Chương 5 Màu Trời Đỏ Quạnh
1
Phượng cương quyết giữ cho bộ óc “phẳng phiu”, “trắng phau”, không nghĩ thêm gì trong bữa ăn chiều lúc bảy giờ tối. Cơm nóng, thịt kho mặn, dưa leo. Chính bà chủ nhà xách cà-mèn đựng các thứ đó lên gác xép. Vẫn đôi lời đon đả thật thân mật, thật chân tình của bà khiến Phượng cảm thấy bóng tối vây quanh bên ngoài cũng ấm áp hiền hòa. Bà chủ đi ngay, bà bận nhiều, còn bận nhiều, cho đến tối mai khi mọi người lần lượt ra bãi, xuống ghe… “Mọi việc trôi chảy, cháu yên tâm tâm” đó là lời cuối cùng của bà nói với Phượng trước khi xuống khuất cầu thang.
Phượng cương quyết giữ cho bộ óc phẳng phiu, trắng phau trước bữa ăn, không nghĩ gì. Cho đến lúc em gái nhỏ - chắc là con út của bà chủ - mang lên cho Phượng bình trà mới và đem đi cà- mèn hết nhẵn cơm và thức ăn. Bình trà đậm hay lạt, Phượng không chú ý cho lắm, nhưng nóng bỏng, đó là điều Phượng ưng ý. Phượng uống từng ngụm nhỏ, hương lài bốc ngạt ngào. Hồi ức mon men tới. Trong không khí ngày đó, mất Ban Mê Thuột, quân đội rút lui khỏi Tây Nguyên, thế Cộng sản ùa tới mạnh như nước vỡ bờ, thế quân đội Quốc gia có những đơn vị tinh lọc như vàng ròng nhưng quá ít và mong manh, chẳng khác gì đám cháy lớn rút lại chỉ còn những ngọn lửa lẻ loi đây đó trong vùng không khí thoạt hừng hực uất hận rồi lịm dần vào ủ ê tuyệt vọng. Đặt chén trà xuống, cầm cuốn vở lên, nhưng Phượng đọc tiếp lá thư thứ sáu được gửi cùng một phong bì với lá thư thứ năm khi Phượng đã trở lại Sài Gòn và biết chắc là ông nhà văn chưa bị chúng nó bắt. Phượng nằm xuống, đặt đầu lên gối êm, đặt cuốn vở ngay trên ngực mình, mắt nhắm nghiền. “Cuộc di tản chiến thuật, cuộc rút lui của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ Cao Nguyên về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 là cuộc di tản điêu linh, đẫm máu, ác độc, bi thảm nhất thế kỷ”, Phượng còn kịp rên rỉ nghĩ thầm.
2
Phượng đã không ngoa đâu khi nghĩ về Họa, chàng trai sớm làm quen với cuộc sống nhà binh ăn cơm sấy, uống nước hố bom, luôn tự thấy mình có mặt tại những địa điểm vào những thời điểm bi thảm nhất. Họa đã có mặt trong cuộc di tản chiến thuật từ Pleiku qua Mỹ Thạnh, dọc theo tỉnh lộ 7, qua Cheo Reo, Phú Bổn, qua Củng Giả, An Hòa, về Tuy Hòa. Cuộc rút lui bi thảm còn bỏng dẫy trong trí nhớ Họa hoài hoài đến nỗi nhiều lần, rất nhiều lần sau đó, Họa kể với ba rồi với anh Trung nữa (khi anh Trung từ Đại lộ Kinh Hoàng, Quảng Trị về), kể vanh vách như đọc một trang nhật ký diễn tiến trận đánh Ban Mê Thuột và lịch trình rút lui của quân lực mình, những đụng độ với địch trên đường rút lui, “cuộc rút lui điêu linh, đẫm máu, ác độc bi thảm nhất thế kỷ”. Cho đến bây giờ, Họa ở bên kia trời Âu (Thụy Sĩ), chính nhiều khi Phượng cũng nghĩ rằng Họa còn giữ gìn nguyên vẹn những trang nhật ký đó trong đầu.
- Ngày 1-3-1975 Sư đoàn 968 của Cộng sản đánh mạnh hai đồn trên quốc lộ 19 phía Tây Pleiku và tiếp tục pháo kích sân bay Cù Hanh.
- Ngày 4-3-1975 Đ5 (Trung đoàn 95) E3 (Sư đoàn 3) thuộc T5 (khu 5) tiếp tục làm ung thối quanh An Khê trên quốc lộ 19. Ta điều động sư đoàn 22BB (bộ binh) giải tỏa An Khê. Lữ đoàn Kỵ binh 2 từ Pleiku xuống tảo thanh mạnh. Sư đoàn
10 và Sư đoàn thép 320 – đã từng dự trận Điện Biên xưa – âm thầm tiến về vây quanh Ban Mê Thuột.
- Ngày 6 và 7 tháng 3 quân lực ta được tung về Ban Mê Thuột truy tầm E320. Sư đoàn 23BB đã đánh tan một lực lượng khá mạnh của địch quanh Thuần Mẫn.
- Ngày 9-3 tất cả lực lượng địch dồn đánh
Thuần Mẫn, Đức Lập, Đắc Soong, Núi Lửa.
- Hai giờ sáng 10-3 đặc công Cộng sản đánh vào sân bay Hòa Bình, hậu cứ Trung đoàn 53, sân bay thị xã và kho đạn Mai Hắc Đế. Sư đoàn 23BB phản công dữ dội, đánh chiếm từng thước đất tại vùng sân bay Hòa Bình và kho đạn Mai Hắc Đế. Bảy giờ sáng chiến xa T54, PT74 tiến quanh thị xã.
17 giờ 50 quân Cộng sản chiếm Tiểu khu, nhưng tại sân bay Hòa Bình còn đánh. Tiểu đoàn 72, 96 Biệt động quân và Đại đội 23 Trinh Sát đánh tới người cuối cùng tại kho Mai Hắc Đế.
- Chiều 11-3 còn những cuộc đánh lẻ tẻ trong thị xã bởi những đơn vị tử thủ. Phi cơ dội bom dữ dội.
- Ngày 12-3 lúc 18 giờ Ban Mê Thuột thất thủ hoàn toàn. Hai trung đoàn 45 và 53 của sư đoàn 23BB cuối cùng rút lui ra khỏi vòng đai Ban Mê Thuột lúc 18 giờ ngày hôm sau, 13-3, bằng cách đánh cận chiến dao găm, lựu đạn với số địch đông gấp bội có chiến xa yểm trợ. Lúc 18 giờ lực lượng tăng viện được trực thăng vận tới quanh Ban Mê Thuột chừng năm cây số. Các trung đoàn 44, 45, 53 của sư đoàn 23BB, Liên đoàn 21 Biệt động quân cũng được đưa lên tăng cường – phi cơ yểm trợ tối đa – đánh sát vào thị xã. Nhưng…
- Sáng 14-3 có lệnh rút lui khỏi Ban Mê Thuột.
Ông Thiệu đã họp hội đồng tướng lãnh tại Cam Ranh chiều 14-3-75 nói rằng Mỹ ngừng quân họ, nên mình cũng làm áp lực lại bằng cách “di tản chiến thuật” khỏi Tây Nguyên.
Danh từ “di tản chiến thuật” được sử dụng một cách hài hước kể từ sau đó. Những người đại diện cho cái triều đại thối nát đến tởm lợm đó ý hẳn cho rằng Mỹ không bao giờ dám bỏ Việt Nam. Trái lại, những vị tướng lãnh trong sạch, những bậc thức giả cũng như ngoài nước đều không quên lời ông Kissinger trong tập tài liệu bí mật của Ngũ Giác Đài – Pentagon Paper – đại ý: “Nếu như người dân miền Nam Việt Nam muốn có một chế độ Cộng sản thì Hoa Kỳ không có lý gì để ngăn cản.” Cũng theo ý kiến của những vị tướng lãnh trong sạch và những bậc thức giả thì một khi cấp lãnh đạo Hoa Kỳ đã chấp nhận phương châm của ông Kít “vũ khí nguyên tử chỉ là cái khiên để che, không là cái mũi nhọn để đâm”, nếu cấp lãnh đạo Việt Nam mà tiếp tục thối nát, tồi tàn như bây giờ thì chẳng sao tránh khỏi số phận quân cờ thí. Trong khi đó những cuộc biểu tình phản chiến ngờ nghệch lọt vào bàn tay giật dây của Cộng sản với những khẩu hiểu “Người Mỹ hãy cút đi!”, “Americans, go home!” Chính một viên cố vấn Mỹ đã một lần thân mật nói với Họa từ
1972, “Lực lượng của thế giới tự do đành phải tạm bỏ Việt Nam. Cứ như hiện tình, tiền của và người đổ vào bao nhiêu cũng vô ích”.
Chính thể tham nhũng thối nát từ chóp đỉnh lại được trang trí thêm bằng các bà tướng, bà tá vừa đánh tứ sắc, vừa điều khiển buôn lậu, vừa gián tiếp tham dự chính quyền điều động quân sự mọi ngành. Cấp lãnh đạo Việt Nam khăng khăng tin rằng túi dầu lửa của Việt Nam trước thềm lục địa mênh mông như vậy, Mỹ bỏ Việt Nam sao được. Vì vậy mà có quyết định di tản chiến thuật, bỏ Tây Nguyên để bắt bí Mỹ, bất chấp mọi hậu quả cực kỳ bi thảm đã xảy tới tức thì.
Có ba đường rút quân được đề cập để tùy nghi chọn lựa. Rút quân về Quy Nhơn theo quốc lộ 19 phải qua đèo An Khê: cực kỳ nguy hiểm! Rút quân theo quốc lộ 14, ngược về Kontum. Rút từ Pleiku theo quốc lộ 14 một quãng, tới Mỹ Thạnh sẽ rẽ theo tỉnh lộ 7 qua Cheo Reo (Phú Bổn), Củng Giả (An Hòa) để về Tuy Hòa: đường rút quân này hoàn toàn tạo yếu tố bất ngờ, do đó đạt được an toàn tối đa với điều kiện rút nhanh và thật bí mật.
Nhưng làm sao mà giữ bí mật cho được! Sáu mươi ngàn dân – phân nửa là gia đình binh sĩ – đã hốt hoảng bám theo quân đội tạo yếu tố bất ngờ không phải cho địch mà cho chính mình: cuộc rút lui đẫm máu nhất trên chiến trường Đông Dương trong thế kỷ này. Chuẩn bị cho cuộc rút lui cho các lực lượng đã được chuẩn bị như sau:
- Toàn bộ tham mưu Quân đoàn 2 rút về Nha Trang bằng phi cơ thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương; Liên đoàn 22 Biệt động quân rút khỏi Kon- tum về PleiKu bảo vệ lộ trình rút lui về Tuy Hòa; Liên đoàn 6 Biệt động quân đi hậu tập. Suốt lộ trình dài ngót 300 cây số hầu hết xuyên qua một vùng rừng núi thâm u, mặt đường hư nát tới sáu mươi phần trăm rồi.
Dưới đây là những cuộc đụng độ lớn:
1. Cao điểm 1028 sát quốc lộ 14 thuộc bản Plei Poo Ngo thuộc dinh điền La Sơn, cách Pleiku 25 cây số về phía Nam.
2. Cầu Plei Koang, trên tỉnh lộ 7 khoảng 30 cây số về phía Tây Bắc.
3. Giao tranh dữ dội quanh thị xã Phú Bổn rồi rút nhanh ngày 18-3.
4. Bị phục kích đẫm máu tại bến đò Bản Thoát trên sông Ea Pa.
5. Bị phục kích đẫm máu tại đèo Tu Na trước khi vào Củng Sơn.
6. Giao tranh đẫm máu suốt từ núi Hòn Hàn – xã Xuân Điền, Củng Sơn đến cao điểm 276 (Long Ước) sát sông Đà Rằng mặc cho bom dội trên đầu, họ để đoàn di tản rút nhanh về Thạnh Nghiệp, cách Tuy Hòa 20 cây số về phía Tây.
7. Tại ngay Thạnh Nghiệp đụng độ dữ dội một lần cuối cùng.
Tuy Hòa mất vào ngày 1-4-1975.
3
Quả thực Phượng đã nhớ được lịch trình chi tiết cuộc rút lui đẫm máu như trên, nhưng cho đến nay trí nhớ Phượng vẫn còn bỏng dẫy nguyên vẹn về một số hình ảnh – cũng do Họa thuật lại – của cuộc rút lui thiên thảm địa sầu ấy:
- Trên một chiếc thiết giáp, hay trên một chiếc xe Jeep hay trên một chiếc xe dân sự bất kỳ loại nào, số người bám vào kín đặc, và tất cả rồ máy lớn, phun khói nhiều, nhưng chỉ có thể nhích nhích từng bước nhỏ trên quốc lộ.
- Trong khi cả dòng người mênh mông chen lấn nhau theo chiều xuôi xuống Tuy Hòa thì có người đàn bà thiểu não, tuyệt vọng lách mình trườn lên ngược chiều, tay ôm đứa nhỏ, miệng khản giọng gọi một đứa trẻ khác bị lạc.
- Người già, trẻ nít chết dọc đường, xe cán lên, chân xéo lên nát bấy thành bùn rồi.
- Những trẻ nít lạc mẹ, lạc cha, không còn ai đủ khả năng từ bi hỉ xả, thì giờ, sức lực, trí sáng cúi xuống giơ tay ôm vớt mang theo – tất cả bị bỏ lại cùng bầy chó hoang, mèo hoang và chắc chắn đám bất hạnh đó sẽ chết trước bầy chó hoang, mèo hoang vì hoàn toàn thiếu khả năng chịu đựng, chống đối và thích ứng.
- Không kể những đụng độ lớn, chỉ cần ở bất kỳ một địa điểm cao khuất nào có vài ba tên lính Cộng sản nhả một tràng liên thanh, câu vài trái mortier là đủ gây náo loạn kinh hoàng cho cả hàng vạn người trên quãng đường đó. Giữa đám người thất lạc tinh thần, thất tha thất thểu, đi mà như bơi chới với giữa kinh hoàng đó, có người chồng chôn một người vợ bị thương để chừa lại khoảng đầu vì người vợ tuy hôn mê nhưng chưa chết hẳn, khóc sụp lạy vợ rồi ôm con tiếp tục theo dòng người chảy xuôi về hướng Tuy Hòa còn xa lắc xa lơ.
Chỉ mấy ngày sau Đà Nẵng thất thủ. Trước đó một tuần, hàng đoàn trực thăng đáp xuống bãi cát cửa biển Đà Nẵng: Không quân di tản chung với các đơn vị Thiết kỵ, Thủy quân lục chiến, Biệt động quân, Bộ binh và Bịa phương quân với cũng lại một phần nửa là dân chúng và gia đình binh sĩ. Tàu lớn đậu ngoài khơi, tàu nhỏ vào đón bị pháo kích ngăn chặn. Dân chúng lội ùa ra, bơi đại ra, tàu nhỏ không vớt kịp, đạn pháo kích rớt trúng, chết biết bao nhiêu mà kể. Phi cơ không dám đáp xuống phi trường Đà Nẵng để thực hiện những cuộc di tản không vận nữa. Trước đó toàn là những chuyến di tản đi dây với tử thần, quân và dân ùa lên phi cơ gấp đôi ba trọng lượng an toàn, phi công cũng đành cầu trời cầu Phật, cầu Chúa trước khi liều cất cánh phó mặc cho rủi may định mệnh, thôi thì “chết một đống còn hơn sống một thằng”. Một trường hợp làm xúc động cả thế giới: Một người dân đã trốn vào khoảng lõm dưới phi cơ; phi cơ cất cánh, bánh xe gập lại ép nạn nhân chết cứng trong đó; đến khi phi cơ hạ cánh, dừng lại thì xác nạn nhân cũng vừa rơi xuống. Máy thu hình của một phóng viên ngoại quốc đã thu trọn hình ảnh đó để trình bày trước dư luận quốc tế nỗi kinh hoàng của Việt Nam trước nạn Cộng sản. Sau cùng một phi cơ hạ cánh, mọi người kéo ùa lên, những người không còn chỗ bèn nằm lăn thành dãy dài trên phi đạo. Chiếc phi cơ bị mắc kẹt. Mọi dự định không vận bị bãi bỏ.
Trên mặt biển mênh mông, mỗi tàu lớn kéo theo rất nhiều xà lan theo sau, trên xà lan la liệt kín mít nam phụ lão ấu chạy nạn Cộng sản. Có những người không chịu được khát, uống đại nước biển, phát điên. Sau ba bốn ngày phơi nắng da ai nấy phồng lên. Thì đúng là cháy nắng còn gì! Trên tàu lớn có những màn cướp của, hãm hiếp. Khi sắp tới Vũng Tàu, những kẻ cướp vàng bạc và hãm hiếp đều lẩn xuống các xà lan, quấn băng giả làm các thương binh, lẩn thoát theo dòng người. Những bóng người lần lượt lảo đảo bước xuống bãi Vũng Tàu; những người đàn bà không còn nước mắt nhưng nức nở khuỵu xuống cùng đứa trẻ thơ cháy bỏng; cả dãy trẻ thơ cháy bỏng được sắp nằm dài trên bãi biển, những trẻ thoi thóp miệng ngáp ngáp như hệt những con cá mắc cạn hấp hối, được chở vào trại cấp cứu tức khắc.
Chị Trang vừa tốt nghiệp khóa nữ y tá cấp tốc có mặt ngay tại trại tị nạn Vũng Tàu, chị hoạt động hết mình, hoạt động tưng bừng – Phượng đã chứng kiến, Phượng biết – chị hoạt động như con cá vẫy vùng ngoài khơi. Những chuyến tàu chở người tị nạn tiếp tục dọc theo duyên hải. Những hoảng sợ, những lo âu làm cơ thể suy nhược, có những người chết lả trên xà lan. Thủy táng. Dư luận báo chí tại Sài Gòn phanh phui những vụ cướp vàng, những vụ hãm hiếp đã xảy ra và đang tiếp tục xảy ra trên những chuyến tàu chở người tị nạn. Tất cả những chiếc tàu chở người tị nạn được lệnh chở thẳng ra Phú Quốc để cô lập tụi ăn cướp. Đã có một chuyến tàu vừa cập đảo Phú Quốc, bèn bắt và xử bắn ngay mười hai tên cướp tại bãi Dương Đông. Các trại tiếp cư cấp cứu được thành lập quanh phi trường và dùng cả những trại cải huấn cũ – những trại giam tù binh Cộng sản. Dĩ nhiên chị Trang có mặt tại đó. Phượng mãi sống với mình, mãi tới ngày đó Phượng mới chợt nhận ra khuôn mặt tích cực của chị, khuôn mặt của một Bồ Tát hạ thế để thực hiện đại nguyện tế độ chúng sinh, khuôn mặt mà chính anh chàng điêu khắc gia Mạnh đã vẽ chị bằng bút chì than treo ngay tại phòng khách. Nghệ thuật sáng tối của bức họa thật độc đáo, thoạt nhìn thấy ngay ba điểm nổi bật, trộn không lẫn của chị Trang: Dưới hàng lông mày đen, đôi mắt chị mở lớn ngước nhìn về một phía với hàng lông mi tỏa rộng; đôi cánh mũi đương độ phập phồng; sau cùng miệng chị cười hé lộ bốn chiếc răng cửa phía trên thẳng đẹp, bốn chiếc răng dưới nhỏ xinh. Cả khuôn mặt hiền hòa sáng láng của chị cũng như lọn tóc quăn phía trước trán của chị, cũng như cả mái tóc lòa xòa che lấp hai bên vành tai của chị đều được vờn bằng những nét mờ ảo. Rõ ràng là khuôn mặt hiền hậu do một bàn tay say mê minh họa, đượm vẻ huyền ảo của một Bồ Tát giáng trần. Bức tranh được chính Mạnh chọn khung lồng kính và đóng đinh treo trên khoảng tường tuy kín đáo mà vẫn lọt vào mắt mọi người ngay tại phòng khác của gia đình. Cũng mãi tới ngày đó Phượng mới nhớ thêm chuyện trước ngày theo học lớp y tá cấp tốc, chị hằng ngày tới nhà bà dì – em má – sống suốt ngày với cô con dâu mới của dì. Cô em dâu tươi đẹp như hoa lấy chú em Khôi hiền hậu nhưng cao lớn, thô lậu lại bị chột một mắt, tuy đã sang Nhật chữa thành mắt giả trông như bình thường. Chị Trang đến giúp dì góa bụa, làm vui cùng em dâu ban ngày, chiều trở về nhà với má, cho tới ngày chị thấy ân ái tình nồng đã khiến cô em dâu không còn lưu tâm đến nhược điểm thể chất của người chồng hiền lành nữa. Việc này với bao nhiêu việc khác tương tự, mãi cho đến ngày đó Phượng mới hốt hoảng khám phá ra ý nghĩa để hiểu rõ nếp sống tâm linh của chị.
4
Khám phá ra nếp sống tâm linh của chị, thế là Phượng tìm ra cho mình một điểm tựa vững chắc. Rõ ràng Phượng thấy bớt cô đơn trong những thấp thỏm, dằn vặt, những lo âu hãi hùng cho ông nhà văn.
Kể từ sau khi thất thủ Đà Nẵng, hầu như mỗi sáng sực tỉnh lại hay tin một tỉnh, hoặc một thị xã, hoặc một thị trấn của mình rơi vào vùng kiểm soát của Cộng sản. Tội nghiệp cho những người cầu sương điếm cỏ ở các vùng ngoại ô Sài Gòn, hay màn trời chiếu đất ngay tại Sài Gòn nơi chân tường nhà thương Từ Dũ, dọc hàng rào công viên Tao Đàn… Những người đó bỏ quê hương miền Trung vào tị nạn miền Nam những mong qua những ngày tạm bợ, sớm được an cư lạc nghiệp tại vùng đất lành chim đậu này, giờ đây viễn tưởng cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản không còn là điều đáng ngạc nhiên nữa, trong thâm tâm những người đó ê chề biết chừng nào. Cho đến chiều ngày 29-4-75, một buổi chiều màu trời đỏ quạnh, đỏ như máu trào lênh láng từ một vết thương không bao giờ lành được nữa. Phượng còn nhớ rõ những âm thanh, những màu sắc, những mẩu chuyện điển hình quanh biến cố lịch sử này.
Màu trời đỏ quạnh như máu suốt chiều 29-4.
Tiếng máy bay rù rì không ngớt mấy ngày nay rồi để thường xuyên yểm trợ cho những trực thăng hạ cánh tại những địa điểm rút quân. Tiếng súng lớn ì ầm vọng lại, người ta nói đương có giao tranh dữ dội tại xa lộ Biên Hòa. Đài FM vẫn phát thanh nhạc nhẹ. Sáng 30-4 lúc 5 giờ, đài FM tắt ngấm. Quân Mỹ đã rút hết. Ông nhà văn còn ở Sài Gòn, Phượng biết. Nhưng Họa đã đi rồi, đi ngày hôm trước, ngay đúng lúc có đợt ì ầm rộn rã nhất. Họa cũng như anh Trung vào hạ tuần tháng Tư năm đó đều có mặt tại Sài Gòn và bị cắm trại. Buổi trưa ngày 29, Họa xuất hiện đột ngột trước ba và Phượng, tay cầm chiếc vợt tennis nhãn hiệu Wilson. Ba hỏi đi đâu vậy, thì Họa đáp: “Thưa bác cháu đi đánh tennis.” Cứ như thể là Sài Gòn không thể mất được, nhưng Họa đã nói khẽ riêng cho Phượng nghe là ngay sau đó Họa và một số bạn Hải quân sẽ theo tàu ra khơi.
Suốt sáng ngày 30-4 Phượng nằm sát chân tường nghe tiếng súng nổ rền bên ngoài. Thực ra khoảng 8 giờ sáng lối xóm đã có người chạy xe Ves- pa ra đường sem,thiên hạ đang đi hôi của – công sở hay nhà gia chủ bỏ đi ngoại quốc – phản ứng dân chúng: nhiều nhà cha mẹ đã lo khóc vì có con đi lính. Nhiều người còn chạy tới Tòa Đại sứ Pháp xem còn có thể đi được không. Mười giờ, vặn radio nghe bản tuyên bố đầu hàng của tướng Dương Văn Minh. Cờ Mặt trận Giải phóng đã phấp phới đầy Sài Gòn. Binh sĩ vứt súng ống, quân phục đầy đường, chuồn lủi về nhà hay về nhà người quen. Nhưng lính Dù mũ đỏ, lính Thủy quân lục chiến và Biệt kích mũ xanh thì giữ kỷ luật đến phút tập họp cuối cùng trước khi giải tán.
Đơn vị 81 Biệt cách Dù – đã từng tử thủ ở An Lộc – ngày 30-4 tử thủ tại Tòa Hành chính Bộ Tổng tham mưu, bắn cháy hai chiếc T.54 của địch ngay trước cổng, một số tự sát tập thể, một số rút ra ngả đường Chi Lăng rồi biến dạng.
Tướng Nguyễn Khoa Nam, vị tướng ăn chay trường, tư lệnh Vùng IV, thoạt quyết định sẽ biến vùng này thành chiến khu. Với quân số, với vũ khí, với lương thực, với hai con sông Tiền, sông Hậu ngăn chặn xe tăng địch… ông nghĩ mình có dư điều kiện thực hiện quyết định. Nhưng thế nước trời bỏ, người bỏ, hoàn toàn vỡ lở mất rồi, sức một vài người không thể cứu vãn nổi. Lệnh đầu hàng thu băng được quay đi quay lại lải nhải trên đài phát thanh đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Cộng sản cho người tới liên lạc với ông. Ông đòi tướng ngang hàng tới nhận bàn giao ngay tại Bộ Tư lệnh (Cần Thơ). Bàn giao xong, ông vào phòng riêng cùng với một tùy viên, tự bắn vào đầu.
Tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ An Lộc, từng dư sức chịu đựng hằng ngày hơn mười ngàn trái đại bác rớt vào An Lộc, phó Tư lệnh Vùng IV, cánh tay mặt của ông Nam, cùng tâm trạng y hệt ông Nam. Xưa Lưu Bị có cả Ngọa Long Cẩn Phượng Sồ mà nào có thu được thiên hạ về một mối; Vùng IV có các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn giữa vùng cá gạo ngút ngàn mà vẫn đành cam chịu buông xuôi tay bất lực. Nhà tướng thất trận thì phải chết, ông Hưng nghĩ vậy. Ông từ giã vợ con rồi lên lầu tự bắn vào tim.
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân từ Thiếu sinh quân, thuần túy nghiệp võ, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện bị Cộng sản bắt giữ sau ngày 30-4. Khoảng tháng Tám, tháng Chín, Tòa án Nhân dân đầu tiên đem ông ra xử tại sân banh Cần Thơ. Ông bận bà ba đen, lúc nào cũng tươi cười. “Tôi không có tội gì hết! Ở đây chỉ có kẻ thắng người bại, thế thôi!” Đó là cách ông dứt khoát trả lời Tòa án Nhân dân. “Anh muốn nói gì với đồng bào không?” Đó là lời tòa hỏi ông trước khi tuyên án, nhưng khi ông sắp cất lời, công an Cộng sản đã vội tọng giẻ vô miệng, và tòa tuyên án tử hình. Và người ta kéo ông tới chiếc cọc đã đóng sẵn từ bao giờ. Cho đến lúc bị cột chặt vào cọc rồi, ông vẫn giữ nguyên nét mặt tươi tỉnh bình thản. Cộng sản thiệt tình vô chính trị cho trực tiếp truyền hình vụ xử án này. Cái chết của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã gây xúc động cả bề sâu lẫn bề rộng. Đồng bào miệt vườn, trước đây nuôi và che chở cho Việt cộng nằm vùng, giờ đây không được phép mang gạo lên tiếp tế cho đám con cháu ở Sài Gòn, đã phản ứng chửi thẳng cán bộ, công an, binh sĩ Cộng sản tức khắc – đúng tác phong bộc trực của người miền Nam!
Trở lại ngày 30-4, binh chủng Biệt động quân đóng tại khu Trần Quốc Toản, có một toán tự vẫn tập thể, sau khi một vị tướng lãnh ra lệnh kéo quốc kỳ lên rồi tự bắn vào đầu ngay dưới cột cờ.
Cũng chỉ 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư, anh
Trung đã có mặt ở nhà. Má nói với anh, “Mày phục vụ trong ngành Quân y chắc không sao đâu con ạ.” Ba ngồi ngay đó, nhìn sâu về phía trước như nhìn vào cõi siêu hình nào, mấy phút sau ba mới nói đủ cho anh Trung và Phượng nghe:
- Kể từ ngày mất Ban Mê Thuột, ba đã biết đại sự hỏng. Thực ra đó là điều ba đã biết sợ từ lâu, nhưng mãi đến khi quân lực mình quyết định rút khỏi cao nguyên, thì ba biết điều mình sợ từ lâu đó sắp thành sự thực mất rồi. Từ trước đến nay ba vẫn khinh lũ chính quyền Quốc gia này, chính chúng đã là đồng minh đắc lực nhất của Cộng sản với sự tham nhũng tồi tệ vô liêm sỉ của chúng. Nhưng bây giờ nếu chúng tử thủ, ba sẵn sàng tử thủ với chúng, bởi dầu sao chúng vẫn thuộc phe mình. Giờ thì mình khánh tận mất rồi các con ạ, cả vật chất lẫn tinh thần!
Anh Trung đáp lời ba, giọng anh - Phượng nghe thấy trưởng thành hẳn - lạ thế:
- Không khánh tận đâu! Không khánh tận đâu, ba ơi!
Ba nhìn anh ưu ái hỏi:
- Con nghĩ thật vậy sao?
- Dạ! Sáng nay trước khi có lệnh đầu hàng, tất cả những băng tần của Đài Sài Gòn đều phát ra những lời thiết tha nhất, chân thành nhất của một đảng phái chính trị nào đó thống trách Cộng sản đã bỏ lỡ bao nhiêu dịp hưng khởi quốc gia. Năm 1945 nếu như Cộng sản đừng đi vào quỹ đạo Cộng sản, mở cửa giao thiệp với cả hai khối, thì với trí thông minh ấy, với tổ chức ấy, quân lực thiện chiến ấy, cả hai khối đổ xô lại ve vãn mình, giúp mình tận tình. Họ tự kiềm chế lẫn nhau, mình chỉ việc tập trung các đầu não sáng suốt nhất điều khiển việc xây dựng đất nước y hệt Nhật tại Á Châu này, Tây Đức bên Tây Âu đó. Hai mươi mốt năm đi vào con đường bị vùi dập xác xơ như vậy; nhờ lòng ái quốc, nhờ sức chịu đựng tuyệt vời của dân tộc, giữ cho được không ngã gục. Thế giới tự do đã không dám phiêu lưu tìm mức chịu đựng cuối cùng của một dân tộc bất hạnh mắc kẹt vào khe răng của Cộng sản, miền Bắc bây giờ có bề ngoài được cuộc, miền Bắc bây giờ có bề ngoài trúng lô độc đắc, nhưng miền Bắc đâu có được “lĩnh tiền mặt”, mới chỉ là một “mảnh chi phiếu” chênh vênh. Cả Nga lẫn Tàu, cả Mỹ lẫn Nhật Bản cùng sẵn sàng giúp Việt Nam xây dựng lại xứ sở đổ nát tan hoang sau ba mươi năm chiến tranh, nếu như người Cộng sản không phản bội Tổ Quốc, không phản bội giống nòi, “Đảng trên hết”. Chúng ta đã bỏ lỡ một nước cờ tuyệt vời: Việt Nam trung lập trong một Đông Nam Á trung lập để tự thực hiện và đóng góp cho cả thế giới nền văn minh đặc thù của riêng mình. Phản bội giống nòi, phản bội Tổ Quốc, mắc kẹt giữa Liên Xô và Trung Cộng, kể từ nay bắt đầu sự suy sụp không cho riêng chúng, mà cho cả khối Cộng sản nói chung. Đó là bước đi tất yếu của lịch sử.
Vừa là lời kết án Cộng sản trước tòa án lịch sử, vừa là lời công bố đường lối chính sách với quốc dân. Phượng nghĩ ngay tới ông nhà văn. Ông ta còn ở đây – nhỏ bạn thông cảm với nỗi niềm lo âu của Phượng đã cho hay như vậy chiều hôm qua. Nhưng hôm nay thì sao, có thể ông ta đi được rồi. Ông ta phải đi, phải đi để còn giúp những người phục quốc sau này về phương diện tuyên truyền và văn hóa.
Ba nghe anh Trung nói, lặng ngắt giây lâu mới phát biểu:
- “Lâm cục giả mê!” Chúng nó không biết tri túc, tri chỉ, những lời nói thiết tha đó cũng như đàn gảy tai trâu. Có điều với hệ thống đan kết chặt chẽ của chúng, thường xuyên bám chắc lấy mọi tầng lớp dân chúng, thì rồi đây tới ngày chúng sụp đổ chúng kéo cả dân tộc sụp đổ theo.
Anh Trung quen khá nhiều đám thanh niên làm báo, vừa lúc đám bạn trẻ đó từ làng Báo Chí trên xa lộ Biên Hòa tới. Họ cho hay từ đêm 28 tháng Tư có một Việt Cộng, chú nhỏ trẻ măng, không rút kịp đồng đội, đi lớ ngớ giữa làng Báo Chí. Có người khuyên chú nhỏ nên ra hàng, chú lắc đầu đáp: “Cháu không hàng đâu!” Người ta bèn chỉ cho chú nhỏ qua đêm tại trường tiểu học ngay đấy. Một bà còn cho chú số tiền hai ngàn rưởi đổng để tiêu dọc đường khi chưa tìm thấy đơn vị. Người ta không hề nhìn chú như kẻ thù mà như kẻ tị nạn.
Một ký giả trên tứ tuần từ làng Báo Chí nhìn lên cầu xa lộ hồi 10 giờ ngày 30 tháng Tư: Một chiếc xe tăng bốc cháy, quân phục, mũ, súng ống vứt bỏ ngút ngàn dọc theo xa lộ. Có tin một toán quân Dù của mình tự sát tập thể ở quãng Hàng Xanh kề bên xa lộ. Vẫn ở làng Báo Chí, một người hỏi một người khác tới ba lần mà người kia ngồi im như tượng gỗ, không trả lời. Buổi chiều thịt một con gà, hai người ngồi đối ẩm tiêu sầu, người kia nâng ly rượu lên bỗng đặt xuống ôm mặt khóc rống như trẻ nít. Suốt từ 10 giờ sáng đến chiều, đủ các loại xe trưng dụng được chở kín quân đội Cộng sản chiến thắng về Sài Gòn. Một người dân Sài Gòn đứng trước Sở Thú lắc đầu ngao ngán, “Họ ăn mặc xập xệ quá à, đi đứng ngơ ngác, họ có quân kỷ mà không có quân phong, vậy mà họ thắng mình – kỳ thật!”
Buổi chiều 30 tháng Tư có anh lính Cộng hòa cũ ngồi uống la-de ở quán, nguyền rủa Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Một người miền Bắc di cư vào miền Nam từ 1954, nhìn một chiếc xe chở những người lính Bắc đã đứng tuổi vừa qua, vẻ mặt bâng khuâng nói với bạn bên cạnh: “Lâu lắm tôi mới được gặp lại nét mặt của những người nông dân miền Bắc. Có những nét đặc biệt trộn không lẫn anh ạ.”
Mấy ngày sau, những người lính Việt Cộng đi chợ mua thức ăn, họ hỏi giá nhiều thứ nhưng rút cục không thể mua thứ gì ngoài rau muống. Họ ít tiền quá, tội nghiệp!
Những chàng ký giả bay bướm, trước đây chửi Cộng sản, diễu Cộng sản, hô hào Bắc tiến, nay trong bẽ bàng như chim gãy cánh, cá mắc cạn, tìm khuây nơi men rượu. Một chàng lè nhè với bạn vừa tới thăm: “Còn rượu không mày? Chúng mình thua chúng nó là phải, chúng chỉ biết đánh nhau, chuyên phá hoại, coi rẻ con người!” Nói xong anh chàng tự rót đầy một ly rượu đế ngửa cổ uống ực một hơi, mặt nhăn lại vì đắng cay, nấc một tiếng khan, hơi rượu bốc lên từ dạ dày. (Một tháng sau anh chàng này chết, chắc chắn anh đã tự sát từ từ bằng rượu. Cuộc sống chẳng còn gì quyến rũ anh nữa.)
Ông nhà văn còn ở Sài Gòn. Ông chưa đi hay là không muốn đi?
Phượng thiếp đi lúc nào không hay giữa những hình ảnh bề bộn hồi niệm trước và sau quanh ngày 30 tháng Tư. Lúc Phượng sực tỉnh mệt mỏi, trời đã sáng rõ. Phượng uể oải xuống thang. Nhưng sau khi rửa mặt nước lạnh, Phượng tỉnh táo hẳn, đón chào một ngày mới, một ngày cuối cùng nơi quê hương. Thật chua chát, nhưng Phượng thấy mình có bổn phận phải thức tỉnh. Em gái nhỏ mang xôi lạp xưởng lại. Phượng nhắc em thay cho bình nước trà nóng, thiệt nóng. Phượng ngồi ngay ngắn trên căn gác tĩnh, đôi mắt nhắm, miệng nhấp ngụm trà nóng… Và suy nghĩ, suy nghĩ…