Chương 7 Hờn Giận Đong Đưa Cơn Khóc Ngọt Ngào
1
Ngày 15-2-1976
Ông kính mến,
Có những lúc như thế này tôi mới thấy thật sự mình đã cố khoác cho mình một bề ngoài cứng cỏi và bất cần. Gặp lúc thanh vắng như thế này, chỉ có mình nói với mình như thế này, những lớp sơn phết rơi rụng lả tả, chiếc mặt nạ rớt xuống tan tành, và những giọt nước mắt bất ngờ rơi…
Đáng lẽ tháng Năm năm ngoái tôi thi ra trường để thành cô giáo trung học thì họ vào. Thế là họ bắt học thêm năm nay, nói là để bồi dưỡng nghiệp vụ, kỳ thực để nhồi nhét chính trị, nhưng vô hình trung họ đã tự triển lãm hết cái ngu dốt, bất tài, bất lực của họ. Thật ra, tôi và nhỏ bạn đâu có thiết học nữa, nhưng vì vào những ngày đầu “cách mạng” này, bọn tôi cũng chưa biết phải làm gì, thôi thì cứ đi, ngày ngày xem bức tranh vân cẩu ở ngay tại trường. Riêng tôi, có đến trường thì tôi mới có dịp cùng nhỏ bạn tới ăn hủ tiếu Nam Vang ngay đầu hẻm nhà ông và hy vọng thấy ông ra đứng trước cửa hoặc cùng bạn ra đường lộ rồi khuất dạng đi đâu đó.
Ông ạ, chiều nay tan học, khi một mình tôi
– nhỏ bạn nghỉ học – đạp xe ngang qua hẻm chợt thấy ông vừa ra tới đường lớn, tôi muốn chạy lại ông, nắm tay ông để có thêm chút tin tưởng, chút chịu đựng, và khi thấy ông quay lại cười với người bạn cũng vừa bước tới, tôi muốn khóc, tủi thân và muốn giận mình… giận mình sao không còn giữ niềm hãnh diện tối cần thiết, dù chỉ là niềm hãnh diện bi đát không ai hiểu ta. Ôi, sao tôi không là một con nhỏ cao ngạo ở một góc trời. Nhưng tôi đã tự an ủi được ngay và rất hữu hiệu bằng cách nghĩ rằng như vậy còn hơn hay tin chúng đã tới… và không biết tới ngày nào mới được gặp lại ông.
Ô hay, không hiểu sao mỗi khi gặp ông bất ngờ như vậy, bao giờ tôi cũng có cảm tưởng là mình vừa ngửng phắt đầu lên thì thấy ông. Có phải ông bao giờ cũng là ngôi sao chung thủy trên đầu khi đường tôi đi đêm tối mịt mù?
Mấy ngày nay tôi lo sợ, lúc nào cũng hốt hoảng, chờ đợi… Bây giờ thì không riêng gì tôi mà cả dân chúng miền Nam đều hiểu rằng với tụi này bất kỳ việc gì, dù tàn nhẫn đến mấy, chúng đều làm được hết. Những vụ bất ngờ ập tới khám nhà, nửa đêm ập tới bắt cả nhà người ta đi vùng kinh tế mới, bất ngờ đổi tiền, phát cho mỗi nhà mấy trăm bạc, còn bao nhiêu phải gửi quỹ tiết kiệm. Những người uất ức treo cổ tự vẫn, uống độc dược tự vẫn, nhảy từ lầu cao xuống tự vẫn. Chúng vẫn lừng lững tiến hành, hoàn tất mọi độc kế không mảy may xúc động. Tôi lo lắng nghĩ về ông, nghĩ về ông hoài… Đã hơn một lần có những buổi chiều như hôm nay, đi học về, tôi thay vội chiếc áo ngắn tay rồi ra đường lang thang… đôi lúc chợt tỉnh cơn mê, giật mình không rõ vừa rồi mình sang đường mấy lần. Tôi không bao giờ nghĩ mình có ngày yếu đuối như vậy. Nghĩ lại những bức thư đã gửi tới ông, hình như lòng tự ái của tôi lại lên tiếng, và từ cùng thẳm tâm tưởng, chợt thấy chút giận nôn nao… Cũng may tư tưởng dàn hòa không bao giờ thiếu. Ông nhỉ, có phải người ta khen mình, mình không thích bằng nghe người ta ca ngợi những gì mình yêu quý?
Kính thư, Ph.
Ngày 9-4-1976
Ông kính mến,
Buổi sáng nay, bất ngờ hết sức, đứng một mình, ngồi xuống một mình – cho dễ khuất lấp – tại một góc sân trường, con nhỏ tưởng như lòng thôi không còn những xúc động, trò chơi đã chấm dứt – dù là trò chơi với tất cả tâm não. Nhưng con nhỏ dư biết đó chỉ là ảo tưởng. Hình như trong một lá thư nào viết vào lúc mê hoảng nhất và cũng tỉnh táo nhất, tôi đã e có thể mình quấy rầy ông. Thì cứ cho là tình cờ đi, nhưng chẳng có sự tình cờ nào là khi không cả! Mỗi một chi tiết, dù nhỏ nhặt đến đâu, trong đời sống, đều có một nguyên nhân sâu xa thầm kín nào đó mà ta không biết tới và cũng không thể cắt nghĩa nổi đó thôi. Và ông ạ, bao sự tình cờ đã tuần tự tới, đôi khi ập tới, làm tôi yếu đuối hẳn đi. Đôi lúc tôi giật mình thật nhiều vì cái tự kiêu ngất trời của tôi biến đâu mất. Có một người mà ta thương yêu, mà ta tin tưởng chẳng chút dối lòng, điều đó quá đủ để xóa nhòa tất cả mọi tủi hổ, ngộ nhận. Quả thực trên đời, con người bao giờ cũng dư sức hy sinh tất cả cho những gì mình yêu quý. Huống chi cái tôi yêu quý lại thuộc lãnh vực của Nghệ Thuật, của Đẹp ông nhỉ. Ấy vậy mà đôi khi con nhỏ vẫn không ngăn được mình giận hờn mình, ao ước như những nhỏ bạn cùng lớp, dễ hòa hợp, dễ chấp nhận; ao ước làm một đứa con gái thật bình thường, đúng hơn, thật tầm thường. Tôi đã cố gắng đấy, ông ạ, nhưng thất bại… thất bại hoàn toàn. Bầu trời có sụp, sự chết có tới thì vấn đề vẫn đó, luôn luôn kêu gào, chờ đợi lời giải đáp của mỗi người. Sao tự dưng tôi thèm được đọc thư ông. Tôi có đòi hỏi quá đáng?
Ông kính mến, Gió lạnh, bóng đen, tiếng guốc… tất cả đều làm tôi tỉnh táo và khuyến khích tôi nuôi dưỡng hoài, nuôi dưỡng mãi nỗi khát khao ngự trị trong sâu thẳm tâm hồn tôi, nỗi khát khao dành riêng cho những ai biết chắt chiu cô đơn, biết vỗ về đau khổ. Bao giờ tôi cũng tin tưởng rằng ông luôn luôn nghĩ và mong cho tôi được hạnh phúc. Tôi sẽ cố gắng như đã cố gắng trong những năm qua để xứng đáng với những tình cảm quý giá đó. Ấy vậy mà hôm qua tôi giận ông đến phát khóc, và gây sự luôn với nhỏ bạn. Ông thấy có tức cười không?
Đêm nay trời không một vì sao, tự nhiên tôi thấy mình lẻ loi và nhỏ bé quá, nhỏ bé đến như vô nghĩa trong bóng đêm. Tuần này tôi sẽ trở về miệt vườn Vĩnh Long, chắc sẽ đi chuyến xe cuối cùng về chiều. Chuyến Vĩnh Long lần này không được thích cho lắm vì thiếu nhỏ bạn và thiếu cả chị Trang nữa. Bà dì được một người thân tín cho hay có thể bị kiểm kê tài sản trong dịp đánh tư sản đợt đầu sắp tới, vì vậy chị đã tới ở luôn với dì để trấn an, giữ vững tinh thần dì. Dầu sao thì tôi cũng về hưởng gió quê tuần này, tâm trạng nửa thênh thang, nửa khổ não.
Kính thư, Ph.
Ngày 20-5-1976
Ông kính mến,
Gió đầy trời, nhưng buổi tối quê nhà lần này buồn thê thiết. Tôi không hề được những phút thoải mái để mơ mộng, tận hưởng những êm ả của đêm sâu một mình như lần trước. Rặt những toan tính để rồi đưa đến những lo âu và kết thúc bằng sự nhận chân ra nông nỗi bất lực thê thảm của mình. Làm được gì lúc này? Tay còn quá mềm với sách vở, hồn còn quá ướt với những giấc mơ tuyệt vời nhưng… không tưởng. Trop beau pour être vrai! Và tự nhiên thấy tiếc nuối những ngày ngọc ngà xa xưa.
Nghĩ đến ông để thấy hồn dịu bớt những cơn đau, để còn có thể sống mà không mất niềm kiêu hãnh. Bao giờ tôi cũng nghĩ đến ông khi làm một việc gì. Không nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt như ngày nào nghe ông diễn thuyết ở đại giảng đường, nhưng vẫn luôn luôn có ông trong ý nghĩ. Đối với tôi tiếng “ông” để gọi ông đượm vẻ dịu dàng huyền hoặc.
Đã ba giờ sáng rồi đấy, thưa ông. Vậy là tôi đã qua một thời gian khá dài nghĩ về ông.
Giá như sau một lần chợp ngủ khá lâu, khi thức giấc thấy có ông ngồi cạnh. Trời, như vậy thành truyện cổ tích rồi còn gì! Lúc nào trong đầu tôi cũng có điều duy nhất muốn nói với ông…
Ba giờ sáng. Còn là đêm khuya, chưa là buổi sớm. Gió lạnh ghê ghê… Nhớ buổi ông nói chuyện ở đại giảng đường, nhớ giọng ông hát bài ca của Tấm, bài ca buồn… buồn thê thiết… Nhớ những buổi tối một mình co ro đi rẻo theo những đường-của-riêng-tôi-nghĩ- về-ông. Nhớ vô cùng những giây phút nhuốm màu xa xưa đó. Ông ơi, với tôi những kỷ niệm đó là những hành trang thơm mát ngọt ngào tôi sẽ mang suốt cuộc đời. Tự dưng nhớ buổi nào giận ông dễ sợ, và bây giờ vẫn còn gờn gợn. Lạ ghê. Và con nhỏ khóc ngọt ngào. Còn là đêm khuya, chưa phải là ban mai đâu ông ạ. Mong ông có được nụ cười thoải mái trên môi.
Kính thư, Ph.
2
Phượng đọc một mạch ba lá thư cuối cùng, không ôn lại chút gì về bối cảnh thời đó – Phượng cố tình muốn vậy – như người muốn uống rượu nguyên chất!
Bà chủ nhà đích thân mang cơm đến cho
Phượng. Vậy là đã mười một giờ rồi đó. Vẫn dáng điệu đon đả bà nói:
- Lại thịt kho, dưa leo, cháu! Cho tiện mà. Cần nhất là cơm nóng!
- Dạ, cám ơn bác.
- Cháu ở riêng biệt thế này là nhất đấy cháu ạ.
- Dạ cháu biết lắm chứ ạ. Cám ơn bác nhiều lắm.
- Xóm này phần lớn theo đạo Chúa. Bác phải thuê đều các nhà cho từng tốp ở. Mình không khéo cư xử, thuê nhà này bỏ nhà kia, trâu buộc ghét trâu ăn, có thể họ ngầm báo du kích, phiền lắm cháu ạ.
- Thưa bác mọi sự êm đẹp chứ ạ?
- Rất êm đẹp, cháu cứ yên chí! Chỉ mong ra khơi trời yên biển đẹp, gặp tàu ngoại quốc nhận mình ngay là cháu thoát đó.
- Vâng cháu cũng nghe nói nhiều khi tàu ngoại quốc lánh mình như lánh… hủi.
Bà chủ nói mấy lời khích lệ cuối cùng trước khi rời căn gác xép. Phượng ngồi lại một mình bắt đầu ăn, trí óc thoạt lộn xộn hình ảnh má, chị Trang, ông nhà văn, y hệt cơn gió chợt ùa đến trong đêm khuya làm xao xuyến hoa lá trong vườn.
Nhưng rồi sau bữa ăn, sau một lần tắm rửa buổi trưa (lần tắm rửa cuối cùng trên đất nước quê hương? - Phượng tự hỏi thầm xót xa), trí óc Phượng trở về quy tụ nơi đề mục chính. Bức thư cuối cùng – bức thư thứ mười một, bỏ vào hộp thư nhà ông ta được hai tuần, sau đó Phượng hay tin ông bị bắt giữ.
Đó là chiến dịch quy mô cuối cùng, bắt nhốt hết các nhà văn hóa từng giữ vững tinh thần chống đối chúng từ trước tới nay. Việc phải tới đã tới, Phượng hết còn lo âu hồi hộp, tâm tư chuyển sang thế cờ mới, theo dõi những tin tức trong nhà tù, nơi trại cải tạo và hy vọng ngày anh Trung, ông nhà văn được trả tự do. Và cũng kể từ ngày đó Phượng dứt khoát bỏ học, nhỏ bạn cũng bỏ theo. Ba cười, nói với Phượng, “Ờ thôi, nghề giáo với một chính thể gian dối này, con bỏ cũng phải.” Và Phượng lăn xả vào giúp má từ đan móc kiếm tiền đến công việc bếp nước, đồng thời cùng chị Trang tích cực yểm trợ bà dì vào những ngày sóng gió nhất của đợt hai đánh tư sản. Cuộc đời Phượng lật sang trang mới với những suy tư mới, hành động mới. Gần chị Trang vào dịp này, đôi khi chị đã giúp Phượng quên được những lo âu về ông nhà văn. Mà còn gì phải lo nữa. Bị bắt thì ông ta đã bị bắt rồi. Chỉ còn mong chờ ngày ông ta và anh Trung được trả tự do nữa thôi. Chị Trang đã giúp Phượng như giúp đôi cánh chim bằng xòe rộng mở đều nhau để bay được cao. Phượng đã cùng chị Trang giúp dì đối phó mọi đòn phép gian manh xảo quyệt của cán bộ Cộng sản như một thứ lửa thiêng âm ỉ cháy không bao giờ chịu tắt, luôn luôn bình tĩnh làm chủ được tình thế. Nhiều khi Phượng đã mỉm cười vô cùng bình tĩnh khi quan sát đám cán bộ Cộng sản tán loạn quay cuồng trong thất bại cay đắng muốn hạ nhục bà dì mình. Sau này ôn lại, Phượng nghĩ tâm lý mình dạo đó đúng là ở trạng thái cũng muốn xông xáo đương đầu với Cộng sản y như ông nhà văn trong chốn ngục tù.
Lần đầu đánh tư sản mại bản, chúng có đến kiểm kê nhà dì một lần và chúng tuyên bố, “Bà không phải là đối tượng của Nhà nước, bà cứ yên chí làm ăn!” Các vua nhập cảng máy cày, lốp ô-tô, sách in, chủ rạp ciné… đều lần lượt vô khám vào dịp này, toàn bộ tài sản bị tịch thu. Đó là vào đầu năm 1976.
Lần thứ hai vào tháng 3-1978, (anh Trung đã đi cải tạo được ngót ba năm, ông nhà văn ngót hai năm), lần này chúng đánh tư sản thương nghiệp. Nhưng trong nền văn hóa Hồ Chí Minh, nền văn hóa hiện thân của gian dối, tàn bạo, chúng còn tung hỏa mù để gây bất ngờ tối đa. Đã ba năm qua rồi, dân miền Nam thật sự am hiểu Cộng sản, lũ sa-đích (sadique). Chúng nhấm nháp nỗi dằn vặt, kinh hoàng, đau khổ của toàn dân như một đại tửu đồ nhấm nháp thức nhắm ngon với rượu thượng hảo hạng. Trước ngày 23-3-1978, ngày phát động phong trào đánh tư sản, khoảng một tuần, phong phanh sẽ có lệnh tập trung sinh viên ở trường, công nhân viên chuẩn bị ứng trực. Chúng tung hỏa mù: sẽ đổi tiền và kiểm kê văn hóa phẩm đồi trụy. Vài ngày sau nữa chúng cho năm sáu phường kiểm kê văn hóa phẩm thật. Trước một ngày, mới có tin tiết lộ có thể là kiểm kê tư sản. Tuy nhiên trong hiểm nguy, người ta cố vớt vát hy vọng là chỉ kiểm kê vài nhà tư sản gộc thôi.
Sáng ngày 23-3-78 ngành giáo dục được lệnh đi học chính trị, dự trù học một ngày. Mười một giờ trưa có lệnh tất cả học sinh, sinh viên ở lại trường không ai được về. Đúng lúc hai giờ chiều,
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố xuất hiện trên Đài truyền hình tuyên bố chính phủ kể từ giờ phút này xóa bỏ tư sản thương nghiệp chuyển sang sản xuất. Ngẫu nhiên lúc đó Phượng đạp xe dọc theo đường Lê Lợi qua chợ Bến Thành. Tất cả các sạp hàng đều đóng cửa, đây đó từng đám con nít bu lại xem kiểm kê một sạp nào đó. Tò mò Phượng đạp xe dọc theo đại lộ Trần Hưng Đạo. Xe cộ ít hẳn, một vài chiếc chạy hối hả. Không khí nửa tang tóc, nửa khủng bố. Thuận đà Phượng đạp xe theo đường Đồng Khánh, Chợ Lớn. Các cửa hàng người Tàu chỉ còn mở hé, phía trong thấp thoáng các kiểm kê viên đương làm việc, một vài bà già Tàu đứng ngoài đống nhang, miệng lẩm nhẩm khấn vái, hẳn là cầu cho sớm tai qua nạn khỏi. Nơi đây hoàn toàn có sự hiện diện của hung thần và vầu không khí một đại họa vừa chụp xuống. Radio đọc thông báo bằng ba thứ tiếng Việt, Quảng Đông, Quan Thoại. Một số cán bộ đang dán những bích chương bằng chữ Tàu để cho người Trung Hoa biết. Tới lúc đó Phượng mới chợt hốt hoảng nhớ ra rằng có thể vào giờ này nhà dì cũng đương bị kiểm kê. Phượng quẹo qua đường Hồng Bàng, dọc theo đường Minh Mạng, sang đường Phan Thanh Giản tới nhà dì. Quả nhiên họ đương kiểm kê. Tất cả người nhà tập trung tại phòng ngủ lớn trên lầu.
- Chị có liên hệ gì với chủ hộ? – Một nhân viên kiểm kê hỏi Phượng.
- Đây là nhà dì tôi. – Giọng Phượng lạnh lùng.
Cuộc kiểm kê tiếp tục. Tên cán bộ trưởng đoàn nhấn mạnh hướng về dì:
- Có của gửi đâu bà phải khai cho hết, chính phủ ghi cho biết, không lấy của bà đâu.
Người nói dư biết người nghe chẳng hề tin, nhưng vẫn nói, người nghe không tin nhưng vẫn cố tìm cách trả lời lững lờ mà hợp lý. Người nào cũng sống theo hai nhân cách, một bên trong, một bên ngoài. Thói quen giả dối, với thời gian, biến thành thiên tính. Đó, nếp sống Cộng sản!
Dì trả lời:
- Tôi làm gì có của chìm, của nổi mà gửi người nào. Ngay từ sau ngày giải phóng, cửa hàng bán xe đạp của tôi đã dẹp bỏ, tôi chỉ còn cái tủ bán thuốc lá kê trên vỉa hè đó.
- Bà không nói đúng, tôi cho đào tường, lột mái nhà, nếu phát hiện được bà giấu của, bà sẽ vô tù, lúc đó hối không kịp đâu!
- Các ông cứ việc đào tường, dỡ mái nhà.
- Gia đình bà hằng ngày sinh hoạt ở đâu?
Vì tởm lợm Cộng sản, Phượng tởm lợm luôn cả những danh từ của chúng. Bà dì chưa quen nên đượm vẻ ngơ ngác:
- Ông nói “sinh hoạt” gì? Phượng giải thích cho dì:
- Ý ông ấy hỏi gia đình nhà mình thường hội họp nói chuyện với nhau ở đâu.
Bà dì cười thông cảm cho nỗi niềm khinh khi kín đáo của cô cháu gái:
- Gia đình nhà tôi có thể ngồi họp bàn chuyện gẫu bất kỳ chỗ nào trong nhà này, ở ngay phòng ngủ này, hay ở phòng khách, cũng có thể ngay dưới bếp quanh bàn ăn.
Tên cán bộ kiểm kê chỉ hỏi để mà hỏi, y đã quyết định rồi:
- Không được chuyển bất kỳ cái gì ở phòng này sang phòng khác!
Dù cố tự nén, Phượng vẫn còn chút sẵng:
- Thế chúng tôi ngủ bằng gì?
- Các người tự khắc phục!
Đưa mắt nhìn tên cán bộ, Phượng thông cảm một thực tại tối như đêm, dày như đất về tình người, một khuôn mặt phi nhân của… của gì nhỉ, Phượng chưa tìm ra lời nhưng không phải của gỗ đá, bởi Phượng thoáng nhận chân rằng gỗ đá vẫn còn hồn riêng với những nét đáng yêu riêng của chúng.
Phượng về ngay sau đó báo tin cho ba má và chị Trang hay. Sau vài giây suy nghĩ, chị Trang nói khẽ với Phượng:
- Mai hai chị em mình lại sớm với dì. Trong ngày hôm nay tới cũng vô ích thôi, chúng chưa quyết định gì đâu!
Tám giờ sáng hôm sau Phượng theo chị
Trang tới nhà dì, trước cửa vẫn tên trong đoàn hôm trước lai hỏi liên hệ gia đình hai chị em với gia chủ. Chị Trang và Phượng bước vào phòng khách có bàn thờ, cuộc kiểm kê lục soát đồ vừa tới lúc gay cấn nhất. Tên cán bộ trưởng đoàn kiểm kê vạch ngang, vạch dọc bằng bút chì xanh lên một tấm ảnh khá lớn của dượng Hai – chồng dì – rồi ném xuống đất nói: binh!
- Đây là ảnh tên phản động đương duyệt
Hiền lành như Khôi mà cũng tức khắc lên tiếng quát trong khi dì nhặt vội tấm ảnh lên:
- Các anh không có quyền làm thế. Ba tôi là sĩ quan Quân y, sáng thứ Hai nào cũng tới nhà thương sớm dự lễ chào cờ. Duyệt binh gì!
- Gì thì cũng là sĩ quan cấp tá Ngụy quân.
- Ba tôi – vẫn lời Khôi – trông nom ngành Dược trong Quân y không hề có nợ máu với các anh. Ba tôi đã học tập được ba năm rồi, giờ đây hẳn đã là con người mới, các anh làm như thế này chỉ có hại cho Nhà nước. Tôi đã học tập chính trị tại cơ quan, tôi biết (Khôi làm tại một cơ quan kinh tế).
Phượng vừa định tiếp lời em thì dì đã lên tiếng, giọng rất bình tĩnh chứng tỏ dì hoàn toàn làm chủ được tình cảm trong dịp đối phó này:
- Các anh làm như vậy các con tôi sẽ nghĩ là ba nó đi tù chứ không phải đi học tập cải tạo như chính phủ vẫn tuyên bố. Chúng nó xót ba chúng nó, đây chỉ là tấm ảnh mà các anh còn đối xử như thế huống chi là người thật. Chúng tôi quý tấm ảnh này là quý tình người, vợ quý chồng, con quý cha. Thà là các anh cứ việc tịch thu tấm ảnh mang về sở rồi quẳng vào thùng rác, vào nhà cầu khuất mắt chúng tôi thì không sao.
- Bà nói ngọt lắm, nhưng bà chửi khéo cách mạng.
- Làm sao tôi chửi cách mạng cho được.
Hai em chồng tôi tập kết ra Bắc năm 1954, từ ngày đó vẫn thư từ đều đều cho tôi, và đã hai, ba lần về đây với chúng tôi, làm sao tôi chửi cách mạng cho được?!
Biết gặp phải một gia đình cứng đầu, chúng luôn luôn đưa mắt làm việc bảo nhau hãy cẩn thận trong mọi hành động và lời nói, nhưng vẫn luôn luôn nắm thế chủ động khủng bố tinh thần kẻ đương bị điều tra và có thể bị xếp vào thành phần tư sản thương nghiệp cần diệt trừ để chuyển sang toàn dân sản xuất.
3
Suốt ba tháng trời, chúng đóng chốt trong nhà dì. Tổ công tác của chúng gồm sáu đứa: bốn trai, hai gái. Chúng chiếm trọn căn phòng ngủ trên lầu. Tuần đầu chúng lật nệm ghế, xé nệm giường, chúng tập trung hết các giấy tờ, thư từ, đọc lại hết. Ngay hôm đầu, khi thấy dì xách giỏ đi chợ, một tên đứng ra chặn lại:
- Bác đi đâu?
- Tôi đi chợ.
- Bác không được đi đâu hết.
- Ô hay, thế tôi là tù giam lỏng sao?
- Cấp trên đã quy định chủ hộ không được đi đâu hết!
Từ đó, hoặc Phượng hoặc chị Trang, hoặc vợ Khôi đi mua thức ăn. Chúng sợ chuyển của, ai xách giỏ đi chợ, chúng kiểm soát đáy giỏ. Vĩ – em Khôi – ngày ngày đi học, chúng cũng kiếm cớ lục soát cặp. Đồ đạc trong nhà, chúng bắt đầu cho xe chở đi: TV, tủ lạnh, bàn ghế, giường… chúng nói là để Nhà nước thanh lý. Chúng dọa Nhà nước sẽ trưng mua nốt nhà.
Rồi chúng kín đáo đánh tiếng cho dì hay nếu đưa cho chúng mười ngàn đồng, chúng sẽ rút chốt về, trả lại thành phần như cũ, không phải là tư sản thương nghiệp. Dì bàn với chị Trang. Chị tính với số tiền đó có thể mua được tám lạng (cây) vàng, chính chị đứng ra đề nghị xin bớt. “Không bớt! Không mặc cả!” Chúng làm bộ vùng vằng cương quyết trả lời. Đồ đạc, TV, tủ lạnh, trong nhà chúng đã cho xe chở đi hết, chúng cho biết Nhà nước đã thanh lý đồ đạc đó, trị giá bảy trăm đồng, trừ tiền thuế, và công chuyên chở ba trăm đồng, còn lại bốn trăm đồng.
Thấy dì lẳng lặng nhận bốn trăm đồng, thái độ quá nhẫn nhục, Phượng hỏi mỉa tên đưa tiền:
- Nhà nước chở đồ đạc của chúng tôi đi mà còn bắt chúng tôi đóng thuế và tiền chuyên chở sao anh?
- Lẽ ra tịch thu đấy.
- Sao lại tịch thu hở anh? Dì tôi còn là công dân mà, có phải ra tòa, có bị kết án tước quyền công dân đâu?
Chúng nhớ ra rồi. Nên thận trọng lời nói hơn trong cái gia đình này. Câu chuyện được đánh lạc hướng với dì:
- Chúng tôi sẽ rút chốt đi, chính phủ đề nghị bà bán nhà này cho chính phủ.
Dì đáp ngay:
- Không bao giờ tôi bán nhà này. Bán đi, con cháu tôi ở đâu? Tôi đâu phải là tư sản thương nghiệp…
- Chúng tôi còn đương xét mà.
Tối đến, đám người lớn năm mẹ con dì cháu ngồi bàn kín với nhau. Vợ chồng Khôi nhận định trước là chưa biết đến bao giờ chúng mới chịu chính thức trao trả nhà cùng những giấy tờ cần thiết. Trang và Phượng cùng nhắc tới cảnh hai chị em đã từng chứng kiến hai lần cùng vào khoảng một hai giờ sáng, hai xe cam-nhông công an tới khu phố, nói hai chị em ở cùng ba má, cưỡng bắt hai gia đình tư sản thương nghiệp – một là hãng nhôm, một là hãng thầu nhà cửa – phải dời đi vùng kinh tế mới. Sau đó Trang, Phượng được biết thêm là tới vùng chỉ định, xe cam-nhông ngừng ngoài đường lộ, thả người xuống, quẳng đồ đạc xuống, mặc kệ người nhà xoay xở tự khiêng lấy vào khu chỉ định làm nhà, sâu tít phía trong. Nghe xong, dì quyết định cùng một bà bạn mua một miếng đất miền quê Phú Mỹ thuộc Bà Rịa để phòng khi chúng bắt đi kinh tế mới thì mình có cớ xin về đó là nhà mình.
Chúng rút chốt khỏi nhà, nhưng chúng mượn cả tầng dưới thoạt làm phòng Thương ng- hiệp, rồi làm Nhà trẻ, sau cùng làm kho chứa cá khô cho Phòng Lương thực của quận. Cá khô khắm lặm bốc lên bao phủ cả một vùng mấy nhà hàng xóm. Nói là cá khô, kỳ thực còn ướt, nước cá chảy ra, dòi bọ lổn nhổn, ruồi nhặng bâu đen kịt từng đám không khác gì nhà tiêu công cộng. Vừa lúc người em ruột tập kết của dượng Hai, cán bộ kỹ sư luyện kim đã từng đi Liên Xô, Hung Gia Lợi, có công tác vô Sài Gòn – Chú Vĩnh! Ông đã sớm thấy rõ bộ mặt thật của Cộng sản ngay từ thuở mới ra Bắc tập kết được mấy tháng.
- Em chán chúng nó – chú thủ thỉ tâm sự với dì ngay buổi đầu gặp mặt – em chán sống, bởi vậy suốt mấy năm Mỹ ném bom miền Bắc, em toàn xung phong vào những công việc, những chỗ nguy hiểm nhất. Chết đi cho rồi! Không chết (chú cười) nên thành dũng cảm, được cho đi tu nghiệp một năm rưỡi ở Liên Xô và ở Hung. Về nước vừa tháng
5-1975. Miền Nam tự do vô tổ chức, không tự giữ nổi mình, thì khối đặc bóng tối nhày nhụa miền Bắc tràn vào, ráng chịu vậy chứ sao!
- Sao mà chú không chịu lấy vợ? – Dì hỏi.
- Ối chao, lấy vợ thì phải có con, con em mang dòng máu của em mà còn phải sống dưới chính thể xã hội chủ nghĩa này thì hoặc là héo hon, hoặc là phát khùng, hoặc nổi loạn, đằng nào cũng chết, chị bảo có vợ có con mà làm gì?
- Ô hay, thế chú sống nhăn răng ra đấy, điên khùng đâu?
- Chị ơi, phúc bảy mươi đời đó, đúng lúc em xông mãi vào chỗ chết thì không chết cho, sắp điên và nổi loạn đến nơi rồi thì được đề cao là dũng cảm, được đề cử đi tu nghiệp ở ngoại quốc. Hoàn cảnh khôi hài đó có tác dụng tưới nguội khóc óc của em, hơn thế còn giúp em tìm ra ý tự khích lệ là hãy ráng mà sống, chống mi mắt lên mà chứng kiến những đổi thay sớm muộn ắt phải có. Bởi vậy khi về nước em bèn có con.
- Ủa chú lấy vợ bao giờ?
- Không đâu! Đó là con nuôi. Ấy chị nói chuyện với em phải đề phòng câu chuyện khật khưỡng như thằng điên vậy đó. Gặp may như vậy mà em còn điên điên khùng khùng, chị bảo em lấy vợ làm gì cơ chứ! Chuyện em nhận con gái nuôi cũng vui. Như vậy là bây giờ em thành ông ngoại của ba đứa cháu nhỏ.
Dì trợn tròn mắt trong khi vợ chồng Khôi, chị Trang và Phượng cùng tủm tỉm cười. Dì nói:
- Chú còn là ông ngoại nữa, thật không? Hay là giỡn chị? Không khéo chú khùng thật!
- Thì em vẫn bảo chị phải đề phòng mà! Nguyên do là thế này: Tu nghiệp về nước em được thăng chức phó Giám đốc một Cơ xưởng luyện kim đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội; trong khi Nguyệt, đứa con gái duy nhất của một người bạn thân cũng tập kết từ miền Nam như em nhưng đã chết, làm ở Cơ xưởng đúc máy nổ trong Hà Đông. Nguyệt nó vẫn coi em như chú kể từ ngày ba nó chết và nó đẻ đứa con thứ hai. Chợt một sáng Chủ nhật nó tìm tới em khóc thút thít kể rằng nó vừa bị viên giám đốc Xưởng khiển trách về tội “phá vỡ kế hoach của Cơ xưởng”. Em hỏi cái gì mà to chuyện vậy? Chị không thể tưởng tượng được khôi hài đến mức nào đâu. Nguyên là đồng chí giám đốc Cơ xưởng đó nhất định chủ trương: Các nhân viên trong Cơ xưởng chỉ nên có tối đa là hai con mà thôi, con bé lại trót có mang lần thứ ba. Đồng chí giám đốc kết tội con bé phá vỡ kế hoạch của Cơ xưởng là vì thế mà đòi con bé: hoặc phá thai, hoặc bị sa thải. Em bèn bảo con bé: “Cháu về bảo với thằng giám đốc đó rằng tập tục gia đình nhà tôi không bao giờ phá thai, ba tôi bảo vậy.” Con Nguyệt nhắc em là ba nó chết rồi. Em bảo em là cha nuôi nó từ đấy. Nó cứ nói với thằng giám đốc là ba nuôi nó là Vĩnh, phó Giám đốc Cơ xưởng luyện kim đường Trần Hưng Đạo. Tên đó dư biết những thành tích dũng cảm của em nên thôi không hối thúc con bé phá thai nữa. Trước một ngày em vô đây, nó đẻ. Mẹ tròn con vuông! Thằng bé xinh đáo để chị ạ.
Tới đây cả nhà mới hòa vào câu chuyện. Tuy thư từ, ảnh gửi ra gửi vô thường xuyên, nhưng mãi đến ngày hôm đó chú Vĩnh tập kết mới trở lại miền Nam lần đầu, và trong câu chuyện hàn huyên hôm đó chú mới hiểu rõ hoàn cảnh dì đương phải chịu đựng.
Phượng nói đùa:
- Thoạt gặp một Việt cộng dép râu nón cối là bao giờ bọn cháu cũng đầy thành kiến, ác cảm và đề phòng. Nhưng gặp chú thì khác hẳn.
Chú Vĩnh cười:
- Các cháu có biết khẩu hiệu của bọn họ bây giờ ra sao không? “Nhất kết, nhì sư, tam cư, tứ ngụy!” Nghĩa là chúng kỵ nhất bọn tập kết, rồi các nhà sư, rồi đến đám B54 – Bắc Kỳ di cư năm 1954 – sau cùng tới đám ngụy quân ngụy quyền đó, các cháu.
Chú tá túc tại nhà suốt một tuần nóng bức nhất, nghĩa là mùi cá khô khắm lặm nhất, quần áo phơi trong nhà mặc ra đường nồng nặc như hệt mùi chuột chết. Chú chỉ cách dì làm đơn khiếu nại tới Phòng Lương thực, viện cớ Nhà nước đương khuyến khích dân chúng sống vệ sinh. Chú cũng chỉ dẫn dì cách làm đơn khiếu nại trường hợp dì bị mượn nhà, bị lấy mất đồ đạc trong khi không phải thuộc thành phần tư sản thương nghiệp. Chú đích thân đi gửi bảo đảm tới Viện Kiểm sát Nhân dân, Ban Cải tạo Trung ương, Ban Thanh tra Thành phố. Chú bảo phải gửi nhiều nơi một lúc như thế, đám nọ gờm đám kia, chúng không thể cấu kết mà nghỉm đi. Chú hứa khi trở về Hà Nội còn đích thân nộp một đơn tại Văn phòng Quốc hội nữa. Một lần chú chứng kiến cảnh viên Chủ tịch Phường và mụ phó Chủ tịch Phường tới hạnh họe dì.
Chủ tịch Phường quát tháo: “Bà phải tử tế với những người coi kho lương thực ngoài nhà, bà nên nhớ bà không còn quyền ở cái nhà này.”
Dì: “Sao tôi lại không có quyền ở nhà tôi? Tôi đâu thuộc thành phần tư sản thương nghiệp? Rồi chính phủ sẽ trả lại giấy tờ cho tôi! Tôi đã làm gì mấy người coi kho mà bảo tôi không tử tế?”
Mụ phó Chủ tịch: “Bà khóa cửa không cho người vô nhà trong, làm sao mà có nước uống, làm sao mà đi cầu.”
Dì: “Phòng Lương thực muốn mượn nhà ngoài thì tôi cho mượn nhà ngoài. Thiếu nước tôi đã cho mượn lu trữ nước, đi cầu tôi đã cho mượn bô. Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ, không thể chung đụng được. Bà thấy đấy, chồng tôi đi học tập, nhà hầu hết là phụ nữ, cũng là chị em phụ nữ với nhau, bà thông cảm.”
Mụ phó Chủ tịch (quát): “Ai chị em với bà, chị em cái gì?”
Dì: “Tôi xin lỗi bà, tôi bối rối quá nên nói lầm, tôi quả không chị em gì với bà thật.”
... Thời gian chú Vĩnh công tác ở Sài Gòn, chú còn tới thăm một gia đình miền Nam tập kết khác đã vượt biên định cư ở Úc, được đọc lá thư của người bạn đó viết từ Úc về cho gia đình, nội dung chú còn nhớ để kể lại. Phượng hỏi đùa:
- Chú có định vượt biên không chú?
- Gặp dịp thì vượt chứ. - Chú đáp tỉnh bơ. Chú rời Sài Gòn sớm hơn một ngày để còn đi Xuyên Mộc, Phan Thiết thăm dượng Hai – thăm anh – bị nhốt ở đấy. Chú đi rồi, chị Trang phát biểu với dì:
- Nhà mình thế là may mắn đó, tuy anh em từng ở hai phe mà rút cục cùng chung chính kiến. Nhiều nhà hai phe trắng đỏ phân minh, không buồn gặp mặt nhau; nếu có thì ông nói ông phải, vãi nói vãi hay.
Viện Kiểm sát Nhân dân nhận được đơn của dì rục rịch cho điều tra. Cả một đường dây thông báo cho nhau, một mặt quận đổi Chủ tịch và mụ phó Chủ tịch sang công tác ở quận khác, một mặt Ban Cải tạo quận đạt giấy mời dì tới, yêu cầu dì ký vào một biên bản đã viết sẵn. Chúng bảo nếu ký vào thì còn được ở nhà, nếu không ký chúng sẽ ra lệnh bắt giữ luôn dì và đuổi tất cả ra khỏi nhà. Dì đọc nội dung biên bản ghi là tất cả đồ đạc tịch thu trước đây vẫn do chủ hộ quản lý. Dì rên rẩm nói với chúng:
- Tội nghiệp tôi quá các ông ơi, tất cả đồ đạc của tôi các ông cho xe chở đi hết, bây giờ lại bảo tôi quản lý, rồi đây Nhà nước hỏi, tôi lấy đâu mà đền? Các ông làm vậy ác quá, thà tôi mù chữ.
Chúng cương quyết dọa:
- Bà không ký, chúng tôi yêu cầu công an bắt giữ bà ngay tại đây.
- Vâng thì các ông đưa tôi ký.
Nhưng trước khi ký dì ghi một dòng: “Tôi không hề nhận được thứ gì kê khai nơi đây!”
Tên cán bộ đọc xong vỗ bàn:
- Ai bảo bà ghi thêm hàng chữ này?
- Khổ quá tôi có phải mù chữ đâu, sự thực các ông biết đấy, tôi nào có giữ cái gì.
Tên cán bộ đành phải nói gỡ thêm:
- Sao không ký đã, muốn ghi chú gì thì ghi bên dưới.
- Tôi ghi bên dưới, nhỡ có người không ưa xé bỏ khoảng đó thì tôi biết làm sao?
Tên cán bộ cứng họng những cũng thuận đà quát:
- Bà không ký thì thôi, trả tờ giấy mời đây rồi về.
Bao giờ công an Cộng sản cũng thu hồi giấy mời để phi tang và đề phòng mọi trường hợp khiếu nại, tố cáo. Trong khi dì đưa trả tờ giấy mời, tên cán bộ nói:
- Bà có người em nộp đơn cho bà ở Hà Nội chứ gì. Em bà như vậy là còn tư tưởng hưởng thụ, bao che tội lỗi cho người nhà chống đối chính phủ.
Dì bình tĩnh đứng dậy và đáp liền:
- Tôi mất hộ khẩu, mất lương thực, sống không cửa không nhà, tôi chống đối làm sao mới được cơ chứ!
Về tới nhà dì đã có giấy Công an Phường gọi họp. Buổi họp gồm toàn những người có thể xếp vào thành phần tư sản thương nghiệp như dì. Chúng khuyến khích mọi người nhận đi vùng kinh tế mới. Chúng nêu mười hai địa điểm: Long An, Cần Thơ, Sông Bé, Cửu Long, Long Khánh… Mọi người nói muốn đi xem thử địa điểm Phù Đổng thuộc tỉnh Đồng Nai vì thấy địa điểm này tương đối gần Sài Gòn, chỉ qua hai phà Thủ Thiêm và Cát Lái. Chúng nói nếu đóng cho chúng 2.000 đồng sẽ được cấp nhà làm sẵn ngay. Phượng đã thay dì đi với đám người tới tham quan địa điểm Phù Đổng.
- Trông mà rơi nước mắt dì ơi - Phượng tường thuật lại với cả nhà khi trở về - căn nhà làm sẵn của chúng là túp lều vuông bốn thước một chiều, trét vách bùn mùi hôi thối như cầu tiêu, cỏ tranh mọc lởm chởm đầy nền nhà. Người thì rơm rớm nước mắt nói với nhau, “Chúng mình mà phải ở nhà này à?” Người thì chỉ lắc đầu im lặng. Có một bác người to lớn cất tiếng oang oang: “Nếu chúng ta ưng cùng ở địa điểm Phù Đổng này, thì Phù Đổng sẽ vươn lên, chúng ta sẽ làm lò gạch, lò ngói, xây dựng cả địa điểm thật khang trang, chúng ta dư tài tổ chức mà!”
Sau đó cũng đã có một số người nhẹ dạ đóng cho chúng 2.000 đồng, dì chỉ nộp có mấy trăm lệ phí gia nhập xã viên Hợp tác xã Phù Đổng. Chúng thu được một số tiền lớn, rồi tập thể được thông báo Hợp tác xã Phù Đổng bị giải tán vì những người tổ chức đã trốn ra nước ngoài.
Sau vụ đánh tư sản thương nghiệp này, chính quyền hoàn toàn phô bày bộ mặt ăn cắp và ăn cướp, dân chúng khinh khi họ ra mặt. Một tên công an bị dân chúng nắm cổ, dìm đầu đánh cho thập tử nhất sinh ngay trước cửa chợ Trương Minh Giảng; một tên khác bị một bà ném cả rổ vỏ sầu riêng vào mặt ngay giữa chợ Cầu Ông Lãnh. Mỗi lần có cuộc xô xát như vậy, dân chúng đổ xô lại bu quanh, sát khí đằng đằng; các công an, bộ đội quanh đấy vội lảng đi. Mất tự do, mất tài sản, bị đè đầu cưỡi cổ bởi một lũ ngu dốt tham tàn, dân chúng tự động vùng cả chết.
Sau ba năm giải phóng, miền Bắc đã nhìn thấy rõ miền Nam để phối kiểm các lời tuyên truyền của Đảng và Bác trước đây, đồng thời miền Bắc cũng đã chứng kiến các ông bà tướng tá chuyển của miền Nam về nhà, buôn lậu gần như công khai chuyến này qua chuyến khác. Ca dao, chuyện tiếu lâm châm biếm chua cay thấm thía bắt đầu phồn thịnh và truyền miệng cho nhau nghe, xuất phát từ miền Bắc rồi lan rất nhanh vào miền Nam. Tại Sài Gòn – không ai gọi là thành phố Hồ Chí Minh – trong các hẻm, trẻ em hát nhại một bài hát Cộng sản: “Như có Bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán” – nhà thương điên. Người ta truyền miệng cho nhau những bài ca dao như:
Bác Hồ chết phải giờ trùng
Để cho con cháu nửa khùng nửa điên
Đứa giỏi thì nó vượt biên
Những đứa ở lại không điên cũng khùng
…
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Bốn ngàn năm ta lại là ta
Từ trong hang đá chui ra
Vươn vai một cái rồi ta lại vào.
…
Mất mùa: đổ tại thiên tai
Được mùa: ấy ấy thiên tài Đảng ta
Và danh sách các vị bộ trưởng trong một nội các đích thực có chất lượng điển hình Cộng sản:
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Tôn Thất Tín Bộ trưởng Bộ Tài chính: Tôn Thất Thu Bộ trưởng Bộ Giáo dục: Tôn Thất Học Thủ tướng: Tôn Thất Bại…
Xa, thật xa rồi thuở Bác là thần tượng đến mức một anh bộ đội từ Trường Sơn xuống Nha Trang, mở đọc lại những báo chí “ngụy” trước đây của miền Nam, bỗng ôm mặt khóc nức lên. Anh không thể tưởng tượng nổi Bác lại có thể bị bôi nhọ đến như thế ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Hiện tượng đó sau ba năm “giải phóng thống nhất” không còn nữa, tuy rằng quân, dân, cán bộ còn những người tương tự bám vững lấy tư tưởng “đời đời nhớ ơn Bác muôn vàn kính yêu”, là cha đẻ ra “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh”.
Sau vụ giải tán Hợp tác xã Phù Đổng ngay từ thuở còn trong trứng nước, phường lại đạt giấy triệu tập dì và những người khác, dụ mỗi người đóng
5.000 đồng thì sẽ được nhà và một mẫu đất vỡ sẵn ở vùng kinh tế mới Sông Bé. Ai nấy tuyên bố hết tiền rồi và cuộc họp giải tán bẽ bàng. Trên đường về, một ông trong nhóm tư sản thương nghiệp nói:“Tội ng- hiệp, chúng bị Bác và Đảng nhấn chìm trong cảnh nghèo túng khốn cùng bao nhiêu năm, lại trang bị cho hai ‘đức tính’ ngu và vô liêm sỉ, bây giờ xin các bác quan sát kỹ cung cách chúng ăn cắp, ăn cướp và lóa mắt trước cảnh tiền rừng bạc biển của miền Nam. Tội nghiệp!”
Chị Trang và Phượng cùng giúp dì tạm về
Phú Mỹ, Bà Rịa, trồng khoai sắn, đậu phụng. Lại những cuộc họp ở nhà quê, phòng họp không bàn, không ghế dưới túp lều trụ sở, cán bộ để giấy lên đùi ngồi viết biên bản buổi họp. Chúng thúc tổ trưởng đi thu thuế theo nguyên tắc ai trồng gì đóng thuế thứ đó. Tổ trưởng, người địa phương miền Nam, cười hô hố: “Thôi đi cha nội, người ta trồng, người ta ăn, ỉa rồi, bây giờ bắt tôi thu thuế, người ta đánh cho bể đầu!” Một buổi họp khác, chúng bắt đóng tiền cho Ban bảo vệ an ninh. Lần đó Phượng họp thay dì, cũng từ chối đóng tiền như những người khác và tuyên bố: “Chúng tôi chẳng có cái gì để bảo vệ cả, nghèo quá rồi mà!” Có những người dân nghèo phải đi làm than lậu ban đêm, chính quyền xã cấm, du kích xã đón bắt bị đập đèn pin lên đầu. Thế là đèn pin thành một thứ quốc cấm, không ai được sử dụng đèn pin – kể cả ban đêm đi cầu, đi tiểu cũng không được dùng đèn pin.
Nhìn ra toàn quốc nơi nào cũng là chính quyền vờn dân như mèo vờn chuột, đặc biệt miền Nam là cảnh chú mèo quá gầy gò – cả về mức sống kinh tế với trình độ văn hóa – vờn một chú chuột quá to con và quá… bộc trực. Lại đặc biệt hơn nữa, tại vùng quê thường xảy ra những cuộc đối thoại kỳ dị, tức cười đại loại như sau:
- Báo cáo nhân dân, chính quyền sẽ cho người tới làm nhà tiêu công cộng đó.
- Cho ai tới? Lại cắt cử chúng tôi tới chứ ai! Làm chủ tập thể mà!
- Thì làm nhà tiêu công cộng chứ sao.
- Để quản lý phân hả?
- Nhà nước có kế hoạch ủ phân mà còn có thêm khí đốt nữa.
- Báo cáo anh, nhân dân chúng tôi toàn ăn khoai mì mà còn đói, làm gì có… phân.
…
- Nhân dân hãy đóng góp mỗi người 50 đồng, Nhà nước bán thóc giống cho.
- Chúng tôi chỉ có sức lao động thôi, làm gì có tiền.
- Nhà nước đã khuyến khích và bán cho giống bo bo sao không thấy có thu hoạch?
- Gieo rồi đấy nhưng mưa trôi hết rồi! (Sự thực họ vãi cho gà ăn, không đem gieo.)
…
- Sản phẩm trồng trọt của địa phương cấm bán chợ đen bên ngoài đó.
- Tôi nói thật cho cán bộ biết cấm cách mấy dân chúng cũng bán chợ đen. Nhà nước trả rẻ quá mà.
- Phạm nội qui là tù đó.
- Nói thật với cán bộ chúng tôi như thế này là tù rồi chứ còn gì!
…
- Ai hết hạn tạm trú thì đăng ký gia hạn.
- Hàng năm cứ tạm trú hoài không cho hộ khẩu, giờ thì cứ ở, không khai nữa!
...
Viện Kiểm sát nhận được đơn khiếu nại của dì đã cho người tới điều tra. Những kẻ tịch thu tài sản của dì đã chuyển công tác sang các quận khác và chối không biết gì về việc này. Dì sợ chúng cấu kết với nhau và thù dai nên cũng lờ đi không dám khiếu nại thêm, những mong chúng sẽ để mình yên thân mà nào có được. Ban Cải tạo Quận đáng tiếng nếu chi cho chúng bốn cây – bốn lạng vàng – chúng sẽ trả nhà, trả hộ khẩu. Dì một mực đáp mình hoàn toàn khánh tận rồi.
Phòng lương thực đã thôi không trưng dụng căn dưới làm kho cá khô nữa, phó Chủ tịch phường mới tới nhậm chức đòi dì cho mượn nhà làm trường học. Dì cương quyết khước từ. Dì nói thẳng là nhà dì chật hẹp, không thể đủ tiêu chuẩn làm trường học. Rồi chúng đòi mượn nhà để phục vụ rau quả vào dịp tết, chúng đòi mượn nhà để làm kho chứa cám heo, dù chúng biết mình từ chối. Mỗi lần chúng bước chân vào nhà đều cố tình gây chuyện bắt mình phải bận tâm đối phó. Một lần khác dì vừa từ Phú Mỹ về, mụ Bí thư phường tới đưa mắt soi mói nhìn quanh nhà rồi sẵng giọng hỏi:
- Chiếc tủ áo kê ở góc đây đâu rồi?
- Bán rồi! – Dì cũng đáp trống không.
- Bà xin phép ai?
- Đồ của tôi mà. Nhà tôi đâu có bị Nhà nước niêm phong, sao tôi không có quyền bán?
Quả thực lũ người Cộng sản họ đã tự tạo thành một loại bệnh hoạn sadique, tìm lạc thú trong việc hành hạ người khác. Phượng nghĩ là kể cả giữa họ với nhau. Bây giờ thì Phượng đã hiểu bằng kinh nghiệm “thực mục sở thị” những gì ba đã nói và ông nhà văn đã viết. Ôi, cây nhân sinh với trái đắng Cộng sản trên ba mươi năm lịch sử Việt Nam –
1945-1978. Quả thực trong bầu không khí độc tài thì độc tài tởm lợm nhất của nhân loại là thứ độc tài Cộng sản Việt Nam, do một lũ vì ngu dốt mà nghèo đói, vì ngu dốt mà tàn bạo, vì ngu dốt mà giày xéo, vít thấp biết bao phẩm giá con người.
Mải suy nghĩ, Phượng giật mình nghe có tiếng bước chân ai vội vã lên cầu thang. Bà chủ tươi cười bước vào ngồi xuống ngay bên Phượng:
- Chương trình hơi thay đổi chút ít. Hoãn chuyến đi một ngày cháu ạ.
- Như vậy, thưa bác, đêm mai mới đi?
- Vì biển động là một. Và chiều mai thì đám công an ác ôn nhất sẽ rời duyên hải Vũng Tàu sang tuần tiễu bên duyên hải Gò Công. Chỉ có vậy thôi. Cháu đừng sốt ruột, ráng đợi nghe.
- Cháu không sốt ruột đâu bác. – Giọng Phượng chợt trầm buồn – Như vậy là còn được sống thêm một ngày trên dải đất quê hương. Rồi đây ra đi, nào biết có ngày về, thưa bác.
- Ôi chao, đi rồi về chứ cháu, tụi quỷ này còn tồn tại được bao nả, cháu! Cứ tin bác đi. Mấy giờ rồi cháu?
- Mới ba giờ, bác.
- Thôi bác đi nghe.
- Dạ, bác đi.
4
Đúng vậy, được nán lại thêm một ngày trên dải đất quê hương, Phượng cảm thấy thảnh thơi hẳn. Phượng sẽ nhẩn nha ôn lại những gì Phượng đã sống với “giải phóng” với “cách mạng”, ôn lại thuở gặp lại anh Trung được thả về trước, gặp lại ông nhà văn được thả về sau. Phải ôn lại, đúng hơn phải sống lại thêm một lần nữa những ngày ấy mới thật trọn vẹn. Tề Thiên Đại Thánh “đằng vân giá vũ “hết mình cũng chưa ra khỏi bàn tay Phật, kinh nghiệm của Phượng dù có phức biệt đến mấy cũng chưa vượt khỏi bối cảnh mênh mông mà ông ta đã cống hiến cho toàn thể độc giả.
Cứ như vậy, chị Trang và Phượng, hai chị em thay phiên nhau khi thì ở nhà với ba má, khi thì tới giúp đỡ gì trong những ngày hoạn nạn. Phượng thấy mình trưởng thành hẳn, Phượng học được thái độ bình tĩnh, dũng cảm của chị Trang và tầm nhận định sáng suốt của ông nhà văn khi thông cảm cùng dì những chướng tai gai mắt, đắng cay.
Hôm đó Chủ nhật, đến giờ ăn cơm trưa không thấy em Vĩ về. Nghĩ rằng thằng em ham chơi, Phượng để phần cơm. Phượng đâu có ngờ Vĩ cùng năm đứa trẻ trong lối xóm đi bắt dế khoảng cống gần trụ sở công an phường, bị bắt cả lũ.
Suy theo nếp giáo dục Cộng sản, mấy tên công an xúm lại thẩm tra, một tên hỏi:
- Ai xui tụi bay đến đây rình rập?
- Tụi em đi bắt dế mà!
Quả thực lũ trẻ em “ngụy” nghĩ sao nói vậy, có quắc mắt hạch sách thì cũng như ném sỏi xuống hồ, mất tăm… Chúng bèn hỏi lý lịch ba má các em. Những em khai, ba đạp xích-lô, đạp xe ba gác, làm thợ hớt tóc, thợ mộc, thợ hồ... Chúng thả về nhưng chúng giữ Vĩ lại vì ba Vĩ là sĩ quan học tập. Chúng dìm đầu Vĩ sát miệng cống, vừa đánh Vĩ bằng báng súng vừa nghiến răng nói:
- Chúng tao đánh chết mày, ấn xuống cống này. Ba mày là sĩ quan ăn thịt người.
Khi nghe lũ trẻ được thả về cho hay tin, Phượng chạy vội tới trụ sở công an phường, thấy Vĩ ngồi cúi gằm mặt ở một góc phòng, hai môi mím chặt, mắt ráo hoảnh, không khóc. Phượng nói với tên Trưởng đồn công an:
- Dì tôi đi tăng gia ở quê Bà Rịa chưa về, vợ chồng em tôi sang bên ngoại, nhà vắng vẻ không còn ai, em tôi đây còn nhỏ nghịch dại, tôi đến xin cho nó về để còn học bài mai đi học.
- Chúng nó phá quá, nghịch quá. – Hắn cau có nói.
- Vâng để tôi về tôi răn bảo em nó.
Trên đường về nhà, đứa trẻ mười hai tuổi học lớp Bảy đó – Vĩ – đã biết nói với chị:
- Em nhớ đời trận đòn báng súng nó đánh em. Nó bảo: “Bố mày là sĩ quan ăn thịt người.”
Tới lúc đó Vĩ mới bật khóc, nấc lên, không kể là giữa hè phố đông người qua lại. Câu nói bất bình đó của đứa em nhỏ tuổi ám ảnh Phượng, ám ảnh Phượng… đến nỗi đêm ngủ rơi vào ác mộng. Phượng mơ thấy mình gia nhập một đám rước kì dị, chị Trang hiền hậu hóa trang để râu mép. Tất cả đám rước bỗng hội lại ngồi thành hình móng ngựa để quan sát một đám người đương đào một nấm mồ. Quan tài lộ ra, người ta bật nắp, bên trong là xác một thiếu phụ bị mổ, lòng ruột phủ lấp thân mình. Người thiếu phụ xin vứt xác mình xuống biển. Hỏi vì sao. Đáp để cho cá ăn. Hỏi cá ăn mất xác không sợ sao. Đáp cá ăn xác tôi rồi cá chết, tôi trở lại kiếp người, kiếp tái sinh hạnh phúc chứ không sầu khổ. Và Phượng bừng tỉnh vào lúc này.
Vĩ đi học bị bà hiệu trưởng trù hoài. Chậu cây cảnh đổ khoảng gần nơi sân trường có Vĩ chơi, Vĩ bèn bị kết tội là xúi giục bạn làm đổ chậu cây. Khi trong trường xuất hiện truyền đơn chống chính phủ, bà hiệu trưởng cho ngay là thế nào cũng có bàn tay Vĩ dính vào. Bà gọi Vĩ lên văn phòng, căn vặn Vĩ hết sẵng lại ngọt. Vĩ nào biết gì.
Vĩ bị gọi lên văn phòng, bị chỉnh vì tội không đeo khăn quàng đỏ khi tới trường. Vĩ bị chỉnh vì không chịu chú ý nghe vào giờ giảng chính trị, còn nói cười với bạn bên cạnh. Tới sáng thứ Hai kia, Vĩ không đứng nghiêm lúc chào cờ bị bà hiệu trưởng – dĩ nhiên là đảng viên và từ miền Bắc vô – bắt ngồi làm bản tự kiểm ngay tại chỗ. Vĩ viết đơn giản là trót cười khi chào cờ, từ lần sau xin không tái phạm nữa. Đọc xong bà hiệu trưởng lắc đầu quầy quậy, bảo là viết chung chung như vậy không được, phải viết cặn kẽ trong tuần nào đó ngày nào, giờ nào làm gì, ở đâu, với ai.
- Bà ta định gài con để công an bắt con đó má. – Vĩ nói với má vừa từ Phú Mỹ về - Trường con cũng có công an đó má.
Hôm sau dì tức tốc tới trường gặp bà hiệu trưởng, nói:
- Xin bà thông cảm cho cháu nó bất mãn từ hôm bị công an đánh bằng báng súng và bị nhiếc là bố sĩ quan ăn thịt người. Con nít không bằng lòng thì biểu lộ ngay, không biết thâm hiểm để bụng như người lớn. Cháu nó nhỏ tuổi thì cũng chỉ biết viết tự kiểm nhận lỗi và hứa tự sửa lỗi đó ngày đó. Còn những ngày khác trong tuần nó có làm gì đâu mà phải khai.
- Nó bướng bỉnh lắm – bà hiệu trưởng cong cớn nói – đã bao nhiêu lần tôi gọi nó tới văn phòng đây cảnh cáo.
- Thưa bà, thật tình cháu nó ở nhà bảo sao nghe vậy, nhiều công việc nó tự động làm để đỡ đần mẹ, tôi không hiểu sao tới trường nó lại bướng bỉnh thế.
- Giờ học chính trị, nó không nghe, nói chuyện cười với bạn.
- Điều này tôi có hỏi cháu nó, thưa bà. Nó có nghe đấy, hôm đó bài học chính trị nói về chính sách của chính phủ không động đến cây kim sợi chỉ của dân; nhưng ngày nhà chúng tôi bị kiểm kê tài sản, nó chứng kiến cảnh khám từ chiếc bít tất, chiếc quần si-líp, nó chứng kiến cảnh đồ đạc, TV, tủ lạnh bị cho xe chở đi đâu hết, nó chứng kiến cảnh ảnh ba nó bị gạch chéo mặt và vứt xuống đất…
- Bà có biết ngay lúc chào cờ nó cũng không đứng nghiêm mà cười nham nhở.
- Thôi thì bà thông cảm cho cháu nó trẻ người non dạ không biết nhìn sâu, nó chỉ biết từ ngày có lá cờ đó thì ba nó đi học tập vắng nhà, cửa nhà hai lần bị kiểm kê, đồ đạc…
- Nó như vậy tôi đuổi liệu có kêu oan không?
- Tôi mong bà giúp tôi từ từ dạy nó dần, chắc chắn rồi nó sẽ hiểu mà vào khuôn vào phép như các em khác. Bà đuổi nó thì chẳng khác bà dồn nó vào bước đường cùng.
Mặc dù câu chuyện giữa dì và bà hiệu trưởng đi đến chỗ dàn xếp nguôi nguôi, cuối tháng đó Vĩ vẫn nhất định xin nghỉ học ba ngày giữa tuần để đi với má tới Xuyên Mộc thăm ba. Nhận xét của dì, sau chuyến đi, thủ thỉ với Phượng:
- Tai nghe mắt thấy người ta sỉ nhục ba, nó biết xót. Con trai ít nói nên xót xa càng thấm sâu, bởi vậy nó đòi đi thăm ba bằng được. Thoạt nhìn thấy bố ăn mặc rách rưới, gày gò đen đủi, nó thấu biết cảnh lao động cực khổ, bệ rạc của ba, tư tưởng chống đối “phản động” càng hung hãn trong nó. Bởi vậy, mặc dầu nó đã chịu nghe lời dì bớt thái độ chống đối tại trường, chịu mang theo khăn quàng đỏ tới cửa trường thì – dì cười – quàng quếnh quáng vào để tránh bị soi mói, nhưng dì thấy cũng tội cho nó. Không mẹ nào muốn dối con, mà dì cũng đành…
- Dì sửa soạn cho em đi chui? – Phượng hỏi.
- Chính vào dịp thăm nuôi vừa qua, dượng cháu cũng khẩn khoản với dì là hãy tìm mọi cách cho nó tạm rời khỏi đất nước để được học hành ra hồn, được sống ra sống và cũng có thể tham gia hữu hiệu hơn vào cuộc lật ngược thế cờ sau này. Dượng nói có vẻ am hiểu tình thế bên ngoài hơn cả dì nữa, rồi đây việc nào có người nấy, hiện giờ thì nơi nào Cộng sản chiếm, người không còn được là người, đất nước không còn là đất nước của mình nữa.
- Vậy dì sửa soạn cho em Vĩ ra đi bằng cách nào?
- Tuyến, em ruột của dì đó, nó tổ chức đóng thuyền, sửa soạn ra đi trước với hai thằng con trai lớn sắp đến tuổi quân dịch, nó nhận mang thêm thằng Vĩ.
- Bao giờ đi hở dì?
- Ai mà quyết định trước được! Chỉ biết có thể sang tháng sau. Điều này riêng đám người lớn nhà mình biết kín với nhau thôi, đừng để cho Vĩ nó biết.
Kể từ giờ phút đó, có lúc nhìn Vĩ mà Phượng thấy rưng rưng muốn khóc. Đứa em nhỏ tuổi khẳng khái đó nhất định sẽ tới ngày ra đi, biết bao giờ gặp lại nó. Phượng không bỏ dịp thủ thỉ với Vĩ để tranh thủ những phút còn được gần em. Anh Trung, ông nhà văn ở trại học tập xa, Phượng chắc chắn có ngày gặp mặt, nhưng Vĩ một khi ra đi rồi, biết bao giờ mới tới ngày gặp lại. Nghĩ vậy, một lần Phượng phải quay mặt đi để Vĩ không biết rằng Phượng vừa khóc. Đúng lúc đó Vĩ với trên bàn một nguyệt san thời “ngụy” nói lớn:
- Em đọc cho chị nghe truyện này nè. Chộp ngay lấy niềm vui, Phượng gật đầu:
- Ờ, em đọc lớn cho chị nghe nào
Và Vĩ đọc lớn “Truyện Người May Áo”. Giọng Vĩ trong trẻo, chậm rãi, hồn nhiên. Phượng lần theo câu chuyện đơn sơ, đôi lúc tưởng như mình đương kể cho chính mình nghe.
“Ngày xưa, có anh chàng qua một thời ưa suy nghĩ vớ vẩn, anh sa sút dần, rồi tới lúc nghèo rớt mùng tơi chỉ còn cái khố che thân. Anh lớn tiếng kêu Trời. Bất đắc dĩ Trời hiện ra thật, hỏi: “Con gọi gì ta?” Anh chàng thưa ngay, “Bẩm Ngài con nghèo quá, Ngài thấy đấy, chỉ còn mảnh khố che thân. Con không phải là kẻ tham của Trời, chỉ xin Ngài ban cho một tấm vải để may quần áo thế thôi.” Trời bèn cho ngay anh chàng một tấm vải. Chắc chắn tấm vải do Chức Nữ dệt bằng mây trời, mịn làm sao! Óng ánh muôn màu như hệt mây trời! Anh chàng lạy tạ Trời, khi ngẩng lên, Trời đã biến mất. Đó là một đêm tháng Bảy, tiết Ngâu, buổi chiều mưa rào rào rồi tạnh; chập tối, ngẩng nhìn, ngay xế đỉnh đầu, sao Ngưu, sao Chức sáng ngời. Nhưng suốt đêm đó, anh chàng loay hoa với tấm vải mịn và óng ánh, vì anh chợt khám phá ra rằng tấm vải hoặc chỉ đủ may một chiếc quần, hoặc một chiếc áo. &ld