc, đầu thấp hơn chân, rồi khăn mặt nhúng nước đắp lên mũi, mình thở, hít nước vào căng bụng.

Phượng nhớ chương đó rồi và rùng mình trong khi ba kể tiếp:

- Thoạt nó nhúng vào nước vo gạo. Thở hít để bụng căng nước xà-bông tuy đắng nghét xót ruột, nhưng không bốc lộng lên óc bằng nước vo gạo để chua với đủ các gia vị khác là hành tỏi, ớt...

Ngưng lại giây lâu ba tiếp:

- Những cay đắng nhục nhằn đó - điển hình cho một giai đoạn lịch sử - cần được ghi lại cho hậu thế hay, con ạ. Ghi lại dưới một hình thức hồi ký đã là quý, đây lại được ghi lại dưới hình thức nghệ thuật tiểu thuyết sáng tác văn chương - “hết sảy” con ơi! Riêng với ba, ba mang ơn ông ta đó!

- Con nhớ một lần ba đã bảo là thuở đó ba suýt bị kết án tử hình.

- Phải, biện lý đề nghị kết án tử hình, vì ba đã cung cấp bản đồ thành Ô-Ma cho quân khởi nghĩa. May thuở đó sở Mật Thám còn bắt một lô những người thân Nhật vừa chống Pétain, vừa chống De Gaulle. Ba lẫn vào đám “hầm bà lằng” đó mà chỉ bị kết án tám năm khổ sai cộng với tám năm biệt xứ

- nghĩa là sau tám năm khổ sai ở Côn Đảo, nếu ba còn sống trở về, sẽ bị an trí tại các vùng như Cà Mau, rừng U Minh, Đồng Tháp, chứ không được ở tại các thị trấn. Khi bị chở ra Côn Đảo, thoạt ba khoái lắm, nghĩ rằng ở đảo hẳn là cuộc sống tù tương đối tự do hơn. Nằm nghe máy chạy, lúc ở sông tàu đi êm hơn, tới Cap-Saint-Jacques biết ngay. Gặp sóng lớn mà!

Phượng cười khanh khách:

- Ba đã có những nhận xét và tả cảnh theo phong độ của “ông nhà văn”!

Ba cũng cười:

- Đúng vậy! Tàu chạy suốt đêm, khoảng mười giờ sáng tới Côn Đảo. Điều rùng rợn đầu tiên là từng hai đứa tù chung một xích tay, phải nhảy một lượt từ thành tàu xuống xà lan cách đến ba thước cao, hai bên là hai tên cai tù sẵn tay roi quất lia lịa. Cứ như vậy, nhảy đều như một bầy cừu, hai con một. Có cặp nhảy xuống không đúng nhịp điệu, gãy tay hay gãy chân ngay tại chỗ. Ấn tượng địa ngục có từ đấy con ạ. Ba và đám anh em tù chính trị được lùa thẳng về Ban 3 – tức Bagne 3, Nhà ngục 3. Ban 1 có hầm xay lúa, loại tù ở đây là tù cũ lâu năm đã thuần rồi. Ban 2 gồm tù chính trị và thường phạm, phải đi lao động nặng. Ban 3 gồm đám anh em Nam Kỳ khởi nghĩa cùng với đám anh em thân Nhật và đám mới chuyển từ Sơn La, Lao Bảo, Ban Mê Thuột tới. Đây là loại được xếp hạng nguy hiểm nhất. Thoạt tất cả tập trung ở sân thứ nhất để khám xét. Áo quần, tiền bạc, chăn mền bỏ lại hết. Mọi người trần như nhộng. Mỗi tù được phát một bộ quần áo xanh mới lược sơ qua đường chỉ, chưa khâu hẳn, và một chiếc chiếu. Đưa vào sân thứ hai, tù phải sắp hàng để từng người vào từng phòng, một bề bốn thước, một bề tám thước. Trước đó mỗi phòng như vậy chỉ nhốt có hai mươi người, lần này vì tù đông quá nên nhốt tới tám mươi anh. Kể từ đấy mỗi lần sắp hàng để vào buồng từng người một, là một lần phải “múa” Mai hoa quyền. Con có hiểu vì sao không?

- Vì sao ba?

- Cai tù bắt từng đứa vừa chạy vô phòng, vừa phải há mồm giơ tay, giơ chân để kiểm soát xem có dấu gì ở mồm, ở nách, ở hậu môn không.

Phượng cười rũ. Ba tiếp:

- Ngày thứ hai bắt cạo đầu trọc, tù nọ cạo cho tù kia. Không có dao, cạo bằng mảnh sắt mài ở ngay nền xi-măng trong phòng. Buổi sáng tập họp để điểm danh, đến chín giờ tập họp để xem có ai khai ốm, khoảng mười giờ rưỡi tập họp để ra ăn ở ngoài hàng hiên, ăn xong tập họp vào. Hai giờ chiều, tập họp điểm danh chiều; bốn giờ chiều tập họp ăn, rồi tập họp vào. Đó là bình thường, không kể những tập họp bất bình thường để khám xét. Mỗi lần tập họp điểm danh đều có đánh, nghĩa là cai tù cầm gậy tầm vông khỏ lên đầu để đếm từng cặp một. Và mỗi lần tập họp để từ ngoài vô phòng đều phải biểu diễn... Mai hoa quyền. Con có biết không, áo quần mới lược chỉ nên mặc vào được một buổi chiều là tả tơi ra từng mảnh. Vào bữa ăn, anh em bèn phân công người vừa ăn vừa kín đáo cắn mép ca bằng sắt tây, lấy ra sợi dây thép vòng quanh mép ca, kẹp ở tay vừa đủ chiều dài cây kim để không bị lộ khi “múa” Mai hoa quyền vào phòng. Rồi ở trong phòng, có công mài sắt có ngày nên kim. Kim đó sẽ dùng khâu lại quần áo mới phát.

- Chỉ lấy ở đâu, ba?

- Ấy, cắt bớt vải ở áo quần quá dài, quá rộng, gỡ sợi ra se lại thành chỉ. Người bạn tù biết may dạy cho tất cả anh em cách may vá. Chỉ mười ngày sau là ai nấy áo quần vừa vặn đàng hoàng, vừa bề rộng vừa chiều dài. Bọn cai tù thấy vậy bất chợt tới khám phòng. Tìm dao, không thấy; tìm kim, không thấy.

- Kim dấu thì dễ rồi, nhưng dao dấu đâu, ba?

- Cắt vải thì cắt hết loạt vào buổi tối rồi dấu dao vào các khe tường. Bờ tường vốn sơn hắc ín, mình dùng chút cơm nguội nghiền với vụn hắc ín trét vào khoảng đó, làm sao mà nhận ra? Dấu tài liệu cũng bằng cách đó con ạ.

- Tài liệu nào, ba?

- Con ngạc nhiên là phải? Ai cũng ngạc nhiên, kể cả bộ tham mưu Sở Mật thám Pháp. Con nghe đây: người tù đảng viên cũ được tuyển ra giúp việc cho viên xếp Tây ở văn phòng nhân sự - thôi thế là đầu chạy, đuôi lọt rồi. Người đảng viên Cộng sản nào mà chẳng được huấn luyện về các phương thức vận động, tuyên truyền, tổ chức quần chúng và phương thức đấu tranh từ kinh tế thiết thực để quyến rũ mọi người, rồi nhuộm màu chính trị dần, rồi tiến tới đấu tranh bán vũ trang, cuối cùng là đấu tranh vũ trang thật sự. Bởi vậy, khi một đảng viên được tuyển chọn giúp phòng nhân viên, bèn bí mật tự thiết lập ngay một bảng danh sách đảng viên các cấp hiện trong tù. Có được bảng danh sách rồi thì ra chỉ thị bắt đầu tổ chức lớp học chính trị.

- Làm sao mà ra chỉ thị, phổ biến chỉ thị được hả ba?

- Đứng đầu bệnh viện là một bác sĩ Pháp, nhưng ông ta chỉ khám bệnh cho nhân viên Pháp, dưới quyền là một bác sĩ Việt Nam khám cho cả nhân viên Việt Nam và tù. Những người tù đảng viên được tuyển ra giúp bác sĩ đi phát thuốc cho các tù nhân từng trại, có giấy ghi chỉ thị.

- “Chèng đéc”, con hiểu rồi.

- Lớp học chính trị xen kẽ với các lớp văn hóa và học nghề để dễ bề ngụy trang. Thoạt chỉ là phân tích tình hình thế giới, thảo luận về đấu tranh chống áp bức, giành tự do, chống địa chủ phong kiến bóc lột nông dân... Ai cũng thích dự và thích tranh luận. Trong tranh luận phát hiện khuynh hướng, do đó họ nhận ra anh nào có thể kết nạp thành đảng viên sau này, anh nào chỉ có thể vĩnh viễn coi là quần chúng cảm tình, anh nào thuộc phe địch – ngày đó là đám thân Nhật. Phân loại rồi, có những buổi học chính trị tiến xa hơn, do đó họ họp riêng. Qua giai đoạn phân loại, sang giai đoạn thử thách. Hàng tuần hay có những vụ khủng bố để khám xét. Cai tù thét mắng, đánh loạn xạ, bắt xếp hàng lẹ để điểm danh, cây tầm vông khỏ lên đầu những anh đứng hàng ngoài. Kẻ thử thách được phân công bảo vệ cho số chủ chốt, bèn lanh chân xung phong đứng ra hàng ngoài để lãnh cú khỏ tầm vông. Cách thử thách thứ hai là bắt trèo lên vai nhau nhìn qua khe hở theo dõi bọn lính gác đi tuần bên ngoài, trong khi bên dưới tiếp tục học tập; hay một toán khác của bộ phận thông tin cũng đứng trên vai nhau để liên lạc tin tức với phòng kế bên – mỗi dãy gồm bốn phòng. Bất chợt lính gác tới. Không nhảy xuống nhanh, nó bắt được, nhừ đòn là lẽ dĩ nhiên. Bộ phận thông tin hoàn tất nhiệm vụ sẽ cung cấp cho toàn phòng biết tình hình thế giới, tình hình trong nước, tù mới tới có bao nhiêu, tên tuổi là gì. Tất cả tù nhân trong phòng – không kể đảng phái nào – đều rất hài lòng về việc được thông báo cho biết những tin tức sốt dẻo như vậy. Chỉ ba tháng sau là đảng viên Cộng sản nơi Ban 3 đã tổ chức xong xuôi chi bộ.

- Kinh thật!

- Mà con nên nhớ cả bộ não Sở Mật thám

Pháp ngày đó biết vậy mà không sao tìm ra đầu mối.

- Dạo đó ba được chi bộ Cộng sản trong tù xếp vào loại nào?

- Loại quần chúng cảm tình, dĩ nhiên. Dạo đó Cộng sản còn quyến rũ lắm mà.

- Ba ơi, đã đạt được một tổ chức hợp tình hợp lý, chặt chẽ tuyệt hảo như vậy mà họ tranh đấu để xây dựng cho hạnh phúc dân tộc và nhân loại thật thì có thánh cũng không lật đổ được.

Ba cười ngất:

- Nếu được thế thì họ chính là thánh rồi còn đâu!

Phượng bỗng cất tiếng cười thật hồn nhiên:

- Về chuyện tù đầy tại Côn Đảo thì “ông nhà văn” không qua mặt được ba!

Ba ngừng tiếng cười:

- Không đâu con, con quên chương Tám trong tác phẩm đó sao? Chương nói về cuộc vượt ngục bằng thuyền. Con nhớ ba đọc chương đó vào một lúc tâm trạng buồn lạ lùng. Con người có những lúc tinh thần sụm xuống như một cơ thể bị rút hết xương, chỉ còn là một đống thịt nhão, chả ra hình thù gì. Ba đã đọc chương nói về cuộc vượt ngục Côn Đảo này vào lúc có tâm trạng thứ hai. Những chi tiết tỉ mỉ của cuộc vượt ngục, cứ như vậy rót đầy dần, rót đầy dần vào tâm hồn trống rỗng thê thảm của ba lúc đó. Từ 1935 trở về trước, các bậc tiền bối vượt ngục Côn Đảo bằng bè. Bè chỉ biết theo sóng, phó mặc cho may rủi, khó điều khiển, sóng lớn thì bè vỡ. Từ sau 1935, tù nhân Côn Đảo mới rút kinh nghiệm mà tổ chức vượt ngục bằng thuyền có bánh lái, có buồm, điều khiển được, lợi dụng tối đa sức gió. Đây là đám tù nhân đã được tuyển ra khỏi bagne làm nhân công giúp trại sản xuất chăn tằm, nuôi vịt, chăn trâu bò, làm ruộng, làm muối, làm đồ gỗ, đóng thuyền đánh cá, làm nước mắm... Không còn bị kiểm soát ngặt nghèo, được ở ngay trong bagne của sở, hay được ở những chòi riêng để trồng trọt thêm, nuôi gà vịt thêm... Thế là họ tìm hiểu nhau, chọn lựa nhau để về nhân sự thỏa mãn được đủ các nhu cầu: ai biết đóng thuyền làm buồm, ai biết sử dụng buồm, điều khiển tay lái, ai am tường các địa phương mà thuyền có hy vọng dạt vào như Cà Mau, Rạch Giá, Gò Công... Tới địa phương nào biết cách thích nghi với địa phương đó về địa thế, phong tục, tập quán, nghề nghiệp từng vùng, dân địa phương sẽ không nghi mình là mật thám. Thấy mình chống Pháp, người nông dân hào hiệp miền Nam còn che chở giúp đỡ cho nữa, kể cả anh hương quản, một thứ công an địa phương thời Pháp thuộc. Tù nhân không được phép để tóc dài. Do kinh nghiệm bị bắt lại của những người đi trước, lần này phân công hẳn một người phụ trách làm hai mươi lăm mái tóc giả, làm rất đơn giản, bên trong là mũ nồi bằng vải, ngoài là lớp dầu rái – lấy ở cây dầu thường để sơn và xảm thuyền – rồi đính tóc dài lên. Ai đi làm cũng phát gạo hằng ngày, cơm thừa kín đáo phơi khô, dự trữ tại vài kho kín. Kinh nghiệm cho hay chớ dấu vào một kho duy nhất, lỡ chó săn của các thầy, chú – gardiens – đánh hơi thấy là khánh tận lương khô, kế hoạch lỡ dở. Ống bương trước khi đựng nước ngọt phải ngâm kỹ cho hết mùi hôi và phết dầu rái ở hai đầu cho kín. Người đứng đầu điều khiển mọi lao tác này rất can trường, kinh nghiệm vượt ngục đầy mình. Anh vốn là một tướng cướp bị bắt, nhưng là thứ cướp anh hùng hảo hớn đặc biệt của miền Nam. Vị quân sư tổng hợp mọi tin tức tình hình trong đảo là một nhà trí thức. Người nào được cai tù phân công đi rừng làm dầu rái, người đó ăn cắp dầu để quét vào vải bọc thuyền và làm buồm. Vải đó là quần áo dư tháo ra và vải mua thêm nơi gia đình các thày, chú coi tù. Vải chỉ sơn phết hai lần dầu là dầy cộm và cứng như gỗ, nước không thể thấm được. Thuyền hai buồm, buồm lớn bề cao bốn thước. Buồm nhỏ chỉ bằng một phần ba buồm lớn. Cuộc sửa soạn kéo dài tám tháng. Đám nhân vật đó chọn thời gian vượt ngục vào tháng Mười Hai, lợi dụng gió Đông Bắc. Họ tránh mùa gió Nam – từ tháng Tư đến tháng Chín – vì gió này thổi mạnh có thể đưa thuyền lạc hướng ra khơi Thái Bình Dương, chết đói chết khát giữa khoảng trời nước mênh mông ấy, hoặc dạt vào Vũng Tàu đầy dẫy những Tây đầm, hoặc dạt vào Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang cũng vẫn khó tránh khỏi bị bắt lại. Nương theo gió Đông Bắc này, lái khéo, thuyền họ sẽ tới Cà Mau, hoặc nếu như có phải lảng tránh tàu tuần tiễu Pháp mà lãng đãng xuống vùng Vịnh Thái Lan thì khoảng này sóng yên biển lặng, có thể lái vào một đảo nhỏ nào đó thuộc Cao Miên.

Vào một ngày đẹp trời, tổng hợp được đủ dữ kiện thuận tiện về con gió, con nước và tình hình canh phòng bờ biển, nhà trí thức quân sự quyết định ngày vượt ngục vào hai hôm sau. Những cây mây đủ loại thích hợp cho từng loại công việc đã được chú ý từ trước nay được đánh dấu. Mọi công việc sẽ răm rắp theo đúng thứ tự. Kể cả chỗ ngồi của từng người trên con thuyền chưa được làm cũng đã định trước. Đúng hôm đi, năm giờ chiều ăn cơm xong, năm giờ rưỡi điểm danh; tối vừa lên đèn, mọi hoạt động khởi sự như thường lệ: sòng bạc của anh em bắt đầu mở, đám hát bội của anh em sửa soạn trình diễn, đám nấu rượu lậu bắt đầu sửa soạn nồi và ống trắm (gạo nấu rượu ăn cắp của kho). Thế là nhóm vượt ngục kẻ trước người sau, cách nhau chừng mười lăm phút lẳng lặng ra khỏi bagne. Công việc phân công của từng nhóm thực hiện cực nhanh và ăn khớp tuyệt đối. Chặt mây lớn làm khung thuyền, chặt mây nhỏ - mây cát – làm dây buộc và dây khâu vỏ thuyền (vải sơn dầu rái). Chặt hai cây tre cho hai cột buồm. Khoảng mười hai giờ đêm, thuyền đã ráp xong và thả xuống nước. Kiểm soát thấy nước không thấm vào thì bắt đầu chuyển gấp lương khô và nước ngọt lên thuyền cùng mái chèo và các sào chống. Bốn người lên thuyền phía trước, hai người giữ buồm – vẫn còn cuộn lại – tất cả những người khác khom lưng đẩy thuyền. Cho tới lúc thuyền có thể nương sóng mà ra khơi, anh chỉ huy mới ra lệnh từng người lên thuyền ngồi đúng vị trí đã định trước của mình. Bắt đầu bơi thuyền theo gió cho tới khi anh chỉ huy thấy thật đúng hướng rồi mới cho lệnh mở buồm. Tất cả đều biết rằng nếu rủi gặp gió quần và sống cứ đẩy thuyền vào bờ, hai giờ sáng vẫn chưa ra khỏi bờ biển, thì đành phải phá thuyền rồi dìm tạm phi tang xuống biển. Nói là tạm phi tang vì trước sau sóng biển cũng bốc nổi tang vật lên mặt nước, đưa dạt vào bờ dưới mắt các thầy, chú đi tuần hằng ngày. Tại sao hai giờ sáng chưa ra khỏi bờ biển phải phá thuyền ngay? Vì phá thuyền và dìm cho tạm phi tang cũng phải mất một giờ.

Ba giờ sáng ở bờ biển, nhìn lên bầu trời đã bừng sáng dần, phản chiếu xuống ánh nước lân tinh. Nếu như thất bại không vượt thoát ra khơi, đám tù đó phải rảo cẳng về trại tức khắc để lấy lại hơi thở, vẻ mặt điềm tĩnh vào năm giờ sáng là lúc toàn trại đã thức giấc. Nhưng đám nhân vật đó đã thành công trong chuyến vượt ngục! Họ lênh đênh ba ngày trên biển và tới được vùng bờ biển Cà Mau. Thực ra chỉ cần một ngày một đêm, nhưng hải trình họ đi cũng là hải trình của tàu từ Bangkok, từ Singapore đi Sài Gòn rồi Hồng Kông; hoặc ngược lại, những tàu từ Hải Phòng tới Sài Gòn qua Côn Đảo rồi cũng đi Bangkok hay Singapore. Hễ thoáng thấy ống khói tàu ở chân trời là phải lái thuyền lảng xa. Lương khô và nước chuẩn bị cho mười ngày, ba ngày thuyền đã cập bến, thật suôn sẻ. Tất cả những chuẩn bị khi lên đất liền đã thật chu đáo, vậy mà sau đó hai anh bị bắt lại. Hai anh quá chủ quan, từ Cà Mau về Vĩnh Long mon men tìm cách thăm gia đình, bị một anh hương quản bắt được đem nộp quan chánh án Vĩnh Long. Ông chánh án này vào làng Tây nhưng ghét Tây. Anh hương quản thưa: “Bẩm quan làng, chúng con bắt được hai tên Cộng sản!” Ông chánh án quát: “Thế nào là Cộng sản?” Thuở đó hễ nổi dậy chống chính quyền bất kỳ bằng hình thức nào là bị gán ngay cho hai chữ Cộng sản liền. Tù vượt ngục hẳn cũng là Cộng sản thôi, nhưng hỏi Cộng sản là gì thì làm sao mà anh hương quản định nghĩa cho được. Anh ta lúng túng không biết đáp sao, ông chánh án quát: “Thôi về!” Thế là hương quản líu ríu về. Sau đó ông chánh án thả hai anh tù vượt ngục.

Ba ngừng lại mấy giây rồi nói với Phượng:

- Con có biết không, câu chuyện không hề bịa đặt vì ông chánh án đó tên là Khiết, ba có quen từ thuở còn là ký giả viết cho tờ Opinion. Ông ta có tiếng là ngang bướng, dĩ nhiên thực dân Pháp không ưa nhưng chẳng làm gì được, ông là dân Tây mà. Một lần vui câu chuyện ba hỏi lý do, ông đáp tỉnh bơ: “Thì mình không chống thực dân, người ta chống cho mình, còn làm khó dễ người ta làm gì!”

Cuộc nói chuyện giữa hai cha con lần này đã kéo quá dài, từ sau bữa cơm chiều bảy giờ tối – mười giờ khuya rồi! Ba mệt, che miệng ngáp, đu đưa chiếc xích đu như gắng làm cho mình tỉnh ngủ, ba nói để kết thúc câu chuyện:

- Ba đã nói cho con hay rồi đấy, ba đọc chương vượt ngục đó vào lúc tinh thần cực kỳ trống rỗng,toàn cơ thể như muốn sụp xuống. Những tình tiết của cuộc vượt ngục cứ lần lượt rót đầy ý nghĩa sự sống vào ba cho đến lúc đầy ắp lúc nào không hay. Khi mình về già, mình ưa mủi lòng hoài niệm những gì đã làm, hoặc toan tính làm thuở còn trẻ. Chương Tám thuật lại chuyện vượt ngục này giúp ba sống lại cả một thời bị đầy ải tại Côn Đảo. Ba vẫn nghĩ những hạnh phục, những khổ đau của cả một giai đoạn lịch sử phải được cô đọng, ghi chép lại thành một viện bảo tàng chữ nghĩa như vậy cho chính những người trong truyện nhận lại mình, sống lại mình, cho người đồng thời có được cái nhìn phong phú hơn về thời đại mình sống, cho đám con cháu sau này thấy rõ một giai đoạn lịch sử đã qua của cha ông. Phải thế mới được! Một ngọn đèn có thể chiếu sáng cho ta thấy cả một vùng, một tác phẩm có thế chiếu sáng cho ta thấy cả một thời đại. Riêng ba, thiệt tình mang ơn ông ta vì thế!

Một lần nữa ba che miệng ngáp. Im lặng. Ba thiu thiu ngủ.

4

Chuyện ba còn dài! Có lẽ ba giờ chiều rồi. Một em bé, con bà chủ nhà, mang lên căn gác xép cho Phượng bình nước uống. Bà chủ nhà, cũng là thành viên ban tổ chức, vốn là chỗ rất thân tình với má, vì vậy Phượng mới được dành đặc biệt cho ở căn gác xép này, y hệt một người của gia đình. Phượng nghĩ đến sáu chiếc bánh chưng vuông vắn xinh xẻo và lọ ruốc sỏi trong chiếc sắc mở ngỏ kia, nhưng Phượng chưa thấy đói. Phượng chợt thấy nhớ… mình – nhớ những bức thư mình đã viết đã gửi. Phượng với tay lấy quyển vở. Những hàng chữ quen thuộc! Phượng đọc lá thư thứ hai, sống lại những cảm nghĩ của mình ngày đó.

Ngày 28-6-1975

Ông kính mến, tôi đang ngồi ở góc một căn phòng đầy những tiếng ồn ào cười nói của những người xa lạ. Nhớ đến ông! Ngậm ngùi! Bây giờ ông đang làm gì nhỉ? Có khi nào ông nhớ đến tôi, con bé đã gửi thư cho ông? Ông có ngạc nhiên, ông có bực mình? Có khi nào ông nghĩ: “Ồ con bé vớ va vớ vẩn hẳn đang cần một người thương để làm nũng, cần một người bạn để tâm tình!” Thật ra thì ông nghĩ sao cũng đành chịu vậy thôi, tôi không dám kể lể với ông đâu. Đã từ lâu tôi cắt đứt liên hệ với những bạn xung quanh thân hay sơ. Nghĩ đến ông như một tin yêu mong manh cuối cùng. Nghĩ có thể mình ra đi bất ngờ lúc nào không hay nên đã đột ngột biên thư cho ông. Ông có nhức đầu? Tôi muốn được viết cho ông hoài, viết cho đến ngày… Mà thôi, với những giờ phút còn lại, tôi đang biên thư cho ông, và ông còn nhận, thế là đủ rồi. Ngày xưa tôi vẫn thường ao ước được gặp ông, được đàm thoại với ông, thì ngày nay sau buổi diễn thuyết tại trường tôi, ông nhận diễn thuyết tại thính đường Quốc gia Âm nhạc Viện về một đề tài văn chương khác, dĩ nhiên tôi nghỉ học và đến nghe chứ! Nghe ông lần thứ hai đó, nhỏ bạn ngồi bên đã một lần làm tôi gián đoạn ý tưởng với ông. Nghe ông nói: “Đã đành tờ giấy nguyên thủy trắng phau đẹp hơn tờ giấy ra công tẩy xóa cho không còn vết bẩn. Nhưng với con người thì lại khác, bị bỏng tay rồi sợ lửa ý vị hơn người chưa biết lửa nhưng cố tránh lửa theo lời khuyên của cổ nhân.” Nhỏ bạn biểu đồng tình: “Đúng vậy, lời hay ý đẹp của thánh nhân không thể hoàn toàn dạy khôn được người đời một khi người đời chưa được dịp tự dạy khôn chính mình bằng kinh nghiệm.” Tôi đã gián đoạn ý tưởng với ông để bâng quơ lòng tự nhủ lòng: “Người ta chỉ tìm thấy chân hạnh phúc khi quên hạnh phúc của chính mình!” Khi buổi diễn thuyết sắp kết thúc, thoáng nghĩ trong giây lát tôi sẽ ra về, rõ ràng có nhỏ bạn đi bên mà sao vẫn đơn côi vô cùng. Lúc đó tôi thoáng tự hỏi tại sao mình tới đây ngồi, và cũng không rõ tại sao tự nhiên có giọt nước mắt rơi xuống. Ông ạ, hôm đó tôi ra về bên nhỏ bạn, nó nói huyên thuyên những gì tôi nào có nghe. Bầu trời như thấp hơn và xám hơn. Sao tôi thèm làm cụm cây nhỏ đồng thời cũng thèm một bàn tay vỗ nhẹ trên đầu: “Đời thật khắc khổ, em nhỏ, thật khắc khổ!” Kính chúc ông có một chiều êm đẹp.

Kính thư, Ph.