Chương 14 Chạm Trán Với Trùng Dương
Lúc đó khoảng mười giờ rưỡi khuya, bắt đầu ra bãi. Người của ban tổ chức bảo mọi người xách dép, vén quần cao lên; đường ra bãi qua một khu xóm người ở, phải tuyệt đối im lặng, chớ để chó cắn, dân xóm thức, lộ chuyến đi, có hại cho kỳ tổ chức tới. Toán của Phượng chừng mười người qua hai cầu khỉ, nhảy qua một con lạch nhỏ, lội qua một dòng suối nhỏ nước ngập tới mắc cá thôi. Một cụ già 68 tuổi – mẹ chàng tài công kỳ đó – luôn luôn giục đám trẻ bằng giọng miền Bắc dễ thương của cụ, “Nhanh lên các con các cháu ơi, tụi nó thấy thì khốn!” Khi mọi người lội tới vùng nước thấy lạo xạo vỏ sò, vỏ hến bên dưới khía cứa chân thì biết là đã đến bờ biển. Tuy vậy mọi người vẫn còn miết mải đi một quãng qua vùng sình lầy lau lách nữa mới tới khoảng bãi khuất vắng. Người ban tổ chức đọc khẽ tên từng người lên ghe, xếp ngồi đúng chỗ.
Không kể tài công và những người phụ máy, bốn mươi bảy người cả thảy. Khoảng sáu, bảy giờ sáng, ghe đã ra khơi, quay lại nhìn còn thấp thoáng thấy núi Vũng Tàu. Chợt thấy ba ghe đánh cá có kéo cờ đỏ sao vàng nối đuôi nhau tiến ngang phía trước như muốn chặn đường mình. Ai nấy lo vô cùng. Quả thực ghe đầu lái xéo chặn đường. Tài công ghe mình cho mở hết tốc lực. Ghe đánh cá cờ đỏ sao vàng chặn hụt, bỏ cuộc không đuổi theo. Nhưng chưa được nửa giờ sau thì gặp một ghe khác, lớn gấp đôi ghe mình, xông tới hăm hở. Ghe này không có ý chặn mà đi sát làm cồn sóng lên, mọi người la lớn bảo họ hãy lái ra xa kẻo ghe nhỏ có thể lật. Lúc đó người bên họ mới nói xin ghe nhỏ vượt biên cho gửi ba người. Rồi họ lái sát vào nữa, sóng càng cồn lớn, cả hai ghe đều nghiêng ngả. Ba chàng thanh niên xuất hiện. Họ đều là dâm thuyền chài, họ canh đúng lúc hai ghe nghiêng chụm lại thì nhảy xuống mỗi người mang theo hai can dầu. Ghe lớn rời xa ngay, ba thanh niên nói họ có thể giúp tài công lái hoặc kiểm soát lại máy móc. Và một trong ba người đã thực sự giúp một tay lái cho tài công chính nghỉ một lát. Người trên ghe bắt đầu ói, thoạt ói ra củ sắn, rồi ói ra màu xanh xanh, rồi ói ra màu vàng vàng. Phượng có kinh nghiệm bản thân biết thế nào là ói ra mật xanh, mật vàng rồi! Sau cùng Phượng ói ra màu đo đỏ - máu - rơi vào tình trạng hôn mê khoảng ba bốn giờ chiều. Ghe tiếp tục đi.
Khoảng một giờ khuya, Phượng tỉnh lại, thấy ghe chòng chành dữ, được nói cho hay ghe bị hư đang neo để sửa. Bắt đầu bão, mỗi lần ghe ng- hiêng, mép ghe sát với mặt biển ngầu bọt trắng xóa.
Cả ba thanh niên đi nhờ đều mang đèn pin xuống hầm sửa máy. Ba thanh niên không tìm ra chỗ hỏng nhưng kịp thời báo động lên khoang là nước vô hầm nhiều lắm. Một mặt bơm nước, một mặt thay phiên nhau tát nước, tất cả những người trên khoang đều được nhắc nhở là phải tuyệt đối nằm im, tuyệt đối không được đổ xô sang một bên là thuyền ụp tức khắc. Trời đã sáng hẳn. Tính ra thuyền đã đi được
33 hải lý, nơi này nội bất xuất ngoại bất nhập, nếu cứ neo thuyền mãi thì chết, nhưng rút neo thả trôi, thuyền sẽ theo con nước vô bờ, sẽ bị công an bắt. Đương lúc tiến thoái lưỡng nan thì mọi người thấy có chiếc tàu lớn xuất hiện ở chân trời. Thế là quần áo trắng được buộc vào sào làm cờ phất, đồng thời trên khoang đốt lửa làm khói. Vô hiệu. Tựa như con voi nước lừng lững đi vào rừng sóng không hay biết gì tới chú chuột nhắt sắp chết đuối. Lại có tiếng kêu: “Có tàu, có tàu!” Ai nấy nhận ra loại “tàu quốc doanh” vẫn thấy đậu ở bến Bạch Đằng.
“Tất cả đàn bà, con gái hãy xuất hiện hết và la hét kêu cứu!” Lời của một người trong thủy thủ đoàn giàu kinh nghiệm. Quả thực chiếc tàu có ý muốn đi thẳng, bỗng hạ bớt tốc lực. Tiếng cụ bà 68 tuổi thoát lên từ ca-bin, “Ới các ông ơi, cứu chúng tôi với!” Mấy đứa con nít khóc ré lên, vẫy tay trợ lực. Lúc đó Phượng mới giật mình nhớ ra rằng trên thuyền còn cả trẻ nít nữa.
Chiếc tàu quốc doanh lái quanh ghe, rồi hai thủy thủ dùng một chiếc thuyền thúng bơi sang, giữ khoảng cách vài thước, hỏi:
- Ghe của mấy ông bà bị gì vậy?
- Ghe chúng tôi bị hư máy, các ông ơi.
- Có vũ khí không?
- Chúng tôi dự định đi nước ngoài mà, làm gì có vũ khí. Năm mươi người cả thảy.
Lúc đó hai thủy thủ mới cho thuyền thúng sát hẳn và leo lên ghe. Một người nói, giọng vẫn ôn tồn:
- Chúng tôi trông là biết ngay thuyền của ông bà vượt biên.
Người kia hỏi:
- Nào, hư máy ra sao?
Không đợi trả lời, hai người xuống thẳng hầm máy. Họ hì hục dưới đó tới hơn một tiếng đồng hồ, sau cùng họ tìm ra căn bệnh. Một người nói lớn:
- Máy không hư mà thành hư. Máy chạy xăng mà các ông lầm đổ nhớt vào, hư cả hai máy rồi! Bây giờ chúng tôi còn giúp được gì cho các ông bà nữa nào?
Cả hai thủy thủ đã lên khoang. Cụ bà nói:
- Chúng tôi trên này vừa bàn nhau, nếu máy hư không sửa được đành nhờ các ông kéo trở lại bờ vậy.
- Chuyện đó cháu không thể quyết định được, thưa cụ.
- Vậy thì các ông cho tôi qua bên tàu, tôi thưa chuyện với ông thủ trưởng – ý cụ muốn nói người điều khiển tàu – chúng tôi sẽ chung nhau ít vàng còn lại biếu quý ông bên đó gọi là trả ơn kéo chúng tôi vô bờ.
Một chút ngần ngừ rồi một người nói:
- Vâng, để chúng cháu đưa cụ sang tàu.
Họ đón cụ bà xuống thuyền thúng, thoắt thôi cụ đã leo lên tàu bên kia, dáng cụ đi chững chạc, đúng là lão bà sứ giả trên biển khơi. Không biết cuộc đàm thoại bên đó ra sao, chỉ biết chừng một giờ sau, hai thủy thủ khác bơi thuyền thúng chuyển sang hai nồi cơm lớn và một nồi cá thu kho từng khúc bự. Vậy là đã tới bữa trưa rồi.
Ăn miếng cơm cá ấm tình người, Phượng như một thiền sinh đã bao năm nghiền ngẫm một công án, thoát nhiên đốn ngộ. Hãy ôn lại hình ảnh ông già mặt choắt, mắt sáng, râu dê – Lê-nin – khi ông hét lên nguyên lý sáng chói: “Tổ chức, tổ chức và tổ chức!” Như hệt Archimède thét tiếng “Eure- ka!” - Tìm thấy rồi! - Quả thực với mạng lưới tổ chức siêu mê lộ của ông già mặt choắt râu dê thì con người hoàn toàn như con muỗi nhỏ một khi sa vào vùng mê lộ của lưới nhện thì vô phương tự cứu. Càng giãy giụa càng vướng mắc! Nhưng cũng như các loài quỷ, yêu tinh, ma quái trong các truyện ngụ ngôn, cổ tích, chúng tung mây đạp gió như Tề Thiên Đại Thánh mà vẫn không ra khỏi bàn tay của đấng Chí Thiện. Chúng quên, chúng cố tình quên, hay chúng không có khả năng nhớ rằng: Con người, khi đã từ vật lên người, không thể không làm người! Khi những triền phọc khắc nghiệt “tổ chức, tổ chức, và tổ chức” của ông già mặt choắt râu dê và đám môn đệ xuất sắc – dĩ nhiên trong số phải kể Hồ Chí
Minh – không còn hiệu nghiệm, lập tức người lại là người, như kẻ khát khô ngửa cổ ừng ực uống cam lộ.
Kẻ điều khiển tàu quốc doanh đương nhiên phải là một đảng viên Cộng sản rồi, thủy thủ đoàn đương nhiên phần lớn là đảng viên hay cảm tình viên cỡ tin cẩn. Học thuyết một chiều thu hẹp và vít chặt tối đa chân trời kiến thức; những cuộc họp liên tục giữa các đồng chí tiếp tục kiểm soát, bào nạo, xói mòn tri thức từng người; tình tự đồng chí đan lát bằng những danh từ “thắm đượm” là những mắt lưới thường xuyên bủa vây tư tưởng nhau. Nhưng giữa cảnh trời biển mênh mông xa hẳn đất liền Cộng sản, chỉ còn người với người. Càng những con người bị bóp nghẹt, vít kín, càng vùng lên thiết tha để có được dịp khoác lại tấm áo nhiệm màu nhân bản, vung lại đường gươm nhiệm màu nhân bản, thấy chiến thắng trong thất bại, thấy thiên thu trong khoảng khắc, thấy bất diệt trong sinh tử…
Không rõ cụ bà đã nói thêm những gì bên đó, chỉ thấy tàu lớn đã cột dây ghe nhỏ kéo đi phăng phăng theo tốc độ của mình. Tàu vượt sóng nhấp nhô như xe lăn trên quãng đường lồi lõm. Tàu kéo lái ngoằn ngoèo, ghe được kéo phía sau cũng phải nương chiều lái theo. Chắc qua một đêm lo âu sức khỏe suy sụp đi nhiều, người tài công đang lái ghe theo chiều tàu lớn thì bị chuột rút nơi tay cầm, la lớn một tiếng rồi như ngã ngửa về sau. Một trong ba thanh niên xuống nhờ thuyền hôm trước vội lái thay, trong khi hai người kia lấy dầu nóng thoa bóp cho bàn tay bị chuột rút. Sóng biển dường như cứ tăng cấp dần, Phượng cũng muốn xỉu đi, rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Bỗng có tiếng la hết sức bình sinh, “Á, ghe chìm!” Phượng bừng tỉnh đúng lúc ghe nghiêng hẳn và ụp tức khắc.
Cả ghe chìm. Phượng kẹt trong ca-bin.
Chắc chết rồi! Phượng nghĩ vậy và thoáng ôn nhanh hình ảnh ba, má, chị Trang… Dưới nước, Phượng chú ý vào khoảng sang sáng giữa vùng đen kịt. Phải bơi ra lối đó! Phượng nghĩ vậy và lập tức chuồi mình ra ngay, tựa như qua cả một rừng tay quờ quạng.
Ghe sở dĩ lật úp ngay là vì tàu trên vẫn kéo. Một thủy thủ vội chặt đứt dây chão. Phượng bơi thoát ra khoảng sang sáng (cửa ca-bin) đúng lúc dây chão đã được chặt đứt. Phượng vừa trồi lên khỏi một vùng sóng lớn thì cũng thấy mũi ghe từ từ nổi lên cách đấy không xa. Phượng gắng sức bơi nhoai lại, vịn vào mạn thuyền lật úp, đã thấy một số toàn con trai ở đấy. Phượng theo họ leo lên đáy ghe để nhường mạn ghe cho những người đang tiếp tục bơi tới. Từ khoảng đáy ghe lật úp nhìn quanh, Phượng thấy nhấp nhô áo nâu, áo đen, can dầu, thùng đựng lương thực. Sóng nhấp nhô loang loáng và nồng nặc mùi dầu nhớt.
Sau khi kịp thời chặt đứt dây chão, người thủy thủ đã hô lớn cho tàu quay lại. Những thủy thủ khác vội quăng phao, quăng thuyền thúng xuống, rồi chính họ cũng tả xung hữu đột, vớt người này lên thuyền thúng, nâng người kia lên tàu lớn.
Người thứ năm còn lại trên tàu – họ có năm người tất cả - thoạt đốt lửa làm khói kêu cứu một chiếc tàu biển lớn đương tiến trên hải phận quốc tế. Khi trên tàu đã có mấy thanh niên còn khỏe được vớt lên, họ phụ việc dìu những người yếu lả vào ca-bin, đốt lửa lên sưởi ấm, xắt gừng chia cho mọi người nhai lấy hơi nóng, làm hô hấp nhân tạo cho hai người bị xỉu. Họ tiếp tục đốt lửa làm khói kêu cứu tàu lớn ngoài hải phận quốc tế, còn phất cờ trắng nữa.
Chiếc tàu lớn đã nhận ra hiệu khói, xăm xăm tiến tới, mỗi lúc một lớn dần, lù lù đồ sộ. Khi tàu lớn đã tới, một thanh niên giỏi tiếng Anh và Phượng giỏi tiếng Pháp được cử làm đại diện leo lên trình bày hoàn cảnh và xin được vớt.
Cảm giác tổng quát mà Phượng nhớ mãi mãi về sau này, chắc chắn là nhớ suốt đời: Phượng từ những hình ảnh ngổn ngang của sóng biển nhấp nô, người nhấp nhô, những can dầu, những thùng rỗng nhấp nhô, bước lên một sàn tàu mênh mông sạch bóng, những khuôn mặt kế tiếp nhau xuất hiện trong trật tự, những đôi mắt xanh mở lớn hiền hậu đầy thương cảm nhưng không ngạc nhiên, màu áo quần trắng tinh thẳng nếp thơm phức.
Ghe vượt biên của Phượng đã may, thật may, gặp được tàu của tổ chức Médecins Sans Frontière. Tàu này đương trên đường tới Hồng Kông để hoàn tất một nhiệm vụ y tế trong một tuần, rồi sẽ trở về Pháp ngay. Trời chiều sẫm, đèn trên tàu bật sáng trưng. Những người được vớt lên tàu quốc doanh đã tuần tự chuyển sang tàu lớn quốc tế. Kiểm điểm lại, sóng biển cuốn đi mất tích mười người, còn lại
40 người. Ấy là ghe đã chìm vào khoảng năm giờ chiều, còn ánh sáng để cứu kịp những người không bị sóng cuốn đi. Cụ già 68 tuổi đã sang làm sứ giả bên tàu quốc doanh trước khi ghe nhỏ đắm. Những người sống sót chúc thọ cụ. Ai nấy – và chính cụ nữa – cùng nói nếu như còn cụ trên ghe, cụ chẳng sao thoát khỏi số phận bị sóng biển cuốn đi. Những người sống sót không quên cám ơn năm người trên tàu quốc doanh trước khi họ quay mũi vô bờ, không quên trao lại tạ ơn năm người năm chiếc nhẫn, mỗi chiếc một chỉ vàng.
Bốn chục người lần lượt tắm rửa xong và lụng thụng trong những bộ đồ mới của thủy thủ đoàn trao tặng và được dọn cho ăn bữa đồ hộp đầu tiên trên tàu.
Hầu hết nam nữ thanh niên được vớt, đều không ít thì nhiều nói được tiếng Pháp hay tiếng Anh, vì vậy sự cởi mở có ngay từ những phút đầu tiên với thủy thủ đoàn trên tàu. Đám người được vớt hay tin Ủy ban Hành động Chống Hải tặc – Against Piracy Action – đã được thành lập ngày 30-04-1981 ở Thụy Sĩ gồm các tổ chức danh tiếng quốc tế như Terre des Hommes, Médecins Sans Frontière, Bateau Ile de Lumière. Họ đã gửi tới biển Đông một con tàu có vũ trang để tiếp cứu cho những người vượt biên. Dư luận một tờ báo Mỹ yêu cầu Hải quân Mỹ hãy thẳng tay đập nát bọn hải tặc thú vật đội lốt người. Những thủy thủ người Pháp này còn nói đến cả cuốn Bạch thư tố cáo những hành động dã man của hải tặc Thái Lan, do Ủy ban Báo nguy Giúp Người vượt biển ấn hành, gửi tới những tổ chức có thẩm quyền Liên Hiệp Quốc và các quốc gia tự do. Điều làm ấm lòng những người vừa thoát nạn biển là Cộng sản quốc tế quả thực đã bị kính chiếu yêu của những người tị nạn Việt Nam làm lộ nguyên hình, trơ trẽn hẳn, tiếng nói chúng cất lên ngọng nghịu hẳn ở mọi lĩnh vực. Ba mươi phần trăm người mạo hiểm ra đi tìm tự do bị táng thân trong bụng cá, ba mươi phần trăm bị bắt lại vào tù, hàng chục ngàn phụ nữ Việt Nam bị hải tặc Thái Lan bắt đi mất tích. Các nhà trí thức khuynh tả trong thế giới tự do thực sự cảm thấy mình bị lừa. Một vị trước khi chết đã để lại gia tài đóng một chiếc tàu chuyên dùng vào việc cứu người Việt Nam vượt biên.
Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, huống chi mười người bị ngọn sóng cuốn đi – sáu nữ bốn nam đều đã đứng tuổi, sức yếu. Hai em nhỏ được hai ông bố sức trai ôm giữ nên đều thoát chết. Cụ già
68 tuổi nhắc nhở đám con cháu quan niệm triết lý có sinh tất có tử, những kẻ sống sót hôm nay chỉ là được triển hạn đó thôi. Tiện thể cụ thuật lại chuyện sang tàu quốc doanh điều đình.
Khi cụ ngỏ ý xin ông thủ trưởng kéo giúp ghe vô bờ, ông thủ trưởng dẽ dàng thưa với cụ là sự việc không đơn giản. Ở ngoài khơi thế này, tàu ông không nề hà việc cứu vớt những thuyền không may gặp bão, nhưng nếu lại kéo chiếc ghe với đám người tị nạn về, thì cả thủy thủ đoàn bị liên lụy. Sau một hồi lý luận qua lại hoàn toàn trên cơ sở tình đồng bào, đồng loại, ông ta ưng sẽ kéo chiếc ghe hỏng máy cùng đám người vượt biên trở lại biển Vũng Tàu, nhưng chỉ gần tới bờ biển thôi, rồi kín đáo bỏ đó, những người trên tàu muốn làm thế nào thoát được Công an biên phòng thì làm. Cụ bà đành đồng ý.
Họ dùng chão cột ghe nhỏ rồi cho máy chạy, thoạt lừ đừ vì họ phải hoàn tất tiêu chuẩn đánh cá trong ngày. Khoảng một giờ sau họ mới hướng vô bờ. Nhưng tàu chạy chưa được bao xa, một thủy thủ chợt nói lớn, “Có chiếc tàu lớn đằng xa, ngoài hải phận quốc tế kìa!”
Họ hạ giọng trao đổi nhanh vài ý kiến mà lúc đó cụ vô tình không chú ý. Rồi tàu gia tăng tốc lực, khi cụ ngẩn lên thấy tàu đương hướng ra khơi. Sóng lớn, tàu chao chát dữ, cụ đưa mắt nhìn chiếc ghe bên dưới như chiếc lá mong manh vừa rụng xuống. Tàu càng gia tăng tốc lực thì phải, chính mắt cụ chứng kiến lúc chiếc ghe nghiêng. Tựa như cụ có nghe tiếng la hét thì ghe ụp… Người thủy thủ vung tay dao chặt đứt dây chão…
Mọi người đều công nhận là người thủy thủ đã vung tay dao chặt đứt dây chão rất kịp thời nên mới không có người bị chết ngộp. Hãy giả sử tàu lớn cứ việc kéo theo chiếc ghe chìm nghỉm như vậy thêm năm phút nữa thôi, chắc chắn số mất tích và tử vong không thể dừng lại ở con số mười người.
Cụ bà nêu ý kiến để kết thúc câu chuyện:
- Theo ý bác, thoạt người ta cũng muốn kéo giúp ghe mình về gần đến bờ thì bỏ để mình tự tìm cách thoát thân. Khi thấy có tàu lớn ngoài xa – ý cụ muốn nói ngoài hải phận quốc tế - người ta bèn đổi ý, kéo thẳng mình ra khơi. Kéo hấp tấp quá nên ghe mình bi úp. Thật phúc đức, người ta đã kịp vớt hết những người không bị sóng cuốn. Thật phúc đức mà “tàu thày thuốc” này đã nhận ra lửa đốt kêu cứu để tới tiếp nhận chúng ta. Và cũng thật phúc đức, chúng ta đã kịp nhắc nhau gom được năm chỉ vàng trả ơn cứu sống của người ta.
PHẦN KẾT
1
C hỉ ba tháng qua mà đời sống của
Phượng đã ổn định trên đất Pháp, quả là thời gian kỷ lục! Mới ba tháng qua, kể từ buổi tối rời đất nước quê hương, qua hai ngày một đêm lênh đênh trên biển cả, rồi tai nạn chìm ghe được tàu quốc tế vớt, cập bến Hồng Kông một tuần, không ai được lên bờ, nhưng nhờ được thủy thủ đoàn đánh điện gửi thư giúp. Sau một tuần hoàn tất nhiệm vụ y tế, tàu chở thẳng mọi người về Pháp. Nơi đây đàn chim lìa tổ thêm một lần tan tác mỗi người một ngả: Mỹ, Canada, Hòa Lan, Bỉ, Đức…
Hình như hoàn cảnh hỏa ngục của đất nước đã tôi luyện cho người dân Việt (vẫn sống trong lòng hỏa ngục hay đã thoát ra lấm tấm rải rác trên khắp các quốc gia tự do – đặc biệt khá đông đảo tại Úc, Canada, Hoa Kỳ, Pháp) biết tự hối thúc trong một nếp sống kết tinh để truyền lại chất ngọc kinh nghiệm cho nhân lại.
Được chấp nhận sống trên đất Pháp theo quy chế tị nạn, Phượng được các bạn Pháp nức nở khen hoài về khả năng Pháp ngữ của mình. Phượng kể sơ qua cho các bằng hữu hay ba mình xưa là một trong số mấy nhà báo kỳ cựu nhất của miền Nam Việt Nam, từng sống nhiều lần ở Paris và đã đi hầu khắp các nước Tây Âu. Vì chịu ảnh hưởng của ba mà cả nhà nói được tiếng Pháp như vậy. Phượng được giới thiệu tới Paris theo học tại Sorbonne một ngành kinh tế đặc biệt về thị trường khoáng sản. Tới đây thời gian của Phượng trên đất Pháp vừa được một tháng.
Hồi tàu cập bến Hồng Kông, ngoài bức điện nhờ đánh về cho má, Phượng còn nhờ đánh thêm một bức điện cho Họa ở Hòa Lan mà địa chỉ Phượng còn nhớ. Cho tới khi có địa chỉ nhất định ở Paris, hằng ngày cắp sách tới Sorbonne nối lại cuộc đời sinh viên cũ, Phượng đã viết ngay một bức thư thật dài, kể đủ thứ mọi chi tiết may mắn cũng như gian truân gửi về cho má và chị Trang, rồi một bức thư cho Họa theo địa chỉ ở Hòa Lan. Chắc chắn gặp được Họa hay nhận thư Họa, Phượng sẽ biết tin anh Trung. Có khi anh Trung hay tin nhào tới Paris tìm Phượng. Thuở ban đầu khờ khạo Phượng quên ghi số điện thoại.
Nhưng người đầu tiên tới tìm Phương không phải là Họa, không phải là anh Trung, mà là “sứ giả” của hai người là…
Đó là một sáng Chủ nhật, có tiếng gõ cửa
studio, Phượng nói lớn:
- Ai, cứ vào!
Cửa mở. Phượng trợn tròn mắt nhận ra ngay:
- Anh Mạnh! Trời, sau tháng Tư 1975 anh còn tới nhà mấy lần rồi bặt luôn, mãi mấy tháng sau mới hay anh dông rồi. Lẹ thế! Mà anh cũng tệ, dông thoát rồi chẳng được một dòng một chữ gửi về - Phượng cười lớn – chị Trang trách anh lắm đó.
- Bà ấy có coi tôi ra cái gì đâu! Phượng cười khanh khách:
- Mấy năm ở nước ngoài anh đã thành lập gia đình chưa?
- Lấy ai? Ai lấy?
Vẫn có một mình giọng Phượng cười lớn, dường như lớn gấp đôi:
- Thôi thế thì được rồi, chuyến này viết thư về tấn công bà ấy đi, rồi bảo lãnh bà ấy sang đây. Ấy chết, anh hiện ở đâu nhỉ, ngay Paris?
- Tôi ở Hòa Lan, không xa chỗ Trung và Họa bao nhiêu.
- Anh Trung, anh Họa, trời, cả ba anh cùng ở Hòa Lan?
- Trung, Họa ở cùng nhà. Tôi cách hai tướng khoảng ba chục cây số.
- Tuyệt!
- Họa đã nhận được điện, rồi lá thư mới đây của cô. Họa tuần này quá bận vì một kỳ thi cuối khóa gì đó. Anh Trung thì trót có một cái hẹn phải đi Thụy Sĩ, vì vậy hai tướng cử tôi đến tìm cô bất ngờ như thế này. Tưởng cô không nhận ra tôi chớ.
- Gớm chưa, trông anh là em nhớ ngay tới bức họa chì than anh vẽ chị Trang còn treo nguyên ở phòng khách đó.
- Bà ấy có coi tôi ra gì đâu! Tôi như một chúng sinh nhỏ nhoi quỳ dưới chân một Bồ Tát cao vòi vọi!
- Anh chưa thành lập gia đình là được rồi! Chuyến này phải viết thư về cho bà ấy, tấn công mạnh vào. Số bà ấy phải ba mươi tuổi trở ra mới lấy chồng. Đến ngày đến tháng rồi đó. Định cư ở Hòa Lan, anh vẫn làm điêu khắc?
- Vừa điêu khắc, vừa vẽ, vừa du ca.
- Trời lắm thứ dữ!
- Ba tháng trước đây tôi gặp một anh bạn trẻ Việt Nam mới tới định cư tại Hòa Lan. Anh nằm viện để mổ mấy mảnh lựu đạn trong gót chân.
- Chi mà dữ vậy?
- Không, đó là mảnh lựu đạn cũ, có từ thuở anh đi lính trước 1975. Anh chàng là một trong những người gây dựng Phong trào Du ca cũ còn giữ nguyên lý tưởng, giữ nguyên phong độ và nhiệt tình.
Mạnh đã ngồi xuống ghế, Phượng đã bắt đầu pha cà-phê, hỏi:
- Anh là bạn cũ của anh ấy?
- Không! Nghe có người Việt Nam tới nằm viện thì mình tới thăm theo tình nghĩa đồng bào, thế thôi. Nhưng gặp nhau hợp thanh khí là thân nhau liền, vì thế tôi mới làm thêm “nghề du ca” chứ. Tôi đã có kinh nghiệm bản thân nằm bệnh viện, cũng thuở ban đầu chân ướt chân ráo tới Hòa Lan nè! Không ai đến thăm, không một người thân quanh mình. Nằm đó gậm nhấm nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ những kỷ niệm yêu dấu… Cơn buồn đến một cách nhẹ nhàng, chầm chậm và thấm thía… Thế rồi nước mắt tự nhiên tuôn chảy một cách ngây thơ không ngôn ngữ nào diễn tả nổi.
- Dữ!
- Thật vậy đó. Một tuần bốn ngày đến trường học tiếng nước người ta, còn lại bao nhiêu ngày khác dùng để viết thư, để lang thang và để khóc thầm. Ở Việt Nam có bao giờ nghĩ có ngày mình như thế, vậy mà ngày đó như thế đó.
Phượng đã bày ra hai tách cà-phê và mở tủ lạnh lấy bánh croissant, nói:
- Cà-phê thì bình đẳng, mỗi người một tách. Nhà còn một bánh croissant em nhường anh, người từ Hòa Lan tới, còn em đã có bánh ngọt. Điểm tâm cà-phê với bánh ngọt là đúng type Parisien đấy anh ạ. Thế anh vừa vẽ, vừa điêu khắc, vừa du ca, có bận lắm không?
- Du ca là nền lá xanh, điêu khắc và hội họa là những hoa những trái. Cái nọ làm giàu cho cái kia, vỗ về khuyến khích lẫn nhau.
- Anh là người sướng nhất trần gian rồi còn gì!
- Đúng vậy đó cô! Anh Quyết – tên anh bạn du ca – lành vết mổ là bọn tôi hoạch định thực hành lập Đoàn Du ca Hòa Lan liền!
- Anh Quyết là Đoàn trưởng phải không anh?
- Dĩ nhiên. Và tôi là Đoàn phó cũng dĩ nhiên nốt. Sẽ thành lập du ca cho cả Âu châu!
Câu chuyện đã có đà lại thêm cà-phê thơm, croissant thanh lịch tinh khiết nên như lửa gặp gió, Mạnh tiếp:
- Du ca hướng dẫn thanh niên đi tới lý tưởng dân tộc cao đẹp. Du ca bảo tồn, phát huy văn hóa và văn nghệ Việt Nam qua dân ca. Chỉ mới ba thág qua mà bọn tôi đã đi khắp các nước khác như Bỉ, Tây Đức, Pháp, Luxembourg, Anh, Thụy Sĩ. Cô nên nhớ du ca không phải để kiếm tiền đâu nhé. Những buổi trình diễn du ca đều nêu cao tinh thần “nhất định sẽ về”. Tâm niệm của hơn một triệu người Việt Nam ở hải ngoại là: “Hãy gắng quay về nước khi bạc đầu!” Chỉ có chừng đó thôi. Đi để tìm lại ngày về. Ở Hòa Lan tổ chức đón Tết cũng như ở Việt Nam thôi: pháo, múa lân, bánh chưng, củ kiệu. Cô ở Pháp đây thì còn đủ hơn nữa: chả giò, nem chua, bún riêu, mắm tôm – thiếu gì!
2
Sau Chủ nhật gặp Mạnh tới thứ Bảy tuần đó thì gặp anh Trung và Họa. Hai anh em gặp lại nhau trên đất nước người, Phượng chỉ biết khóc. Họa đứng đó như một nhân chứng hiền lành. Sự thực Họa với Phượng thì cũng y hệt Mạnh với chị Trang. Đôi bên biết rõ tình cảm nhau, rồi cứ dập dềnh như vậy, chẳng ra xa mà cũng chưa phải là gần!
Anh Trung cho Phượng hay tuần trước anh đi Genève đề cập tới việc anh có thể được chấp nhận là một bác sĩ trên một chiếc tàu tương tự loại Médecins Sans Frontières, hoạt động thường xuyên trên Vịnh Thái Lan để tiếp cứu những ghe người Việt vượt biên.
Nói chuyện với anh Trung xong, Phượng quay sang với Họa:
- Theo anh Mạnh nói thì hình như tuần trước anh Họa bận một kỳ thi cuối khóa gì đó thì phải.
- Đúng đó Phượng ạ - bao giờ Họa cũng có cách gọi thẳng tên thân mật như vậy. Thanh toán nốt kỳ thi tuần vừa qua là tôi được cấp bằng kỹ sư một ngành điện tử. Người Việt nào mới tới bất kỳ nước nào thì cũng chỉ lăm le kiếm được việc làm để trước là nuôi thân sau là để gửi về giúp đỡ gia đình. Nhưng ở Hòa Lan, làm bồi bếp gì thì cũng phải có bằng cấp, thi cử và nói sõi tiếng người ta đã. Dĩ nhiên trong khi đi học, Phượng ạ, người ta cung cấp cho mình đủ các thứ, từ nhà cửa đến giấy vệ sinh, hằng năm còn được cấp tiền nghỉ hè một tháng tại bất kỳ nước nào mình thích.
Tự nhiên đôi mắt Họa nhìn Phượng nồng nàn hẳn, dường như ngầm cả ý trách móc não nùng nữa. Phượng phải hơi lảng quay đi nơi khác, trong khi Họa tiếp:
- Bây giờ thì tôi có quyền tìm được việc làm trên đất Hòa Lan, để một là thôi ăn bám người ta, hai là đem khả năng chuyên môn của mình phục vụ đền ơn lại người ta, cho đến ngày mình có điều kiện trở về quê hương Việt Nam. Đời sống ở Hòa Lan, Phượng ạ, rất trầm tĩnh, không cạnh tranh giành giật, không kỳ thị màu da.
Những lời sau cùng của Họa đượm vẻ rủ rê quyến rũ. Phượng lơ đãng mỉm cười. Chao ôi, không những trái đất tròn mà còn hẹp nữa, Phượng đâu có ngờ Họa quen thân với Huân nữa – người tình của nhỏ bạn Trinh. Huân, Trinh đã chính thức thành đôi, đương sống ở tiểu bang Indiana xứ Hoa Kỳ.
Phượng đã có sẵn keo dưa góp, chiều thứ Bảy đó Phượng trổ tài làm bún bò Huế thết anh Trung và Họa. Bữa trưa Chủ nhật, trước khi rời Paris trở lại Hòa Lan, anh Trung và Họa còn được thưởng thức bữa cơm cổ điển Việt Nam có canh bóng thủ ăn với thịt gà luộc và giò lụa. Một dịp nghỉ cuối tuần hạnh phúc, chan hòa cho cả ba người, mỗi người một vẻ.
Trước khi tạm biệt, anh Trung nói với
Phượng:
- Anh e rằng anh em mình ít ra cũng phải ba bốn tháng nữa mới hy vọng nhận được thư nhà, vì thư gửi đi cũng như thư gửi về, chúng đều chủ trương ngâm tôm để đấy ba bốn tháng.
- Anh có biết lý do chúng ngâm tôm thư đi cũng như thư về như vậy?
- Theo trí thông minh của đám cán bộ “làm nên sự nghiệp Bác” thì ngâm tôm thư tín như để mọi thông tin ám hiệu của CIA đều mất thời gian tính đi.
Nhưng hai giờ chiều hôm nay, hôm thứ Hai, tiếng chuông điện thoại reo, Phượng nhấc ống nói:
- Dạ tôi nghe. – Trời ơi, anh Trung! Vậy a anh? Vậy a anh? - Ba được thả rồi? - Cả bác Lam nữa?... - Má và chị Trang sao? - Ồ cả nhà mạnh. Tuyệt! - Anh có chú ý thư đi bao lâu tới tay? - Có hai tuần? - Em hiểu đường đặc biệt. Thư chui! Văn hóa Cộng sản mà, cái gì cũng chui, cũng móc ngoặc. - Vâng em đã viết thư cho cặp Huân-Trinh. Chắc chỉ tuần sau em nhận được thư trả lời của nhỏ bạn. – Vâng em vẫn tiếp tục viết đều về nhà. – Hằng tuần anh ạ. Em đánh số thứ tự để chị Trang dễ theo dõi. – Vâng, em chúc anh sớm được như nguyện sở cầu phục vụ trên chiếc tàu cứu nhân độ thế tại Vịnh Thái Lan. Anh cho em gửi lời thăm anh Họa. – Em còn bận học quá chưa thể qua Hòa Lan, nhưng các anh phải qua Paris đấy!
3
Quả nhiên tuần sau Phượng nhận được hồi âm của nhỏ bạn. Ôi con nhỏ đáng yêu, nó đúng là một phần linh hồn của Phượng!
Mi,
Ta như con khùng từ lúc nhận được thư mi. Không biết nói gì về mi trước hay về ta trước, thỉnh thoảng bèn hét một tiếng làm anh Huân trợn tròn mắt và hạ một tiếng để điểm xuyết: “Khùng!” Mi, coup d’essai coup de maitre, không trắc trở như ta, nghĩa là có trắc trở nhưng gọn một lần, không lè phè hai lần nhiều đợt như ta. Thôi để kể sơ qua về ta cho mi nghe, rất ngắn gọn, sơ lược, cô đọng.
Sau buổi anh Huân, ta và mi tới thăm ông anh họ - ông nhà văn – về nhà, tối hôm đó cụ thân sinh mới gọi cô con gái rượu của cụ ra mà rằng: “Ba biết con bề nào cũng ra đi. Thôi hai con chính thức trên giấy tờ thành đôi với nhau đi, sẽ chọn ngày lành cả hai bên nhà trai nhà gái chung nhau làm bữa cơm thân mật, mời bà con bằng hữu tới chứng kiến, thế là xong! Sau đó các con vượt biên, sống gửi thác về nhưng thành đôi rồi!”
Cụ nói là làm, mi ơi. Hôm sau cụ đưa con gái tới gặp gia đình anh Huân, cụ trình bày thẳng với má anh Huân ý định của cụ. Hôm sau nữa, hai cụ đưa hai con đi làm giấy giá thú liền. Tuy nhiên mới là hình thức trên giấy tờ thôi, động phòng huê chúc phải đợi sau bữa tiệc trình diện. Nhưng sang hôm sau nữa – hôm thứ ba – hai đứa đã phải bất ngờ lên đường gấp. Vì vậy mi hụt bữa tiệc trình diện của ta, và ta hụt… động phòng huê chúc. Nhưng không sao, cứ tiếp tục nghe ta kể. Chuyến đó bọn ta đi thoát, cập đảo Bidong, Mã Lai, rồi từ Bidong tới Kuala Lampur đợi chuyến bay đi Los Angeles, nơi có ông anh chồng bảo lãnh. Nhưng chuyến bay đó bị hủy. Theo luật lệ mới, đám tị nạn phải qua Phi Luật Tân ở một trại chuyển tiếp mang tên Philippine Refugee Processing Center (PRPC) từ bốn đến sáu tháng trước khi được chuyển qua Mỹ. PRPC thuộc xã Sabang, quận Morong, tỉnh Bataan ở phía Nam Manila. Trại ở một thung lũng, xung quanh có đồi núi bao bọc. Tới PRPC là sơn cùng thủy tận, muốn đi đâu phải ngược lại tám cây số nữa mới gặp đường chính. Trại khá bằng phẳng, dài độ bốn cây số, rộng khoảng một cây số, xung quan có thác ngàn gào, có suối tỉ tê. Qua suối là đồi, nơi này đồi trọc chỉ có cỏ tranh cao ngập đầu người, nơi kia đồi cây xanh tốt như rừng vậy. Thổ dân đem kỳ đà, khỉ hoặc chồn họ bắt được ở rừng tới bán tại chợ ngay trong trại. Qua đồi hơn một cây số là biển, phong cảnh rất hữu tình. Mi có biết tại sao ta tả kỹ trại này như vậy không? Động phòng hoa chúc của bọn ta ở đó! Giữa khoảng sơn thủy hữu tình đó! Mi bật cười? Mi có thể khen hoặc chê bọn ta lãng mạn quá trớn, nhưng hãy lắng nghe đây: Cuộc đời chẳng bao giờ hết bất mãn, chẳng bao giờ thiếu đắng cay, nhưng tình yêu an ủi được hết thảy, thoa dịu được hết thảy! Tình yêu của bọn ta thể hiện giữa thanh thiên bạch nhật, vòi vọi trời cao, mênh mông biển rộng, ngút ngàn núi rừng thì trí thông minh lũ con bọn ta sau này dư sức rọi sáng sương mù bóng tối tai họa Cộng sản mà thế hệ cha mẹ chúng phải cam tâm chịu đựng. Mi thấy chưa?
Thôi thư này ta chỉ kể tới đây thôi. Thư sau ta sẽ tường thuật cho mi nghe đời sống của bọn ta khi đặt chân tới xứ Huê Kỳ này.
Cứ yên chí lớn, một khi mi đã thoát hỏa ngục Cộng sản Việt Nam thì có rúc cổ ở hẻm hóc nào của thế giới tự do, ta cũng vẫn có thể tóm cổ mi bất kỳ lúc nào.
Ta.
Mi,
Thư trước ta chỉ viết cho mi ngắn gọn là chuyến đi thứ hai bọn ta đi thoát. Đã đành là thoát, nhưng từ lúc đi đến lúc thoát không ngắn gọn như vậy. Tuy ghe ta đi không bị đắm như mi, nhưng nông nỗi đoạn trường xem ra cực hơn nhiều, nhiều lắm. Nghe đây:
Ta phải ở trong sông hai đêm, dưới ghe bầu chứa 189 người, không có chỗ để chân đó mi. Khi mọi người được đổ lên ghe biển dài có
15 thước, lẽ ra tối đa chỉ chở tới 100 người là cùng mà lên tới 89, hầm không đủ sức chứa.
Tất cả đám còn lại phải ngồi thật sát nhau trên boong tàu, bám lấy nhau để khỏi bị rơi xuống biển. Mi dư biết không còn nỗi khủng khiếp nào bằng biển về đêm, sóng biển tạt ướt người ta rồi khô, rồi ướt, năm ngày, năm đêm liền. Khi ghe biển của ta ra gần tới hải phận quốc tế thì gặp tàu Công an biên phòng, nhưng chạy thoát được. Thế rồi ngày hôm sau gặp thêm ba tàu lớn, mừng muốn chết, nhưng là tàu Ba Lan và Liên Xô, nó cóc thèm dòm, đi thẳng. Thế là tàu lại lênh đênh ba ngày. Ba lần trở về Hòn Khoai – gần Cà Mau – sợ đến chết khiếp. Cơm một ngày hai lần, mỗi người một nắm chút xíu vừa sống vừa khê, nấu bằng nước biển nên mặn kinh khủng, ta nhịn luôn đó mi, chỉ sống bằng ba nắp can nước mỗi ngày. Ta xỉu đi bao nhiêu lần dưới con mắt bất lực của anh Huân, tưởng chết vì lạnh cóng trên tàu. Thế rồi vào chín giờ sáng hôm đó gặp cướp Thái Lan gồm bảy tên trên một chiếc tàu lớn gấp ba ghe mình. Chúng cướp hết vàng bạc. Ta và chị bạn cùng ghe lạy một tên cướp Thái Lan đến sứt trán. Có lẽ vừa lạy vừa thôi miên, vừa niệm Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, nên tên cướp trẻ đó chừng mười chín, hai mươi tuổi, mặt cũng hiền lành, tha cho. Còn mấy bà kia chẳng may gặp mấy tên dữ quá, chúng tọng họng súng vào miệng cho hết kêu. Rất may là ghe ta bị cướp có một lần. Vào đến trại mới thấy nhiều cảnh còn thê thảm ngoài sức tưởng tượng của con người. Có ghe bị cướp từ lúc ra khỏi Việt Nam đến khi vào đảo: 25 lần. Đàn bà con gái chỉ còn thoi thóp phải bế lên bờ rồi dùng băng ca khiêng vào nhà thương ngay. Ghe ta cập vào Mã Lai ngay nơi HCR nghỉ mát. Thế là tụi ta được cho ăn no đủ, rồi lên xe cảnh sát chở vào trại tị nạn, chỉ cách bờ biển khoảng mười cây số. Phải chi mi được chứng kiến ta khi vào trại: chỉ còn một bộ quần áo rách bươm trên người, mặt mày, tay chân đỏ như tôm luộc và gầy hốc hác đến phát rợn người cho chính mình và cho người thoạt nhìn mình.
Vì có thân nhân ruột thịt bên Mỹ nên anh Huân và ta được tuyên thệ - được chính thức chấp nhận vào nước Mỹ - mười bảy ngày sau. Bọn ta được dẫn tới trại Cheras, một trại chuyển tiếp ở Kuala Lampur. Trại Cheras – bọn ta vẫn gọi đùa là “Xe Rác” – chỉ có thể chứa 1000 người mà chính phủ Mã Lai dồn tới 3600 người, không còn chỗ để mà nằm nữa. Cái bi đát nhất ở đây là vấn đề nước. Một ngày mỗi người được phát một xô nước để giặt, tắm, rửa. Có hôm khan, hai người một xô. Có hôm ta xém phát điên vì ba người một xô, chỉ vừa đủ rửa mặt và rửa chén là hết sạch. Mi thấy chưa, trước khi đến thiên đàng, nghĩa là được sống trở lại làm người tự do, ta phải nếm mùi địa ngục như thế đó. Suốt thời gian này ta khóc hoài – vì khổ quá mà!
Nhưng khóc thì cứ khóc mà ta quyết chẳng giận mình, chẳng hờn người. Thương nhớ quê hương thì cứ thương nhớ, nhưng quê hương ở ngay tâm mình chứ đâu. Nhà ngươi hãy nghe bốn câu thơ của thày Viên Minh viết cho đệ tử:
Viễn viễn phong đầu phi
Vong xứ điểu vô quy
Hốt phùng thiên để nguyệt
Qui hà, qui hà vi!
“Theo gió cuốn về vô định, chim bay ngày ngày xa. Chim đà mất xứ sở rồi, sao còn tìm được lối về. Bỗng gặp vừng trăng lồng lộng đỉnh trời. Không còn vấn đề Đi với Về nữa! Vì đâu cũng là viễn xứ, mà đâu cũng là quê hương đó thôi!”
Thiên để nguyệt, vừng trăng lồng lộng đỉnh trời – lời thầy Viên Minh nhủ đệ tử - chẳng thể tìm thấy ở bất kỳ chân trời góc biển nào, mà chiếu diệu ở ngay nơi chính mình.
Mi có giỏi hãy dịch cho ta bốn câu thơ trên, rồi ta sẽ kể cho nghe cuộc sống của ta kể từ khi đặt chân tới đất Huê Kỳ.
Ta.
Phượng đã tạm xếp bài vở học hành lại, nằm ngả ngớn trên giường, chiếc bút chì tay mặt, tập vở tay trái, vật vã chừng mười phút, hoàn thành bài thơ dịch thoát ý cho nhỏ bạn:
Theo gió cuốn la đà Chim bay ngày càng xa Chợt gặp vừng trăng tỏ Quê hương đâu chẳng là.
Nhưng chưa kịp gửi đi, lá thư thứ ba của nhỏ bạn đã tới.
Mi thương nhớ của ta,
Lá thư thứ ba này ta kể tiếp. Rời “Xe Rác” bọn ta còn phải lận đận sang trại chuyển tiếp PRPC, Phi Luật Tân. Gia đình ông anh chồng đã dọn nhà từ Los Angeles lên San Francisco. Rồi vào một ngày đẹp trời, xe buýt tới đón cả bọn ra phi trường lên chuyến phi cơ thuê riêng – Charter – chở 374 người tị nạn. Lên phi cơ là thấy thiên đàng rồi. Các nam nữ chiêu đãi viên Mỹ tiếp đãi quá lịch sự theo đúng nếp sống bên thế giới tự do: La personne humaine doit être prise comme fin et non comme moyen! Phi cơ rời phi đạo lúc bảy giờ sáng, hai tiếng đồng hồ sau, bọn ta được ngắm Hồng Kông qua màn sương mù bao phủ rồi hạ cánh xuống đó. Một giờ sau, phi cơ cất cánh bay một mạch khoảng 18 tiếng tới Alaska. Qua khung kính ta nhìn Alaska tuyết băng trắng xóa. Mọi người trên phi cơ thở phào vì biết chắc đã vào sâu phần đất biết tôn trọng nhân phẩm, nhân vị, tự do. Một giờ sau phi cơ lại cất cánh và sáu tiếng sau bọn ta đã xuống phi trường Oakland, San Francisco. Nơi đây làm thủ tụ quan thuế, nhập cảnh, để rồi tới màn xúc động nhất là gia đình ông anh chồng tới đón sau bao năm xa cách. Rời phi trường đường về nhà thật đẹp. Bây giờ thì các gì đối với ta cũng đẹp và hiền cả. Đường phố lên dốc xuống dốc, thấp thoáng cầu Golden Gate hùng vĩ, thấp thoáng biển San Francisco thật êm, thật đẹp. Chỉ mười ngày qua thôi, mi ơi, ta đã bắt đầu sợ bánh kẹo, chocolate, thịt và bơ, lòng thì ray rứt thương cha già ở lại, thương những bằng hữu còn kẹt lại, thương biết bao tài năng đã và đương và tiếp tục thui chột, thương tất cả, tất cả, coi tất cả như cha mẹ mình, bằng hữu mình, con cháu mình. Chán thịt, bơ, sữa, đường, kẹo rồi! Bây giờ ta mới hiểu, mi ơi, cái cao quý của thức ăn tinh thần. Ta thấy trong cuộc sống cái gì cũng phù phiếm, hời hợt, vô bổ nếu đời sống tinh thần lơ là, trống rỗng.
Chính hơi nóng, ánh sáng tinh thần cô đọng thành sức mạnh nội tâm, điêu khắc nên khuôn mặt mình dưới mắt thế nhân. Từ nay mọi hoạt động của ta đều dưới ánh sáng tư duy đó. Nhìn chung, dân Việt đã trả một giá quá đắt suốt mấy chục năm nay, chẳng lẽ riêng ta không rút được bài học nào cho bản thân sao? Mi chọn ngành kinh tế; ta chọn ngành khoa học: máy tính điện tử - Computer science. Khi nào hai ta gặp nhau có thể hợp tác được! Thôi việc học xếp lại, ta kể cho mi nghe việc ta học thêm dương cầm do chính anh Huân dạy. Bao giờ ta gặp lại cha già, bao giờ ta gặp lại mi và một số bằng hữu khác? Nếu chỉ có học chữ và nghề chuyên môn không thôi, ta phát điên là cái chắc. Mi hãy theo dõi một buổi ta tập đàn:
Đừng ngồi cong theo kiểu chữ C – lời đấng phu quân ta. Mà cũng đừng ngồi dựng đứng kiểu chữ L như vậy. Phải dung hòa hai cái đó. (Đúng vậy mi ạ, nghệ thuật sống chính là dung hòa.) Em hãy tưởng tượng hai chân mình như cái đòn bẩy, điểm tựa là mép ghế, bẩy cả thân người vào cái đàn. Ấy ấy, tưởng tượng thế thôi, sao em lại định biểu diễn như hệt thế? (Đúng vậy mi ơi! Cuộc đời luôn luôn là như thế đó mà không phải thế đâu!) Ủa, ủa, anh bảo tay em bẹp gí, đâu phải lúc nào cũng bẹp! Anh chỉ muốn nó đừng cứng quá. Mục đích là tiếng đàn, em nhớ vậy nhé. Khi mà có tiến đàn hay rồi thì “bẹp gí, cong, thẳng, gẫy…” đều được tuốt ráo. Đoạn này phải đàn thật nhỏ, hãy nhẹ nhàng đặt sẵn ngón tay trên phím và rất ư là dịu dàng dùng lực từ bên trong ngón ta ấn nhẹ xuống, thả ra, rồi lại ấn nhẹ xuống, đốt xương cuối ngón tay phải thật mềm mại, dùng sức thật bí mật không cho ai thấy cả. Em phải chú ý tới hai khuỷu tay nè. Thả xuống tự nhiên. Bây giờ thì em phải chú ý thêm cả lúc thường, không đánh đàn. Chẳng hạn lúc ăn có gồng mình không? Lúc nói chuyện có gân cổ không? Lúc đi vội, chân tay có co quắp không? Nói tóm lại phải hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn đề cao cảnh giác. Tập như vậy vừa có lợi cho ngón đàn, vừa có lợi cho tính tình nữa. Hăng say, hùng hổ… gì thì gì cũng chỉ ngầm ở trong ý nghĩ, ở trong máu thôi, đừng để người ta thấy!
Vừa lúc đó hết buổi tập, ta bèn nói khẽ bên tai đức lang quân:
- Nè anh, cũng như anh đã từng hăng say hùng hổ giữa thanh thiên bạch nhật tại vùng rừng biển Morong, Phi Luật Tân.
Chàng cười. Chết cha, ta quên khuấy mi còn là trinh nữ, mà đồng nam và trinh nữ thì không nên nghe chuyện bậy. Thôi để ta kể nốt cho mi nghe vì sao bọn ta lại rời Indiana.
Anh Huân cương quyết học sáng tác nên đã phải thi Anh văn, thi hai kỳ lý thuyết nhạc và piano, còn phải thêm một kỳ thi toán nữa mới được vào San Francisco State University. Nhưng anh Huân là một người yêu nhạc và rất khó tính. Anh học thử mấy ông thầy sáng tác mà không ưng. Quan điểm bất đồng! Anh Huân mê chiều sâu trong kỹ thuật cũng như nghệ thuật âm nhạc, ghét những mới mẻ quái dị vô ý thức. Anh thường nhắc đi nhắc lại câu của Schumann xưa: “Vào thời nào và ở bất kỳ đâu cũng có những nghệ sĩ dở mà rất nổi tiếng…” Bạn anh ở Indiana quảng cáo trường bên đó ghê lắm và mong anh tới học. Thế là anh bèn gửi tác phẩm cho một ông thầy nổi tiếng bên đó. Bạn anh kể rằng ông ta xem qua không đầy một phút và đồng ý nhận dạy liền. Ông còn nói nếu không có tiền trả, ông sẽ dạy miễn phí.
Anh Huân quyết định xin đổi trường. Cũng may thời này có một nhà địa chấn tiên đoán năm 1982 vùng Bay Area – San Francisco trong đó – có thể bị chôn vùi dưới đáy biển. Chính ông ta đã cho gia đình dọn đi khỏi California rồi. Anh Huân vin vào chuyện động đất mà xin đổi trường cho đỡ áy náy.
Bọn ta tới Indianapolis và tiếp tục việc học như ở San Francisco thôi. Anh Huân coi bộ hợp với trường mới, thầy mới. Anh kiếm thêm bằng cách nhận đệm đàn cho một lớp ballet, kèm thêm một số bạn về hòa âm và phối âm (counterpoint). Thỉnh thoảng anh nhận trình diễn độc tấu dương cầm nữa. Anh nói vì quá yêu nhạc từ nhỏ nên cố bám vào ngành nghệ thuật này năm, sáu năm nữa xem sao, hy vọng sau này có thể dùng những kiến thức thu lượm được phục vụ cho nền nhạc Việt Nam. Đôi lúc anh nổi một cơn thở dài sườn sượt hận cho ngành nhạc Việt Nam quá tồi tệ, không phải vì thiếu mầm non mà vì cái ngu xuẩn của lũ chuyên đem chính trị xía vào mọi ngành chuyên môn kể cả văn học nghệ thuật. Ngay trong Âm nhạc Viện Sài Gòn, anh đã gặp thiếu gì những nhóc tì rõ ràng có thiên bẩm, vậy mà ban giám đốc đâu dám cử chúng đi Liên Xô, cứ nhất định vít kín chúng trong nước. Đó, khi ta viết cho mi tới đây, tiếng đấng phu quân ta đương vọng từ bồn tắm bên kia tường. Mi hãy nghe giọng vàng sang sảng của ổng căn dặn ta:
- Em nhớ khuỷu tay không được khuỳnh ra, ngón cái không được cong ra hoặc quặp vào. Bàn tay mềm, những ngón tay mềm mới dễ di chuyển. Không cần lẹ, em nhớ, cần thiết là đàn một cách thoải mái. Thoạt hãy tập chậm thôi, có chậm mới kiểm soát được!
Ta bèn cung kính trả lời ngài:
- Em nhớ rồi! Em nhớ rồi!
À, dịp cuối tuần vừa qua ta dán mắt theo dõi trên TV vở tuồng The Two Gentlemen of Verona. Không hẳn là của Shakespeare đâu, mà có thêm bớt để thành một cuốn sách loại bestseller của một “đấng điếm” tự thuật. Bậy ơi là bậy! Nhưng thôi, mi còn là trinh nữ, miễn nghe.
Thư kỳ này quá dài rồi, ta stop ở đây, nghe!
4
Ôi nhỏ bạn, nhỏ bạn! Cái hồn nhiên của nó đáng yêu biết chừng nào! Nó đúng là một phần linh hồn của Phượng bao giờ Phượng cũng nghĩ về nó như vậy.
Sau bức thư thứ ba của nhỏ bạn, Phượng nhận được thư chị Trang. Chị nhắc lại chuyện ba đã được thả về, nhắc lại chuyện cả nhà bình an như chị đã viết cho anh Trung. Chị cho hay dượng Hai cũng đã được thả về. Phượng cũng vừa nhận được thư của Vĩ từ Bremen, Tây Đức.
Phượng đã viết bức thư khá dài cho chị Trang kể lại từng chi tiết hôm gặp Mạnh và lời nói “thiểu não” của Mạnh: “Bà ấy có coi tôi ra cái gì đâu! Tôi như một chúng sinh nhỏ nhoi quỳ dưới chân một Bồ Tát cao vòi vọi.” Lây cái hồn nhiên của nhỏ bạn, Phượng đã kết thúc lá thư bằng mấy dòng vừa tếu vừa đầy nhiệt tình:
“Nếu như có ngày nào chị thoát ra được thế giới tự do, hoặc bằng vượt biên, hoặc do em chị thành đôi với anh Mạnh. Em biết chị không màng chuyện chồng con, nhưng… l’appétit vient en mangeant!”
Cuối tuần đó Phượng rời Paris đi Rotterdam thăm anh Trung và Họa. Hai người vừa dời chỗ ở cũ là Leiden vì Họa tìm được việc làm ở Rotterdam. Hai anh em Trung, Phượng và Họa cùng bám lấy niềm vui họp mặt, khi thì tíu tít dạo chơi phố phường, khi thì tưng bừng ra khỏi ngoại vi Rotterdam đi vào vùng thiên nhiên thẳng tắp có dòng sông Lek mà Phượng liên tưởng tới dòng Danube. Về nhà là xúm nhau làm cơm Việt Nam.
Ngoài niềm vui được gặp Phượng, lần này Họa còn niềm vui đắc thắng riêng. Hơn một lần Họa nói với Phượng câu: “Phượng xem, sau mấy năm ăn gửi nằm nhờ, bây giờ mới là cuộc sống tự lập của mình!” Một lần cùng làm cơm trong bếp, anh Trung không có đấy, Họa nói với Phượng:
- Hết ăn nhờ ở đậu rồi, nay có căn nhà riêng, hai phòng ngủ, một phòng khách, tôi chỉ còn thèm một ánh mắt, một đôi môi, một tiếng nói, một suối tóc…
Phượng cười lớn cố tình tô đậm ý nghĩa đùa cợt của câu chuyện:
- Ồ còn những một gì nữa nào? Họa cũng cười lớn:
- Thế đủ rồi. Chỉ cần suối tóc ngược gió chảy về tay mình.
Phượng biết Họa đương ngắm mái tóc dài của mình, may sao anh Trung vừa vào, tay mang theo bình nước trà nóng ướp hoa ngâu. Tay nâng chén trà, uống một ngụm nhỏ, Họa ôn một kỷ niệm vừa đến:
- Căn nhà của ông cụ tôi cất bằng vật liệu tiền chế, nửa chừng hết tiền, cụ bèn thế vào bằng tôn, mái lợp tôn, cửa ra vào bằng tôn. Nhưng nhờ cây cỏ xung quanh nên căn nhà bỗng có cái duyên giản dị như cô gái hiếu hạnh con nhà nghèo. Tôi còn nhớ Trung Thu năm đó, ánh trăng chiếu trên những tàu lá dừa phản ảnh màu bạc hơi hơi lam; bụi tre gần đó vươn cao và đu đưa theo gió, ánh sáng lốm đốm đổ xuống nền đất những hình thù ngồ ngộ. Bao ước mộng cao xa của mình của người cũng hư ảo như vậy thôi.
- Có dừa, có tre nữa, căn nhà ông cụ ở đâu? – anh Trung hỏi.
- Xóm Gà, Gia Định! – Họa đáp, đôi mắt vẫn lơ đãng nhìn mái tóc dài của Phượng.
Sau chuyến đi thăm anh Trung và Họa ở Hòa Lan về, việc học trở lại bề bộn choán hết thời gian. Tuy nhiên Phượng vẫn viết thư đều về Việt Nam cho ba, má, chị Trang, dượng Hai và dì; sang Hoa Kỳ cho cặp Trinh-Huân; tới Bremen cho chú Tuyến và em Vĩ; sang Rotterdam cho anh Trung và Họa; tới Leiden cho Mạnh. Phượng đã đọc được những dòng thư do chính tay ba má viết.
Chỉ thiếu có ông nhà văn! Ông trở lại vị trí sao Kim, sao Mộc lấp lánh trên cao, thường xuyên sống vậy trong quốc nội? Dù sao thì dưới chính thể độc tài “công an trị” khắc nghiệt như vậy, ông hẳn có thừa sáng suốt chỉ công khai hóa đời sống của mình với bằng hữu đến mức vừa đủ, không quá kín đáo khiến chúng sinh nghi, không quá lộ liễu khiến chúng phát ngại – Phượng hiểu! Với ông ta, rõ ràng sự gặp lại hay không, chẳng bao giờ thành vấn đề với Phượng. Những gì ông ta viết còn đó, rất dễ dàng tìm thấy nơi đây, luôn là tấm gương giúp Phượng hiểu chính mình với những ưu khuyết điểm cùng khát vọng. Nhưng với những người thân trong gia đình, nhiều khi Phượng thấy rã rời cả người, nước mắt ứa ra, khóc không thành tiếng khi tự đặt thầm câu hỏi: “Liệu còn có ngày gặp lại ba, má, chị Trang? Hay kể từ buổi sáng ra đi đó là vĩnh biệt?” Trong nỗi buồn não nề hoang tịch, Phượng ghi lại sáu câu thơ, nói là riêng tặng nhỏ bạn, thực ra Phượng thầm gửi tất cả những người thân yêu có dự phần tạo nên tâm hồn Phượng:
Biển trời vằng vặc gương nga
Long lanh soi tỏ lòng ta, lòng mình
Gương trong mình lại soi mình
Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du
Nẻo đời gió bụi kì khu
Biết ai còn mất, tình thu võ vàng.
Khi viết những dòng thơ đó cho nhỏ bạn, Phượng chỉ rơm rớm nước mắt, nhưng khi chuông điện thoại reo, cất ống nói lên nghe giọng anh Trung báo từ Rotterdam là anh đã được toại nguyện sửa soạn xuống tàu đi về Vịnh Thái Lan, thì Phượng khóc và nói lớn: “Em không muốn anh đi đâu cả! Ở đây em còn ai nữa nào?!” Và đặt ống nói xuống liền.
Hôm sau anh Trung phải đích thân rời Rotterdam tới Paris an ủi Phượng là anh xuống tàu đâu có phải là vĩnh biệt, anh về gần quê hương canh chừng cứu vớt đồng bào vượt biên mà vẫn gần Phượng, vì tàu anh cứ ba tháng lại về căn cứ một lần.
Anh Trung đi Phượng muốn tung hê hết sách vở không học hành gì nữa… chẳng học thì đừng…
5
Chìm ngập trong sầu não mờ mịt, Phượng thu nhận toàn những chuyện buồn để tự vùi dập tâm hồn hơn nữa. Phượng thấy những người Việt lưu vong như những kẻ lưu đày không hẹn ngày về, dấn thân vào một kiếp sống quá vất vả, hoàn toàn nô lệ thời gian, sáng đi làm từ sáu giờ đến năm giờ chiều mới về, xúm vào làm bếp, ăn sấp, ăn ngửa, dọn dẹp cửa nhà, chưa kịp chuyện trò, hỏi han con cái đã phải tính chuyện đi ngủ để ngày mai còn đủ sức làm việc. Nếp đạo đức dân tộc dần dần mất mát đi nhiều; vợ chồng dễ hết tình, cạn nghĩa ly dị nhau; con cái tới tuổi trưởng thành đi ở riêng biệt lập; trước sau rồi cũng bị đồng hóa vào nếp sống cá nhân Tây phương. Có một tín đồ tìm tới ông Cha nhà Dòng xin Cha làm lễ cầu Chúa cho sớm được chết, khỏi phải trông thấy những cảnh hỗn loạn vô luân. Từ Na Uy, qua Thụy Điển, đến Đan Mạch, thỉnh thoảng tại những hang cùng ngõ hẻm nào đó cũng gặp những người tóc đen là những người Tàu hay người Việt Nam bật gốc. Tại mấy làng đánh cá xa xôi nơi Bắc cực quanh năm trời mù mịt tối, cũng gặp những trẻ Việt không nói được tiếng Việt, và những người đồng hương ngao ngán thở dài hướng về tương lai, trở về cố hương. Nỗi lòng u uất của Phượng bắt ngay lấy những lời đay nghiến của một kiều bào khác thống trách một số người Việt tị nạn khi có đời sống tương đối thoải mái với đủ các loại máy giặt, máy hút bụi, máy rửa chén, xe hơi… bắt đầu ưa nói xấu, chỉ trích, chia rẽ nhau; hợm hĩnh, lố lăng với những kiến thức, những văn bằng… Thà cứ như một số khác sống im lặng, nhấm nháp đắng cay, đỡ gây ác cảm với những người bản xứ.
Tin tức đời sống bị chà đạp, nghiền nát nơi quê nhà cũng ùa tới – theo làn sóng những tị nạn mới – đầy đủ nào có kém gì hồi Phượng còn ở nhà. Đầy đủ và sống động vì do chính những nạn nhân tường thuật lại. Phượng như bị đẩy xuống đáy địa ngục vì thất vọng. Quê hương rã rời như chính Phượng rã rời lúc đó. Trí thức tàn lụi, kinh tế nghèo đói, kỹ thuật lạc hậu. Chỉ còn khẩu hiệu ca ngợi Đảng và Bác kẻ lớn trên tường và lũ công an chìm, công an nổi lúc nhúc kiểm soát đời sống. Công an gõ cửa nhà nào, bốn bề hàng xóm xanh mặt lắng nghe ngóng. Tai nạn bắt giữ, tra tấn, tù đày có thể sụp xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Phượng tưởng phát điên đến nơi.
Điện thọai. Họa nói là sáng hôm sau – thứ bảy – Họa sẽ có mặt ở Paris bằng chiếc Volkswagen của Họa mới mua. Họa sẽ đưa Phương đi chơi lung tung suốt hai ngày cuối tuần – thứ Bảy và Chủ nhật. Phượng hiểu anh Trung đã ủy cho Họa việc đó.
Sáng thứ Bảy, Phượng nhận được thư nhà. Ba viết cho Phượng mấy dòng:
“Từ ngày hai con đi xa, ba nhìn con Trang đi đâu cũng thấy rầu rĩ cả người. Nó đến đằng dượng Hai, thậm chí nó xách giỏ đi chợ, ba cũng thấy lòng se thắt, tưởng như nó sắp đi nốt mất rồi.”
Phượng gục mặt trên bàn học