Chương 8 Nhận Diện
1
Nhà văn, họ thấy trước và thấy nhiều nên họ đau trước và đau nhiều niềm đau của thời đại. Bây giờ thì Phượng hiểu điều này thấm thía qua niềm đau của chính mình và của người thân.
Đã có một nhà thơ được Cộng sản thả về hôm trước, hôm sau chết. Chúng chỉ thả về để chết – điều này không ngoa.
Có tin một nhà văn khác tuyệt thực ở trại lao động cải tạo để phản đối. Tất cả những gì Cộng sản đã được hưởng dễ dàng tự nhiên để tranh đấu bên thế giới tự do đều biến thành những thứ tối kị dưới chính quyền của chúng. Hơn ai hết, chúng – chủ trương độc tài, ngu dân, bần cùng hóa – hiểu mối nguy chí tử của trí tuệ, của tự do và của tình người. Bởi vậy, nhà văn có tuyệt thực thì dưới ánh sáng văn hóa Hồ Chí Minh – tức văn hóa Cộng sản Việt Nam – từ ngữ đương thới đã được chấp nhận từ Bắc chí Nam – họ bắt tuyệt ẩm luôn. Nhịn ăn có thể kéo dài một tháng, thêm nhịn uống là có ngay được ngọn lửa địa ngục cào xé hãi hùng thiêu cháy cổ, thiêu cháy tim gan ruột phổi, thiêu cháy não bộ, sau cùng thiêu rụi thần kinh, thiêu rụi tâm trí. Nếu kẻ tranh đấu không đầu hàng trong tủi nhục – dù chỉ bề ngoài – thì chỉ cần một tuần là cùng, Cộng sản rũ bỏ được trách nhiệm trực tiếp xử tử người đối lập. Một nhà văn kiêm chính khách được trở về nhà, nhưng chưa kịp về tới nhà mắt còn mở nhưng tắt hơi ở dọc đường. Một nhà văn kiêm bác sĩ cao lớn như Tây, hiền như bụt, bị kiết lị được chở về nhà thương Chợ Rẫy, tới nơi đã hoàn toàn hôn mê không còn nhận ra vợ con nữa. Chết.
Nhưng không hiểu sao tất cả những bất hạnh đó không hề làm Phượng nao núng bi quan về số phận ông nhà văn. Không hiểu sao! Giác quan thứ sáu đặc biệt bén nhạy của Phượng đã vươn thành thiên địa chi tâm, thành tiên tri, tiên giác biết trước số phận vượt hiểm nguy của người mà mình hết lòng quý mến chăng? Trong khi đó, nhỏ bạn thiệt hay, luôn luôn thu lượm những tin tức về ông ta rất kịp thời. Rõ ràng nhỏ bạn thu lượm những tin tức chính xác đó cho Phượng, mà kỳ thay nó chẳng hề nói là thu lượm được ở đâu. Một lần Phượng hỏi, “Mi hay tin đó ở Công ty Hóa chất nơi mi làm chăng?” Nhỏ bạn chỉ cười không nói. Từ đấy mỗi khi thoáng có ý định hỏi thì Phượng lại thoáng tự trả lời, “Chà, cuộc đời nếu không có những kỳ dị siêu luận lý đó thì chán chết!”
2
Dì nhận được bức thư của chú Tuyến báo việc bốn cha con chú cháu – chú, hai con và Vĩ – đã được đưa tới Tây Đức định cư. Bức thư này cùng với bức thư viết riêng cho thím đến rất chóng, có bảy ngày, do một Việt kiều ở Tây Đức về thăm quê hương bỏ giúp ngay tại thùng thư Bưu điện Sài Gòn. Dì thở phào, các âu lo phủi đi hết, dì lại người lại sức thấy rõ từng ngày.
Bremen, ngày 17-11-1978
Chị và các cháu yêu quý,
Mới ngày nào rời quê hương từ vùng duyên hải Trà Vinh ra khơi, máy tàu hư, bão tố, đói khát, nghĩ chắc chắn ngàn phần không có lấy một phần sống, ai dè bĩ cực thái lai, em và các cháu được tàu Tây Đức vớt đưa lên trại tị nạn Tân Gia Ba chưa đầy hai tháng đã được chở tới thành phố nhỏ Bremen này định cư. Thoạt nhìn vào bản đồ em hơi thất vọng vì Bremen nằm sát trên miệt Bắc, mà em thì ao ước được ở những thành phố miền Nam như Stuttgart hay Mannheim để dễ bề qua chơi các nước Tây Âu như Pháp, Ý, Thụy Sĩ... Qua đi một tuần, em hoàn toàn yên tâm vì ở đây mạng lưới giao thông đường bộ, đường hàng không cực kỳ tiện lợi. Cuối tuần có người Việt mình định cư tại Đan Mạch sang Tây Đức chọn mua hàng gửi về cho bà con ở Sài Gòn. Cuộc sống Tây phương, như em nhận xét thấy có vội vã, vất vả, nhưng rõ ràng có làm thì có hưởng. Hiện nay em và ba cháu đang theo học khóa Đức ngữ. Trường cách nhà khoảng gần một cây số. Kể ra với tuổi em mà còn phải cắp sách đi học như con nít thì cũng buồn, nhưng sống trên đất nước người ta mà không biết tiếng người ta sao tiện! Mỗi khóa học 9 tháng, Bộ Xã hội phải đài thọ cho mỗi học viên là 5.000 đồng Mác, ngoài ra còn được lĩnh tiền trợ cấp hằng tháng. Như vậy là người ta thuê mình đi học rồi còn gì. Các cháu học rất tiến bộ, đặc biệt thằng Vĩ. Thằng này rõ ràng là có chí lắm. Nó cương quyết học đè đầu thiên hạ, rồi đi làm thêm để lấy tiền mua đồ gửi về cho má. Nó sẽ viết thư thuật kỹ mọi chuyện với chị sau. Em dự định rồi đây gặp dịp nghỉ, nếu chưa đi được đâu xa, em sẽ đưa các cháu đi những nơi gần như Hòa Lan, Đan Mạch, vùng biển Bắc Hải, vùng biển Baltic. Em thường nhắc đi nhắc lại với các cháu hãy lợi dụng tuổi trẻ, tận dụng dịp may được sống bên thế giới tự do, học hỏi nơi trường, học hỏi nơi đời, học hỏi nơi những chuyến đi để rồi mai đây còn về chứ, sống vĩnh biệt quê hương sao? Được cái em đã gặp mấy người tị nạn từ Đan Mạch, từ Hòa Lan qua thăm nơi đâu, ai cũng hướng về một ngày hồi hương trong tương lai. May gặp một Việt kiều ở Tây Đức từ trước 1975, anh ta cho biết sắp cùng một đám Việt kiều về thăm quê hương, em viết vội hai lá thư, một gửi tới chị, một gửi tới nhà em, nhờ người ta chuyển giúp cho chóng.
Chúc chị và toàn gia nhà mình mạnh khỏe, anh sớm về với chị.
Em Tuyến.
3
- Kìa chú Vĩnh lù lù tới kìa, chú từ Hà Nội vô bao giờ vậy?
Dì vui vẻ hỏi lớn khi vừa thấy chú Vĩnh vô. Lúc đó khoảng ba giờ chiều Chủ nhật.
- Em vô đây được hơn một tháng rồi. – Chú
Vĩnh đáp.
- Chú vô công tác?
- Không, em xin chuyển vô.
- Sao chú không tới ngay hôm vô?
- Em không làm ở Sài Gòn, ở Bà Rịa kia.
- Ở Bà Rịa có cơ xưởng nào lớn cho chú làm đâu?
- Em vô đây nghiên cứu địa hình, địa vật vùng ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu để phối hợp với kế hoạch viện trợ kỹ thuật của Liên Xô xem nơi nào sau này có thể xây dựng nhà máy lọc dầu.
Khôi cười:
- Làm ở đấy chú có điều kiện vượt biên dễ lắm đó.
Chú Vĩnh cũng cười:
- Ờ thì gặp dịp chú cũng vượt biên chứ sao!
- Thế công việc tới đâu rồi, chú? – Dì hỏi.
- Em đã đệ đơn xin hưu non. Có lẽ chỉ chừng một tháng nữa em hoàn toàn là một công dân bình thường như cả nhà đây.
- Mới chuyển vô chân ướt chân ráo đã xin hưu non?
- Kế hoạch của em thế mà!
Mãi tới lúc đó chú Vĩnh mới cho cả nhà hay là do việc lần trước công tác vô Nam chú tá túc ở nhà đây, lại giúp dì làm đơn, giúp dì gửi đơn khiếu nại tới nhiều cơ quan cao cấp một lúc, và điều nặng hơn cả, sau khi tới thăm người anh sĩ quan ngụy tại trại lao động Xuyên Mộc, chú đã làm đơn bảo lãnh xin cho anh được tha. Chú đã bị phê bình kiểm thảo là còn tư tưởng ôm chân tư sản phản động. Chú bị cất chức phó Giám đốc Cơ xưởng, chuyển về nghiên cứu, không còn một chút thực quyền, mất đi rất nhiều quyền lợi. Chú đã muốn tung hê xin về hưu non ngay lúc đó, nhưng một số bạn cùng là dân tập kết, cùng tâm trạng, bèn góp ý hãy nên trở về cố quận miền Nam, rồi hãy xin hưu. Muốn vậy phải tại chức, dùng ảnh hưởng tại chức xin chuyển vô Nam. Quả vậy, chú Vĩnh và mấy người bạn thiết đó đều đã xin chuyển công tác vô Nam, đều đã đệ đơn xin hưu non, và trong tương lai gần cũng sẽ kết hợp thành một tập thể những người… Cộng sản lý tưởng: làm chung, ăn chung, tu chung tại khoảng đất trồng trọt được, sát với khu Vạn Hạnh của các Phật tử, khoảng cây số 82 trên đường Bà Rịa–Vũng Tàu.
- Chú tu gì vậy? – Phượng hỏi.
- Tu thiền. Tạm dùng chữ tu thôi, thực ra chỉ là nếp sống không gò bó khắc khổ, cốt giản đơn và đạo hạnh.
Khôi còn bị ám ảnh bởi ý tưởng ban đầu, cười nói:
- Và có thể vượt biên tập thể nữa. Chú cũng cười và đáp lại:
- Có thể lắm chứ!
Câu chuyện tạm ngừng vì vừa lúc đó nhỏ bạn tới thăm Phượng bất ngờ, mang theo ba người bạn trai, một người xách Tây ban cầm. Nhỏ bạn lễ phép chào mọi người rồi nói với Phượng:
- Tụi này tới thăm cậu đằng nhà, chị Trang bảo hôm nay cậu ở đây.
Nhỏ bạn chưa kịp giới thiệu ba người bạn trai, Phượng đã hỏi như thể chính Phương đã biết cả ba người này:
- Lại mang theo cả đàn thế này, cho nghe vài bản nhạc đi.
- Thì cũng định vậy! – Nhỏ bạn đáp ngay. Cả nhà reo vui, có lẽ dì reo lớn hơn cả, vì hẳn dì đương ao ước có ai hát thay cho mình khi hay tin
Vĩ đã an cư tại Bremen, Tây Đức. Chị Trang cũng đã tới. Chị nói khẽ với Phượng là chị biết trước có cuộc ca hát này. Thế là buổi ca nhạc bắt đầu. Rất tự nhiên thân mật. Nhỏ bạn cũng đóng góp tiếng hát. Đó là những bản nhạc phổ thơ của một số nhà thơ còn trong tù hoặc đã được tự do. Có những bản đã gửi thoát ra ngoài được hát trên đài VOA và BBC.
Tiếng hát nỉ non, ai oán:
Tôi đã sống những ngày không tên, không tuổi
Sống những ngày không nói, không nghe Tôi đã sống những ngày tăm tối u mê Sống lạc loài như cơn gió khuya…
Tiếng hát quằn quại, u uất, nghẹn ngào:
Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi bằng sức người vô hạn
Bằng người đầu đội trăm tấn bom, tim mang ngàn tấn đạn…
Nhưng đất đã đỏ vì bị nung bằng những lời dối trá…
Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn cùng cay đắng
Người lừa nhau, trời đất còn bưng mặt thảm thương…
Tiếng hát thê thiết, se sắt, não nề:
Trời có điều chi buồn
Mà trời mưa mãi thế
Cỏ cây có điều chi buồn
Mà cỏ cây đẫm lệ
Anh nhớ em từng phút
Anh thương em từng giây
Chim nào không có cánh
Cánh nào không thèm bay...
Tiếng hát ngậm ngùi u uất:
Nằm đây nghe gió trời ru
Nghe thơ rên siết ngục tù trong tôi
Nghe như vật đổi sao dời
Sông dài cúi mặt, núi ngồi đăm chiêu.
Dì vừa nghe nhạc vừa làm cơm cho cả nhà. Tiếng nhạc, lời thơ gợi niềm tâm sự. Và câu chuyện tâm sự của chú Vĩnh khởi sự từ sau bữa ăn đông vui đến khoảng chín giờ khuya là lúc nhỏ bạn cùng ban nhạc cáo từ ra về. Khởi sự, giọng chú Vĩnh buồn thật buồn:
- Nghe giọng thơ trữ tình trong này tôi thương tuổi trẻ ngoài Bắc vô cùng. Để tôi đọc cho cả nhà nghe bài thơ thất tình của một chàng trai Hà Nội phải vào bộ đội đi đánh Cam-Bốt, Ai-Lao, khi trở về thì mất người yêu.
- Bài thơ đăng báo nào, chú? – Chị Trang hỏi.
- Cũng như ca dao và chuyện tiếu lâm, loại thơ trữ tình này cũng truyền khẩu cháu ạ. Bất kỳ tâm trạng gì, tâm sự nào điển hình của thời đại, đều được quần chúng đón nhận nồng nhiệt. Dĩ nhiên đã là văn chương truyền khẩu thì có sự đóng góp của nhiều người, không còn giữ đúng nguyên bản nữa. Để chú đọc:
EM BỎ TÔI RỒI
Bỏ tôi phải lắm hỡi em ơi
Lính quèn binh phục lại lôi thôi
Gia tài gói trọn ba-lô cóc Nó ở Tây về em sánh đôi Nó ở Tây về có máy khâu
Đứng đi, ăn diện hệt như Âu Chiều về Mokik vang đường phố Ai cũng nhìn theo bảo nó giàu
Hỡi ôi, lương lính bạc năm đồng Làm sao may được áo ni-lông Làm sao có được chiều âu yếm Trao tặng em yêu mấy đóa hồng.
Ngoại quốc thì tôi có lạ gì
Ai-Lao, Cam-Bốt đã từng đi
Khốn nỗi khi về thân lính kiết
Tiền suông khôn đậm nét phu thê
Nó chỉ hơn tôi cái chữ giàu
Nên em yêu nó có gì đâu
Tuổi dù chênh lệch bao nhiêu mặc
Duyên vẫn se duyên bởi nó giàu
Nhớ thuở xa xưa dưới mái trường Tuổi xanh đẹp dậy nét uyên ương Đẹp tình dan díu câu thề thốt
Đẹp mộng chung chăn đẹp gối giường
Nhưng rồi trời đất nổi tai ương
Xô đẩy chàng trai ruổi chiến trường
Em vào đại học, tôi ra trận
Hai đứa hai đường, phương mỗi phương
Chao ôi, đã khắc tên nhau đấy
Cây liễu bên cầu em nhớ không
Thân liễu còn thơ – Tình nát bấy
Đời tôi xám ngoét – Má em hồng.
Mọi người im lặng ôn lại trong trí thấp thoáng mấy câu thơ mình nhớ nhất. Chú đọc lại chậm rãi hơn và cũng ngao ngán hơn. Chú giải thích một vài chữ.
- Mokik là loại xe mô-tô cỡ bự của Tiệp Khắc sản xuất thì phải. Cho tới bây giờ lương lính hạng tuổi quân dịch vẫn là năm đồng một tháng. Các cháu thấy không, bài thơ cũng se sắt buồn thắt ruột, nhưng không còn những nét trữ tình cao nhã thuở tiền chiến hay của những người trong Nam. Hồn thơ của miền duy vật, nên lời than thở cũng bị ảnh hưởng duy vật vít thấp xuống vũng thực tế sát mặt đất. Thơ thất tình thấp thoáng có máy khâu, áo ni-lông, xe Mokik, lương năm đồng… Thiệt là tội nghiệp cho chàng trai và cho cả nàng thơ của chàng.
Khôi góp ý:
- Trước đây cháu cứ nghĩ ngoài Bắc ghét nhau “xả láng” chỉ có bộ đội và công an. Một đằng ra đi đem tính mạng đánh cuộc với chiến trường, một đằng ở nhà có khi chiếm hữu người vợ trẻ của kẻ ra đi; một đằng tới nơi nào thì sống khắc khổ gương mẫu để dân vận, rồi có thể bỏ thây nơi chiến trường giúp đồng đội chiếm đất; một đằng tới nơi là hống hách, ăn cắp, hủ hóa, tham nhũng. Đúng là kẻ ăn ốc người đổ vỏ. Chết nỗi chính quyền độc tài đảng trị thì công an là con cưng. Giờ thì cháu thấy có lẽ mâu thuẫn gay cấn nhất là mâu thuẫn giữa kẻ giàu và người nghèo trong cái nền văn hóa Hồ Chí Minh đốn mạt này: “Bác muôn vàn kính yêu cha đẻ ra Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh!”
- Cháu nói đúng! Mà đám giàu là đám các ông, các bà bự, đám con ông cháu cha, nghĩa là đám giai cấp mới được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, đủ ngoại tệ, đủ quyền thế để buôn lậu những hàng quý, những hàng quốc cấm.
Phượng hỏi về câu thơ:
Tuổi dù chênh lệch bao nhiêu mặc
Duyên vẫn se duyên bởi nó giàu
Chú lặng thinh, không phải để suy nghĩ mà để tất cả người nghe thấm thía hết nông nỗi cơ cầu của một nửa dân tộc bị trực tiếp phân hóa sa đọa trong hỏa ngục Cộng sản:
- Quả thực đây là hỏa ngục của quỷ đỏ, danh từ không còn thậm xưng, mà e vẫn chưa nói được hết sức độc hại nung chảy của nó – chú đáp lời Phượng thật dài dòng – khuôn mặt của nền văn hóa Hồ Chí Minh thể hiện thành nếp sống đại thể tại miền Bắc như thế này: đã sản xuất được một loại trẻ con cực kỳ hỗn láo và cũng cực kỳ tinh khôn. Nhìn đám người già, những cán bộ cao cấp về hưu, sáng sáng tập thể dục tập thể quanh hồ Thuyền Quang theo nhịp hô “một, hai, ba, bốn”, tụi trẻ con bèn hô lớn thành khẩu hiệu: “Tham sống, sợ chết!” Chúng hô công khai, sống sượng và chúng cười hô hố cực đắc ý vì đã nhổ trúng đích những bãi nước bọt tinh thần lên khuôn mặt cha ông chúng. Đó là sự thành công sâu xa của nền giáo dục Đoàn, Đội bao vây lấy trẻ thơ từ thuở chúng còn trong trắng tinh khôi, đào tạo những “cháu ngoan Bác Hồ”. Đoàn, Đội là nơi chúng ẩn náu để có được nếp sống tự do, thoát ly nền giáo dục lễ giáo nghiêm khắc của gia đình mà tuổi thơ dại dột nào cũng mong muốn né tránh. Thanh niên thì chán đời, bất mãn, chỉ muốn hưởng thụ; trường hợp không hội đủ điều kiện thuận tiện buôn lậu thì không ngần ngại mánh mung trộm cướp. Trai thì vậy, gái thì bằng vũ khí trời cho của mình, tiếng lóng là hạng “gái điếm nhảy dù”, trang điểm son phấn, rồi qua lại đợi người tới đón đi; chuột thì có hang, nghĩa là hạng gái điếm chuyên nghiệp có nơi chốn tiếp khách. Hạng trung niên có vợ con thì sẵn sàng ăn cắp dưới mọi hình thức, trong mọi hoàn cảnh, miễn là có tiền để nuôi vợ và hai, ba đứa con chưa chắc đã là của mình.
- Ủa sao kỳ vậy, chú?
Nhìn chị Trang trợn tròn mắt hỏi mà
Phượng muốn bật cười.
- Đó là trường hợp các bà trung niên cưng của Đảng, đanh đá, lăng loàn, vùng lên thực thi nam nữ bình quyền, cắm sừng chồng như chớp, rất hợp với ý đồ Đảng dùng đám đàn bà này để chế ngự đám trung niên bất mãn. Đám này, tuổi chồng, tuổi vợ thường ngang nhau hoặc kém chút đỉnh, không bao giờ vợ kém chồng tới bốn, năm tuổi. Nhưng với đám giàu cưỡi Mokik, may áo ni-lông tặng em, thì chênh lệch bảy, tám tuổi cũng không sao. Phải hiểu hoàn cảnh miền Bắc như vậy mới thấy thấm thía khi đọc hai câu thơ đầy ân oán giang hồ:
Tuổi dù chênh lệch bao nhiêu mặc
Duyên vẫn se duyên bởi nó giàu
- Ờ, chú đã nói đến nhi đồng, đến thanh niên và trung niên nam nữ, thế còn lão ông, lão bà ra sao chú nói nốt nghe thử.
- Vâng, nhưng chị nhớ là em nói đại thể thôi nhé! Thật ra còn những gia đình tốt, những người tốt, những thanh niên nam nữ hiếu thảo, những nhi đồng được hưởng giáo dục gia đình, chỉ phải tội hơi hiếm…
- Thì có thế mới thành đặc thù của nền văn hóa Hồ Chí Minh chứ. - Một trong ba nhạc sĩ bạn nói.
- Trong đám người già, có nhiều đôi mắt cú vọ chuyên xoi mói, bới móc kẻ khác. Không ưa người hàng xóm hơn mình. Các cháu nghĩ lại coi suốt thời thanh niên tam thập, suốt thời trung niên tứ thập của các cụ là chiến tranh, Bác và Đảng lãnh đạo, suốt thời tri thiên mệnh ngũ thập, lục thập, các cụ nhìn đám con cháu ra đi phục vụ chiến tranh với khẩu hiệu tàn độc làm sao dưới ánh sáng trí tuệ của Bác-Đảng: “Sinh Bắc, Tử Nam!” Đã vậy lại thường xuyên sống trong đói khổ, túng thiếu được che đậy bằng những khẩu hiệu gian dối. Sau “Chiến thắng mùa Xuân”, các cụ chứng kiến chiến tranh tiếp tục chuyển sang Lào, sang Cam-Bốt, nay thêm xô xát với Trung Quốc, làm sao mà tuổi già không dễ trở thành ích kỷ, tàn nhẫn cho được?! – Chú hướng về dì – Chị ạ, em thật chua xót mà phải nói ra như vậy. Tội nghiệp biết chừng nào!
Sau một phút im lặng nặng nề, chú tinh ý chuyển hướng câu chuyện:
- Ở ngoài Bắc, hễ ai ăn cắp nhiều của Nhà nước là nổi danh… “hiệp sĩ”. Có đấng anh hùng mang danh “Độc Hành Đại Đạo”, hiệp sĩ này chơi Nhà nước nhiều vố đau lắm! Kho nào hiệp sĩ cũng vô được, chuyển ra hàng tấn bột ngọt, đường sữa. Hiệp sĩ được tuyển vào đội bảo vệ các yếu nhân chính trị và bị ném lựu đạn chết tại Lào. Một hiệp sĩ khác mang danh hiệu “Thượng tướng Z”. Thượng tướng Z cũng lấy của Nhà nước xuất quỷ nhập thần y như Độ Hành Đại Đạo, và mọi thành tích của Thượng tướng đều được nhân dân tiếp đón nồng hậu và phổ biến sâu rộng tức khắc. Thành tích gây hào hứng nhất trong nhân dân của Thượng tướng là một lần kia Thượng tướng bị nhốt ở nhà giam vì một tội nào đó, chứ nhất quyết không thể là tội bị bắt quả tang ăn cắp. Bị nhốt trong nhà giam một ngày, sớm ngày thứ hai Thượng tướng nói với cán bộ quản chế: “Xin anh cho em ra phố mua ổ bánh mì và về nhà lấy thêm chăn màn, đêm qua ngủ muỗi quá và hơi lạnh.” Cán bộ quản chế quắc mắt: “Anh giỡn với tôi hả?” Rồi đóng sầm cửa, khóa trái lại. Thượng tướng nói: “Em chỉ xin vắng nhà giam có một tiếng đồng hồ thôi, nếu anh không cho thì em ra lấy vậy.” Một tiếng đồng hồ sau, chừng e ngại, cán bộ quản chế trở lại nhà giam, nhìn vào trong không thấy bóng Thượng tướng đâu, mở cửa ngó vào, quả nhiên Thượng tướng đã biến dạng. Cán bộ quản chế hốt hoảng chạy về văn phòng báo động với đồng đội. Buổi trưa Thượng tướng trở lại ôm theo chăn màn cùng ổ bánh mì. Sau khi đã khóa kỹ bên ngoài rồi – thực ra lúc đó cán bộ quản chế cũng không còn tin tưởng gì ổ khóa nữa – mới nghiêm sắc mặt hỏi:
- Anh làm thế nào mà ra khỏi nhà giam, hả? Thượng tướng đã bắt đầu gặm bánh mì, vừa nhai e dè, vừa ỏn ẻn đáp:
- Thưa chính anh thả em đấy chứ. Em vít tay trên cái đinh lớn này, đu mình lên ngồi khuất sau cái cột trên cửa này, anh mở khóa cửa ngó vào chỉ nhìn quanh thôi, làm sao thấy em! Anh chạy vội lên văn phòng, bỏ ngỏ cửa, thế là em lẻn ra, “dọt”!
Mọi người cười ồ. Chú tiếp:
- Đường công danh của Thượng tướng coi bộ khá hơn Độc Hành Đại Đạo. Thượng tướng được nước bạn Đông Đức tuyển mộ đi học lớp đào tạo đặc công gián điệp. Tuy Hà Nội, Hải Phòng có những băng du đãng trấn lột (cướp của), hầu hết là con các ông lớn; những nhà săn lưu động trá hình bán cà-phê, thuốc lá nhưng có đủ ciné con heo và gái điếm; nhưng mặt khác dân miền Bắc cũng rất say mê thưởng thức văn nghệ miền Nam mà bề ngoài những kẻ thưởng ngoạn vẫn phải lớn tiếng dè bỉu là văn hóa đồi trụy. Họ say mê nhạc vàng, say mê truyện của các nhà văn phản động. Đặc biệt có một giới trung niên chuyên đọc những truyện trinh thám, những truyện chưởng rồi hằng ngày tới nhà nào đó uống trà, ăn kẹo bánh và thủng thỉnh kể cho đám người chờ đợi nghe, đến quãng gay cấn nhất thì ngừng… Hôm sau lại tới uống trà ăn bánh, kể tiếp.
- Một thứ feuilleton bằng miệng – Khôi nhận định thay chú.
Tựa như chú Vĩnh muốn kết thúc cuộc nhận diện nền văn hóa Hồ Chí Minh ở đấy. Nhỏ bạn và ban nhạc xin phép ra về khoảng chín giờ. Đám chị em, chú cháu còn lại tiếp tục tâm sự. Dì lấy nước sôi pha cà-phê, mùi thơm phức. Bình đường trắng tinh đặt ở giữa bàn.
4
Vợ Khôi nói:
- Cháu thấy chú có những nhận xét thật tinh tế. Nhiều người cũng tập kết về, cũng thất vọng về chủ nghĩa Cộng sản như chú, nhưng không có được những nhận xét điển hình, sâu sắc như chú.
Chú cười. Khôi hỏi:
- Chú thực sự để tâm quan sát từ lúc nào?
- Nhiều yếu tố thúc đẩy – chú đáp – nhưng chú thực sự quan sát và suy ngẫm từ sau sự kiện khôi hài: Chú chủ tâm xông vào chỗ chết cho chết quách, mà không chết, lại còn được tiếng là dũng cảm và được cử đi tu nghiệp nước ngoài.
Chị Trang cười:
- Thì rõ ràng chú cảm tử, phải không chú?
- Thời gian tu nghiệp ở nước ngoài thanh bình, chú trở lại yêu sự sống! Vì yêu sự sống, chú mới suy ngẫm về sự sống tại miền Bắc Việt Nam, nơi chú đã sống những năm khủng hoảng, gay cấn, hiểm nguy nhất. Rồi sau đó chú gần gũi, tâm sự, trao đổi nhận xét và kết bạn với những bạn đồng hương tập kết khác. Sự suy ngẫm có thêm dữ kiện đi vào chiều sâu.
Khôi hỏi câu quyết định:
- Thưa chú, tuổi Đảng chú bao nhiêu? Phượng thấy ánh mắt chú như có sáng lên khi cất tiếng đáp:
- Hú vía, chú chưa hề là đảng viên!
- Vậy mà chú được đi tu nghiệp Liên Xô và
Hung, trường hợp hẳn phải hạn hữu lắm.
- Đúng! Hãn hữu lắm đó cháu. Chú được chọn đi tu nghiệp sau những hành vi cực kỳ coi khinh cái chết. Bất kỳ công tác nào đi dây với tử thần là có chú xung phong. Có lẽ họ coi chú như đảng viên rồi, chỉ còn bất kỳ gặp dịp nào thuận tiện làm lễ kết nạp nữa là xong. Và họ để chú đi. Và sai một li đi một dặm! Ngót hai năm trời ở Liên Xô và ở Hung tu nghiệp về ngành luyện kim, chú chợt chuyển hướng yêu sự sống. Mà đã yêu sự sống nghĩa là yêu tự do thì không thể nằm trong thứ quan tài đúc bằng đá một phiến là chủ nghĩa Cộng sản nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Vẫn lời Khôi đóng góp thêm ánh sáng cho câu chuyện:
- Cháu biết một khi đã vào Đảng Cộng sản là ngoắc ngón tay giao kết với quỷ, khó lòng giải kết được lắm. Hồn mình bị cấy sinh tử phù, có chạy đằng trời cũng không thoát được chúng. Đảng viên về hưu vẫn sinh hoạt chi bộ và tham gia công tác xã hội nơi mình ở. “Tổ chức, tổ chức và tổ chức!” Bởi vậy Đảng Cộng sản là cả một kiến trúc tổ chức cực kỳ tinh vi, cái nọ mắc míu vào cái kia thành một hệ thống chằng chịt ma quái tưởng có thể nói: tượng đá thành đồng rồi có ngày sụp đổ, nhưng tổ chức Cộng sản thì không!
Dì nguýt vào khoảng không:
- Đúng là người phải chống với quỷ! Chị Trang nhỏ nhẹ:
- Và người là tác phẩm, là đại diện của Thượng Đế; quỷ chống với người là Ác chống với Thiện, bóng tối muốn bóp nghẹt ánh sáng! Và chú ạ, cháu bao giờ cũng tin rằng quỷ làm sao mà thắng Thượng Đế, bóng tối làm sao mà thắng ánh sáng?!
- Thực ra chú đương cố vươn lên cả Thiện lẫn Ác; ban chiều chú có nói chú tu là vậy. Nhưng thu hẹp lý luận vào thời điểm này, thì chú cũng đồng ý với cháu thôi.
Và chú cười, nụ cười rồi tiếng cười thật hiền, thật thanh thoát cùng với mùi cà-phê thật ấm bốc lên từng tách nghi ngút mà dì, Phượng và vợ Khôi mang đến cho từng người. Bầu không khí tâm sự đêm khuya bỗng có một bộ mặt của niềm vui thơm ấm vĩnh cửu.
Phượng nghĩ đến ông nhà văn và hỏi chú:
- Thế chú nhất định không lấy vợ?
- Đấy cũng lại là một vấn đề tránh né. Từ ngày tu nghiệp ở ngoại quốc về, chú thường xuyên ở hoàn cảnh bị bao vây để kéo vào Đảng cho yên chuyện. Cả việc đề cử chú giữ chức phó Giám đốc Cơ xưởng luyện kim đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội cũng là một ban ân dụ dỗ. Một lần Đảng muốn làm mai cho chú một nữ đảng viên. Ôi chao, chú lạ gì chiến thuật đặt mình, đặt ăng-ten trong nhà của tụi chúng!
Phượng hỏi:
- Chú từ chối thế có sợ mất lòng Đảng?
- Chú từ chối nhã nhặn, cháu. Cũng như mọi trường hợp đề cập việc nhập Đảng, chú lảng chuyện rất tế nhị, đồng thời đi vài đường ngang bướng tại cơ quan để các đồng chí thấy chú còn cá nhân, chưa đủ tiêu chuẩn trung thành tuyệt đối với Đảng, chưa đủ tiêu chuẩn biết đặt quyền lợi tập thể trên quyền lợi cá nhân, quyền lợi đại bộ phận trên quyền lợi cục bộ, v.v… - chú quay sang nói với dì – nhưng sau chuyện em vào đây công tác, ở đây với chị, giúp chị làm và nộp giấy tờ khiếu nại tới các cơ quan cao cấp, làm giấy bảo lãnh xin cho anh được trả tự do, thì Đảng hoàn toàn dứt khoát với em, tước quyền làm phó Giám đốc, thu hồi mọi quyền lợi, cử về Viện nghiên cứu hữu danh vô thực. Em cũng đã kịp thời gỡ rối bằng cách xin chuyển công tác vô đây, và nay thì sắp được về hưu non rồi.
Dì hỏi:
- Chú nói còn có mấy bạn tập kết cũng xin chuyển được công tác vô đây phải không?
Chú làm một ngụm cà-phê thật đậm rồi đáp:
- Đúng, toàn những bạn đồng chí, đồng tâm, đồng tình cả, vui lắm chị ạ. Để em giới thiệu chị cùng các cháu một khuôn mặt điển hình. Ảnh cũng cỡ tuổi em, là cán bộ phòng chuyên môn Bộ Xây dựng.
- Nghĩa là bất kỳ nơi nào có sự kiện xây cất là có thể có sự hiện diện của vị này để góp ý kiến? – Khôi hỏi chú sau một ngụm cà-phê.
- Đúng, nhưng cháu nhớ là chỉ về chuyên môn thôi, còn đường lối chính sách chỉ đạo là quyền của cán bộ Phòng đối ngoại. Kể từ sau 1972, quân lực Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam, chỉ còn để lại cố vấn và viện trợ, thì Thụy Điển cũng tính chuyện viện trợ nhân đạo cho miền Bắc Việt Nam một Bệnh viện đa khoa tối tân 500 giường. Địa điểm chính phủ chọn là ở Bạch Mai gần phía sông Hồng. Các nhà kiến trúc cùng giới kỹ sư chuyên môn Thụy Điển nghiên cứu địa hình và các yếu tố nhân văn quanh vùng để thiết lập bản quy hoạch. Khoảng
1974, bản quy hoạch của các chuyên gia Thụy Điển vừa xong thì vị phó Thủ tướng kiêm lãnh đạo Bô Xây dựng, Ủy viên Bộ Chính trị, trình độ học vấn vừa xong tiểu học, chợt nhận thấy địa điểm chọn tuy đã có ý xa đường giao thông chính – đường số 1 – để nhĩ mục quan chiêm không trầm trồ khen ngợi công trình của một nước bên thế giới tư bản, nhưng quanh đó lại tập trung quá nhiều nhà máy như nhà máy dệt, nhà máy làm bánh kẹo. Như vậy bệnh viện
Thụy Điển tối tân có thể “gây ảnh hưởng xấu” khiến tư tưởng công nhân – thành phần nòng cốt của Đảng – hướng lòng thán phục về phe tư bản. “Ngài” bèn đề nghị đổi địa điểm!
- Như vậy các chuyên gia Thụy Điển lại phải thiết lập bản quy hoạch mới. – Chị Trang nói.
- Còn gì nữa! – Chú đáp. Đảng không hề nghĩ rằng, khi đổi địa điểm là các chuyên gia mọi ngành của Thụy Điển phải nghiên cứu lại hết thảy: nào chất đất, nào địa hình, địa vật, nào mật độ dân chúng quanh vùng, v.v... Chưa hết đâu các cháu, địa điểm lại rập rình đổi nữa. Thụy Điển đành bảo: “Khi nào quý vị thật sự nhất quyết rồi, thì chúng tôi mới làm bản quy hoạch.” “Quý vị” ấy cứ mỗi người một ý, qua đi ba năm chưa quyết định nổi địa điểm, Thụy Điển cho hay kinh phí viện trợ xây bệnh viện phải trả về. Những người như chú cháu mình thì tiếc, nhưng lũ Bô Chính trị chúng cần gì mà tiếc.
Càng về khuya giọng chú càng trầm xuống, chú kể tiếp về những gì người bạn tập kết là cán bộ chuyên môn Bộ Xây dựng đã chứng kiến. Đông Đức viện trợ xây dựng thị xã Vinh, coi như là thủ đô của Thanh-Nghệ-Tĩnh. Thị xã Vinh nếu như hoàn tất sẽ lớn vô cùng, gồm cả cảng Bến Thủy, gồm cả vùng bên kia bờ sông Lam tới làng Tiên Điền của cụ Nguyễn Du. Con sông Lam ở giữa, thành phố Vinh ở hai bên bờ, nào khác gì Budapest ở hai bên bờ sông Danube. Làng Tiên Điền của vị Đệ nhất Thi sĩ Việt Nam sẽ là khu Bảo tàng Văn hóa. Cả vùng núi Phượng Hoàng Trung Đô, nơi Nguyễn Huệ xưa định xây dựng kinh đô – trong khi Nguyễn Nhạc còn ở Quy Nhơn – sẽ là khu Bảo tàng Lịch sử. Đây là một quy hoạch lâu dài của Đông Đức. Vừa thực hiện xây dựng, Đông Đức vừa đào tạo công nhân và chuyên gia cho Việt Nam. Nhưng các “đấng” lãnh đạo vẫn nay xin sửa đổi điều này, mai xin sửa đổi điều khác, các vật liệu cung cấp và vận chuyển không đồng bộ, có cái này thì thiếu cái kia. Đầu óc hoạch định toàn bộ của Đông Đức đụng đầu phải cái ngu dốt không thể nhìn xa hơn cục bộ của cấp lãnh đạo Việt Nam, họ đành khoanh tay bất lực. Cho đến bây giờ, mấy năm qua rồi, mà cũng chỉ mới xây dựng được một bệnh viện, một khu chung cư, vài nhà máy nhỏ phục vụ cho chính công trình xây dựng nơi công trường này. Thế thôi! Người bạn cán bộ xây dựng của chú còn tới công trường Đồng Hới, Quảng Bình do Cuba viện trợ xây dựng. Thị xã Đồng Hới sẽ rất lớn gồm một hải cảng lớn, một nhà ga lớn, nhưng cũng gặp tình trạng bế tắc như thị xã Vinh mà thôi. Người bạn chú còn tới công trường kiến thiết Thái Bình do Bulgaria viện trợ. Cũng vậy!
Giọng Khôi đầy công phẫn:
- Phải công nhận chúng... ngu cương quyết và triệt để. Chúng thắng miền Nam phần lớn cũng nhờ “ưu điểm” đó.
Giọng chị Trang chừng mực hơn:
- Quả thực, cái gì cương quyết và triệt để cũng có thời thắng, đại thắng là đằng khác, nhưng chỉ là cái thắng dơ dáy nhất thời để rồi sụp đổ vĩnh viễn. Cháu có chủ quan không chú?
- Định luật muôn đời của tạo hóa là biến dịch và tiến hóa cháu ạ. Trở lại chuyện người bạn chú, chính ảnh nêu nhận xét là sở dĩ mọi viện trợ kiến thiết của nước ngoài đều gặp những chậm trễ, khó khăn vô lý như vậy vì bên ta đa nghi.
Phượng trợn tròn mắt:
- Ủa, người ta mang tiền của, nhân lực, vật lực đến xây dựng cho mình thì đa nghi cái gì?
- Các đấng đó là tổ sư của Tào Tháo, các cháu ạ. Các đấng đó sợ họ xây dựng cho mình thì họ biết tất cả.
Dì cười lớn:
- Nếu vậy thì khi xây dựng xin... bịt mắt họ lại.
Chú cũng cười và nói với dì:
- Nhưng người bạn em thật sự thất vọng là sau khi chứng kiến quá trình xây dựng khách sạn Thắng Lợi của Cuba. Khách sạn thiết kế xây bảy từng cực kỳ hiện đại. Công trình xây cất hết sức nhanh cho kịp Đại hội 4 của Đảng. Cuba đích thân cử tới những đội công nhân làm bê-tông, những đội công nhân thợ hồ, thợ xây. Họ huỳnh huỵch khuân vác rất khỏe, làm rất nhanh. Họ thương vô cùng sự gày gò yếu đuối của người công nhân Việt Nam. Một lần họ nói: “Chúng tôi thực không sao tưởng tượng nổi các bạn ăn uống kham khổ đến như vậy!” Đã có những đề nghị xin cải thiện lên phủ Thủ tướng, vì đây còn là vấn đề quốc sỉ nữa. Nhưng bất lực!
- Cấp lãnh đạo, chúng hoàn toàn ngu tối, hoàn toàn mất tình thương, mất liêm sỉ đến mức đó sao, chú? - Hiếm khi Phượng thấy giọng chị Trang gay gắt như vậy.
- Cái đó chỉ có trời biết thôi cháu ạ. - Giọng chú vẫn bình tĩnh như bao giờ - Nhưng các cháu có biết không, khách sạn bảy tầng mới xây được hai tầng thì sự ngu dốt cương quyết và triệt để lại như con yêu tinh sực thức giấc, xin ngừng xây cất ở khoảng đó, lấy cớ để còn kịp trang trí đón Đại hội Đảng. Các chuyên viên Cuba phải họp cấp tốc để quyết định nếu ngừng xây cất ở tầng thứ hai thì mọi hoạch định phải thu xếp ra sao cho tạm ổn, đợi ngày tiếp tục công trình. Dầu sao thì Đại hội Đảng kỳ Bốn cũng đã được tiếp đón với đầy đủ tiện nghi của một khác sạn hiện đại hóa đến mức tối đa. Một phần nhô ra trên mặt hồ, cọc bê-tông đỡ, có bâc thang xoáy trôn ốc đưa xuống nơi cột những canot, yacht, périssoire. Có thể nói ba mặt khách sạn nhìn ra Hồ Tây như một bể bơi thiên nhiên. Chắc chắn kiến trúc sư Cuba đã nghiên cứu kỹ bối cảnh để khi tòa kiến trúc bảy tầng đó hoàn thành sẽ ăn ý với những hàng cây Cổ Ngư, với nét đê Yên Phụ, với dáng núi Ba Vì xa ra sao. Tòa kiến trúc chưa cao được một nửa, nếu như chú là kiến trúc sư chú có cảm tưởng mình bị chém ngang lưng. Các cháu có biết không, tất cả những đồ thiết bị: sắt, thép, pha lê, đồ điện… Cuba đều mua của Nhật, nghĩa là đổi bằng tôm, cá, đường... – những thổ sản của Cuba.
Phượng hỏi:
- Chú có biết vì sao họ đổi ý ngừng lại ở tầng thứ hai?
- Vì nếu khách sạn xây đủ bảy tầng thì cao hơn… lăng Bác.
Cả nhà lại cười ồ, nhưng sau đó giọng Khôi bình tĩnh hơn bao giờ hết:
- Chính tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn người ta cũng cấm làm nhà trên 12 tầng để khỏi cao hơn đài kỷ niệm Washington. Nhưng ở thế giới văn minh, thông minh, trọng tự do nhân phẩm thì không sao; tụi này thì làm cái gì mình cũng thấy ngu và tởm. Nhiều khi cháu tự nhủ không khéo mình cũng cuồng tín như chúng nó, nhưng rồi suy nghĩ cho kỹ thì thái độ của mình chỉ là phản ứng, không hề là chủ động. Thưa chú đến nỗi bây giờ cháu dám nghĩ rằng, nếu như Einstein mà sống lại, đội nón cối lên đầu, lập tức Einstein cũng... ngu liền như chúng.
Chú cười hiền thật hiền:
- Thôi mười hai giờ khuya rồi. Đi ngủ!
Chị Trang vừa giúp dì thu những tách cà- phê lại vừa hỏi:
- Thế còn những bạn đồng tình khác với chú?
- Các cháu chỉ cần nghe một trường hợp điển hình là đủ, quá đủ. Các cháu còn trẻ, chưa đủ kiên nhẫn, chưa đủ lòng nhân, nên chi phản ứng nhiều với cái xấu, các cháu có thể bị xấu lây.
5
Bữa cơm bảy giờ chiều, em nhỏ mang lại cho
Phượng y như chiều qua. Tự nhiên Phượng thấy cuộc đời nhàm chán, kể cả khi Phượng tự nhắc nhủ chỉ tối mai đây Phượng đã lên ghe rời xa quê hương thân yêu với biết bao yêu dấu, có thể là rời xa vĩnh viễn. Chú Vĩnh nói đúng, Phượng còn trẻ chưa đủ kiên nhẫn và lòng nhân để phản ứng vô hại với cái xấu. Trước khi đi ngủ chú Vĩnh đã kể cho nghe nốt đoạn cuối thiên thời sự xây cất. Bỏ máy điện riêng của khách sạn, câu điện đường phố vô.
“Sáng tạo nhuần nhuyễn” này tiết kiệm cho Nhà nước toán thợ điện thường trực tại khách sạn. Nhưng điện thành phố làm sao cung phụng nổi cả dàn đèn, cả dàn máy tự động, cả dàn máy điều hòa không khí. Do đó phải mở hoặc gỡ những tấm kính pha lê trong suốt cho không khí vô phòng. Ruồi muỗi, sâu bọ theo vô. Do đó phải đóng đinh hay đóng cọc để buông mùng. Qua đi ngần ấy thay đổi dây chuyền rất… “lô-gích”, tòa kiến trúc Cuba dung hòa đường nét cổ kính thời xưa với những trang sức và tiện nghi cực kỳ hiện đại, chỉ được xây cất nửa vời cho thấp hơn lăng Bắc, sau cùng hoàn toàn mang khuôn mặt luộm thuộm, lạc hậu, ngu dốt – cũng là khuôn mặt trung thành và điển hình của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – cho cả thế giới quan chiêm.
Ôn lại cái xấu nhàm chán của thực tại, Phượng thấy nhàm chán lây cả cuộc đời. Phải cầu cứu ông nhà văn, dù rằng giờ đây ông ta đương ở trong nhà tù Cộng sản. Bầu không khí của ông vẫn phản ánh những xấu xa, khúc khuỷu, gồ ghề, đồng thời vẫn giúp ta sinh lực chống đỡ và lòng yêu đời soi sáng đường đi. Thiện với Ác, lý tưởng với thực tại, hận thù với thương yêu kết hợp thành cái phong phú, thành khát vọng lung linh như lửa bốc lên trời, như nước trôi ra biển. Phượng nhớ cách buổi tối ca hát chừng hai hôm, nhỏ bạn tới chơi riêng với Phượng tại nhà ba má. Nhỏ bạn cho Phượng biết sau thời gian bị nhốt ở Long Giao, Long Khánh, ông nhà văn bị chuyển ra Bắc, thoạt tới Yên Bái, rồi lên Lào Cai cách biên giới Việt–Hoa chừng sáu cây số và mới chuyển về Vĩnh Phú hơn một tháng vì rất có thể Trung Cộng sẽ xua quân tràn qua biên giới. Lần đó, Phượng chợt hỏi: “Làm sao mi biết rõ những chi tiết tin tức như vậy?” Và mãi tới hôm đó nhỏ bạn mới chịu tiết lộ là: Người tình – và chắc chắn cũng là người bạn đời sau này – của nhỏ bạn là Huân, một trong ba người tới ca hát tai nhà dì hai hôm trước; Huân đương học năm cuối cao học về dương cầm, đồng thời cũng dạy những lớp dưới cho Âm nhạc Viện Quốc gia. Huân là em họ ông nhà văn.
Vừa sang đầu năm 1979, anh Trung được trả tự do. Anh Trung vẫn có tài kể chuyện. Chuyện của anh chẳng bao giờ sẫm màu bi quan, luôn luôn đượm chút tếu. Anh không theo dõi nhiều các tác phẩm văn chương của miền Nam xưa, nhưng tựa hồ như anh rất gần gũi tư tưởng ông nhà văn. Anh thuộc số những bác sĩ được trả tự do muộn nhất. Nhiều bạn đồng nghiệp của anh được thả từ năm trước. Dĩ nhiên má khóc khi thấy anh “lù lù” hiện về. Ba bắt tay anh và vỗ vai anh như đôi bạn thân vậy.