Chương 13 Trang Đời Khép Mở
1
Đúng ba hôm sau nhỏ bạn đã tới mang theo bồ - Huân - để giới thiệu với cả nhà. Hôm đó may sao nhà hiện diện đủ mặt: ba, má, chị Trang, Phượng (anh Trung thì có mặt thênh thang tại một nước Tây Âu rồi).
Cả Huân lẫn Trinh đều đã lấy lại phong độ thảnh thơi cũ. Nhỏ bạn cười khanh khách, tiếng cười đáng yêu đặc biệt của nó:
- Thưa hai bác, cháu xin giới thiệu đây là… Ba thân mật bắt tay Huân cười dễ dãi:
- Té ra thế hả? Tốt! Má nói:
- Ngồi đây các cháu, để bác pha cà-phê loại
“xịn” chào mừng buổi ra mắt chính thức này.
Trinh nói với đôi mắt tựa như có sáng lên:
- Được vậy thì nhất rồi bác ơi, anh ấy là dân ghiền cà-phê đấy bác ạ.
Chị Trang giải thích với Huân:
- Dưới mắt gia đình tôi, hai cô cậu coi như thành đôi rồi, kể từ nay tôi kiểm soát, thấy bên nào bắt nạt bên nào là ăn đòn đó. Phải tương kính như tân!
Chỉ có Phượng là không nói thêm gì, chỉ tưng bừng giúp má pha cà-phê.
Trong mùi cà-phê thơm lừng, Huân cung kính hỏi ba má về cuộc sống của gia đình. Má cho biết cách kiếm sống là nhận đồ đan móc, hay buôn đi bán lại vài thứ, đặc biệt là thuốc Tây, và khi phải tiêu pha món gì lớn thì… bán đi một chỉ vàng.
Giữa câu chuyện, một lần nhỏ bạn nói khẽ vừa đủ cho Phượng nghe:
- Sau đây chúng mình cùng đến thăm… ông nhà văn.
Tới thăm ông ta buổi sáng – Phượng nghĩ thầm – căn nhà lại chật ních khách!
Vậy mà không. Khi ba người tới nơi, trong phòng chỉ có ông anh ông nhà văn với cô con gái lớn và ông nhà văn. Bầu không khí hoàn toàn gia đình. Câu chuyện cũng giữ được vẻ thân mật như vậy. Ông anh ông nhà văn bảo cô con gái lớn: răng thuốc Mỹ, thuốc Pháp, thuốc Đức, mặc chúng bay, nhưng trước khi đi ngủ hãy ngậm nước muối cho tao năm phút. Tao sáu mươi tuổi đầu đây này, răng tao còn tốt y nguyên, chúng bay có thấy không? Mày phải luôn luôn nhắc thằng anh mày, lũ em mày như thế.
Ông lườm cô con gái để lời nói thấm thêm một chút nữa rồi mới tiếp:
- Còn về buổi sáng khi vừa thức giấc… Cô con gái ngắt lời bố:
- Con biết rồi. Buổi sáng khi vừa thức giấc là nhỏ mắt bằng nước muối.
Phượng thấy ông nhà văn tủm tỉm cười, chắc là câu chuyện tương tự xả ra nhiều lần rồi, trong khi ông anh dằn giọng:
- Chúng bay có thấy là mắt tao…
- Mắt bố vẫn đeo kính cận. – Cô con gái cố tình trêu bố.
- Ờ đã đành tao đeo kính cận thị nhưng mắt tao ít, rất ít đau mắt. Chúng bay là hay cầu kỳ. Và đừng quên tao mắng chúng bay cái gì luôn luôn y cứ vào một cái gì sâu xa hơn thế. Biết sống đơn giản như vậy, dần dà chúng bay hiểu rằng tài năng, trí thức không bằng hồn nhiên trung hậu, nhan sắc không bằng hiền thục, tiền của không bằng thanh cao.
Em gái 12, 13 tuổi và chú nhỏ 8, 9 tuổi – mà
Phượng đã gặp buổi đầu – khi nghe tiếng saxophone cũng vừa từ trên gác xuống. Em gái – tay ôm con mèo xinh, chú nhỏ đôi mắt sáng thông minh. Ông bố lườm yêu chúng một cái rồi day mặt lại bộ ba Phượng, Trinh, Huân:
- Chú dư biết ai mà chẳng có khả năng ước mơ, duy có điều ít ai chịu hiểu cho rằng nếp sống có bình dị, giấc mơ mới trong sáng. Thôi cả nhà ở nhà nhé, tôi phải đi thanh toán vài việc cho xong.
Ông nhà văn hỏi đùa anh:
- Hẳn toàn là những việc bình dị và trong sáng, phải không anh?
Ông anh ông nhà văn đã bước vội tới cửa, ngoái lại đáp:
- Điều cần là: biết sẵn sàng chấp nhận và cũng biết sẵn sàng khước từ. Chân bước thênh thang, tâm hồn thênh thang!
Ông khép cửa lại, tưởng là ông đi thẳng nhưng ông đã vội mở cửa nói thêm cho hết ý:
- Nếu chưa biết được rằng đau khổ là cửa vào hạnh phúc thì chung thân bất mãn. Ngược lại khi đã thể nghiệm được quấy phá chính là tác thành thì đạt đạo rồi, mình sẽ như phao thức tỉnh giữa khoảng trời lồng lộng trăng sao. Thời gian, không gian là một. Tâm hồn thênh thang, chân bước thênh thang. Bảo là nhất nguyên cũng được, thật ra là Siêu! Phi nhất phi nhị!
Cánh cửa khép mạnh. Lần này ông ra đi thật. Ông nhà văn nhìn theo hút anh rồi nói vừa đủ cho bộ ba Phượng, Huân, Trinh nghe:
- Ông anh tôi nhiều khi phải là thi sĩ kiểu cụ Tagore mới phải, nhưng mà sau khi nói liên chi một hồi ông lại chủ trương vô ngôn ngay.
Em nhỏ 8, 9 tuổi hỏi:
- Bố cháu vừa nói gì thế hở chú?
Ông nhà văn chưa tìm được câu trả lời thằng cháu, thì cô chị lớn đã nói:
- Hình như bố cháu ngày xưa cũng có làm thơ, phải không chú?
- Ờ, hình như từ thuở mẹ cháu còn Đông đào Tây liễu.
Em gái nhỏ ngừng vuốt ve con mèo trên tay, hỏi: nghe:
- Đông đào Tây liễu là làm sao hở chú?
Cô chị lớn ghé xuống giải thích cho em
- Là thuở mẹ chưa lấy bố.
Những người lớn nhìn nhau tủm tỉm cười, ông nhà văn thật sự hướng dẫn câu chuyện vui:
- Ờ chú nhớ hình như dạo đó bố cháu có làm tặng mẹ cháu bài thơ tứ tuyệt thì phải.
Cô cháu lớn vội hỏi:
- Chú có nhớ không chú?
- Không, nhưng đại loại cũng có gió, có trăng, hình như cũng có cả lất phất mưa nữa thì phải.
Đứa cháu nhỏ phản đối:
- Có trăng sao lại có mưa được hở chú?
Cô chị gạt đi:
- Thiếu gì khi có trăng mà vẫn mưa lất phất. Thế bố cháu làm xong bài thơ đó có đưa cho mẹ cháu, phải không chú?
- Dĩ nhiên!
- Mẹ cháu có khen không chú?
Cả đám người lớn cùng cười thành tiếng, ông nhà văn đáp:
- Dĩ nhiên, nếu không làm sao có tụi bay. Thằng cháu nhỏ:
- Chú ơi, cháu thấy mẹ cháu thường cứ gọi bố cháu là ông gàn.
- Ờ thì cũng có thể là sau khi mẹ cháu lấy bố cháu rồi mới nhận ra điều đó. Nhưng mà… lỡ rồi.
Đứa cháu gái lớn:
- Mẹ cháu lỡ rồi nên bèn đẻ một loại sáu chúng cháu để tự an ủi.
Cả phòng khách vang lên tiếng cười lớn. Ông nhà văn gật đầu:
- Đúng rồi!
Em gái nhỏ vừa vuốt ve vừa nói chuyện với mèo:
- Mày giàu hay nghèo?
- Nghèèèooo... – Con mèo tựa như đáp.
- Tên mày là gì nói tao nghe thử?
- Meeeooo...
Ông nhà văn hỏi cháu:
- Nó đã biết bắt chuột chưa? Em trai nhỏ tố cáo liền:
- Nó toàn bắt gián ăn thôi, chú ạ. Cô chị giải thích thêm:
- Nó bắt gián, nó vồ mồi trông điệu nghệ lắm, có khi nó nhảy quẫng biểu diễn, chỉ một loáng là từ đầu phòng đã thấy ở cuối phòng rồi, nhưng khi ngồi trên ghế, chuột cống thoắt đi, thoắt lại dưới chân, nó đưa mắt nhìn một cách âu yếm.
Cô em bào chữa cho mèo của mình:
- Nó nhỏ mà chị, chuột cống lớn quá mà chị.
- Chú có biết không – vẫn lời cô chị - buổi trưa cũng như buổi tối, cơm mèo để sểnh lúc vắng bóng người là chuột ra xực hết.
Chỗ này cô em khẽ đập lên đầu con mèo:
- Mày ngu lắm, nghe em, để chuột nó ăn hết, rồi đói, rồi cứ quẩn vào chân tao đòi ăn. Mày ngu lắm nghe em.
Thằng em phát biểu:
- Chúng cháu là Nam Hải dị nhân thì nuôi mèo cũng phải thế chứ - mẹ cháu bảo vậy mà.
Ông nhà văn cười rộ với mọi người:
- Mày có hiểu Nam Hải dị nhân là gì không?
- Thì cháu hỏi mẹ cháu chiều hôm qua đấy, mẹ cháu bảo là người kỳ dị.
- Ờ mẹ nói như vậy cho nhã đấy, thực ra phải bảo chúng bay là lũ khùng!
Cô cháu nhỏ ngừng vuốt ve mèo, đôi mắt mở lớn hỏi:
- Thế sao chú không lấy vợ hở chú?
Cả nhà lại cười rộ, tiếng cười ông nhà văn lớn hơn cả. Hai đứa cháu nhỏ dạo này hay thực tình hỏi ông câu đó, ông bèn đáp lời cháu:
- Nhà đã có một lũ khùng chúng bay rồi chưa đủ hay sao?
Cô cháu lớn nói ngay:
- Chú cứ lấy vợ đi, nhà càng nhiều đứa khùng chơi với nhau càng vui chứ.
Ông nhà văn xua tay nói lớn:
- Thôi giải tán! Chúng bay lên gác, để người lớn nói chuyện.
Ông hỏi cô cháu lớn:
- Nhà còn loại trà chanh không?
- Dạ còn.
- Pha cho chú một bình đi, cho đường đầm đậm một chút và cho thêm vài lát chanh tươi vào. Hai đứa nhóc này, a lê hấp lên gác!
Biết là không được ở phòng khách với chú nữa, thằng nhỏ cương quyết trêu chú:
- Vợ chú ba trong giống đầm Tây…
Cô chị cười khanh khách, trước khi đi pha bình trà chanh, cô khuyến khích hai em:
Ba” đi.
- Phải đó tụi bay đọc hết bài ca dao “Vợ Chú
Ông nhà văn xua hai đứa nhỏ:
- Muốn nói gì thì nói, hãy ra ngoài đã!
Hai đứa nhỏ bước ra khỏi cửa bên hông, cùng bước lên một bậc thang lầu rồi cùng quay lại, dáng điệu cương quyết. Ông nhà văn biết lũ cháu “Nam Hải dị nhân” lên cơn trêu mình bèn tiến tới khoảng kệ sách gần đấy vờ chăm chú kiếm sách, trong khi trên bậc thang lầu thằng em gân cổ đọc một câu, con chị lại vuốt ve mèo đọc tiếp một câu cho đến hết bài… ca dao chắc là do cô chị chúng sáng tác:
Vợ chú ba trông giống đầm Tây
Vợ chú ba cổ cao ba ngấn, tóc mây rậm rì
Vợ chú ba mặt vuông, môi đỏ, lông mày tô chì…
Vợ chú ba đẹp thật đẹp, nói cái gì cũng hay
Vợ chú ba khoái ăn ớt cay
Vợ chú ba làm lụng vất vả tối ngày không than.
Ông nhà văn mỉm cười nhưng vời lấy xuống quyển sách trên kệ mở ra chăm chú đọc. Chú nhỏ lắc đầu thất vọng nhìn chị, rồi cả hai lên gác. Phượng nhìn theo nói:
- Chúng thật dễ thương!
- Và cũng thiệt khùng nữa, cô ạ. - Ông nhà văn thêm.
2
Phượng nhớ sau khi hai đứa nhỏ đã lên gác, kế đó bình trà chanh của cô cháu lớn mang xuống, câu chuyện người lớn bắt đầu, nhưng tâm trí Phượng hoàn toàn bị ám ảnh bởi nếp sống thân mật dí dỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên vừa chứng kiến. Bài học thứ ba Phượng rút được chính là bài học hồn nhiên đáng yêu này. Đúng như lời ông nhà văn khi cất chén trà chanh và nói:
- Cái sinh thú vô giá của con người là được sống bình thường, nếu không phải là tầm thường. Sống bình thường, thể nhập vào những sự kiện bình thường như chim kêu, hoa nở, lá rụng, sương rơi. Thi vị và cũng đạo vị biết chừng nào!
Nhỏ bạn phụ họa lời tương đắc:
- Thiệt anh ạ, quả tình cuộc sống bình dị giúp mình thể nhập làm một với cái gì thanh tịnh muôn đời, bình lặng muôn đời. Vì có mây nổi và thấy trời xanh, thi vị đưa tới đạo vị.
Và nhỏ đọc tám câu thơ của nhà thơ nữ, Hoàng Hương Trang:
Ôi, mây nổi, mây nổi Che sao kín bầu trời Ôi mây nổi mây nổi Đổi sao được sắc trời
Lòng người như mây nổi Hồn ta như trời xanh Mây sẽ theo gió thổi
Trời vẫn sắc thiên thanh.
Phượng còn nhớ giọng nhỏ đọc hôm đó êm như một bài ca ngẫu hứng. Bài học thứ ba là bài học cuối cùng chăng – nếu như lần này Phượng đi thoát – nghe lời nhỏ bạn ngâm hôm đó cũng tạm gọi là được, nghe lời ngâm cuối cùng của nhỏ trên mảnh đất quê hương này. Vì sau đó ít bữa, Trinh, Huân đã ra đi lần hai và hình như thành công thì phải. Mới có mật mã gửi về chứng tỏ họ đã ra thoát cửa biển, còn đợi điện tín xác nhận họ đã tới đảo nào.
3
Em gái nhỏ mang bữa cơm chiều lên căn gác xép cho Phượng. Bữa cơm chiều cuối cùng trên mảnh đất quê hương? “Biết đâu rồi đây tao sẽ theo gương mi vượt biên một chuyến xem sao!” Chỉ là câu nói chơi ngày đó, chưa hề có chút âm hưởng thiết tha nào trong tâm tưởng Phượng. Rồi Huân, Trinh đã ra đi lần hai thoát vùng cửa biển. Rồi công an hoặc công an mặc áo dân sự, tới bắt ba. Cả nhà rụng rời. Dì cầu cứu sự tận tình của chú Vĩnh, và chị Trang được gặp ba tại nhà giam Công an Thành phố, đường Trần Hưng Đạo. Ba kịp gửi lời trấn an cả nhà. Nguyên do bác Lam cũng đã bị bắt từ quê nhà, vùng cửa biển Cần Giờ đưa về Công an Thành phố. Bác Lam là đảng viên kỳ cựu, bỏ Đảng thì họ phải nghi. Có người cũ chỉ điểm nên sở Công an biết ba và bác là đôi bạn kỳ cựu, họ bắt luôn ba là vì vậy. Nhưng cả hai đã già, quá già, và đã từ lâu, rất lâu rồi, rửa tay gác kiếm, nên chắc chắn chỉ một ngày gần đây sẽ được thả cả. Và bà chủ nhà bây giờ, người bạn hàng cũ thân tình với má xưa, xuất hiện vào đúng thời gian này. Hoàn cảnh ly kỳ của bà, thiện chí lạ lùng của bà lăn xả vào tổ chức để giúp đỡ những người vượt biên… tất cả những thứ đó đã thúc đẩy Phượng yên tâm chấp nhận “thử thời vận” một chuyến, may ra được gặp lại anh Trung và Họa ở Hòa Lan, gặp lại nhỏ bạn với Huân ở đâu nhỉ, có thể là ở Úc, ở Canada, ở Mỹ hay ở một nước Tây Âu không chừng.
Phượng vừa ăn xong bữa cơm chiều – bữa cơm chiều cuối cùng trên mảnh đất quê hương – thì có tiếng chân lên thang gác, tiếng chân bà chủ nhà, không thể lẫn được.
- Bác ạ. - Phượng lễ phép chào – Cháu vừa ăn cơm xong.
Bà chủ nhà âu yếm vuốt tóc Phượng như thể má vuốt tóc Phượng, bà nói:
- Đêm nay đi đó cháu!
- Khoảng mấy giờ thưa bác?
- Chỉ khoảng mười giờ là xuống bãi đó cháu.
- Bây giờ sáu rưỡi – Phượng nhìn đồng hồ nói.
- Vậy coi như chỉ còn ba tiếng rưỡi nữa.
Người ta cho hay từ chiều hôm qua đến chiều hôm nay rong dạt vào bờ nhiều lắm. Kinh nghiệm thuyền chài thì khi rong dạt vào như vậy, chỉ mười ngày sau là biển lặng như tờ mặc dầu giờ đây gió vẫn cấp ba. Dù sao thì bác cũng tin chắc rằng chuyến này hết trở ngại rồi. Cháu cứ yên tâm chuẩn bị đến giờ là xuống bãi nghe! Thôi bác còn đi báo tin cho vài toán khác nữa.
Bà lại vuốt tóc Phượng âu yếm từ biệt. Phượng nắm lấy cổ tay bà, nhìn bà trìu mến như nhìn má, như nhìn ba, như nhìn chị Trang:
- Cám ơn bác. Cháu cảm thấy yên tâm lắm, chắc chuyến đi thuận buồm xuôi gió.
Và bà xuống. Tiếng bước chân vội vã xa dần. Ba tiếng rưỡi cuối cùng còn lại trên mảnh đất quê hương – Phượng tự nhủ thầm – Phượng sẽ ôn lại hoàn cảnh ly kỳ của bà, thiện chí lạ lùng của bà lăn xả vào tổ chức để giúp đỡ những người vượt biên, và chính quyết định thử thời vận của Phượng nữa!
Vừa xong một chuyến vượt biên bà tổ chức thành công, bà tạm rời căn nhà thuộc vùng phụ cận Vũng Tàu – căn nhà Phượng đương ở - về thăm ông ở Sài Gòn và thắp nhang lên bàn thờ Phật. Cũng do vô tình thôi bà gặp lại má ở chợ Vườn Chuối, nhận lời mời của má về chơi và ăn cơm chiều luôn.
Gia đình bà thuộc loại Bắc kỳ cũ, không phải loại B54 (Bắc kỳ di cư năm 1954). Vì vậy khoảng thời gian ba năm 1959-1962, ba và bác Phác lênh đênh buôn bán bằng ghe từ Tân Châu, Châu Đốc, đến Sa Đéc, má đã nhiều lần giúp vốn bà buôn bán. Thuở đó gia đình bà thường xuyên bị lúng túng về tài chính, chỉ vì ông trót nghiện ngập mất rồi. Rồi suốt từ 1962 đến 1975, hễ khi nào thiếu hụt, bà lại tới cầu cứu má. Bẵng đi từ sau biến cố tháng Tư
1975, bà và má không gặp nhau. Dân chúng dưới quyền xã hội chủ nghĩa mạnh ai nấy lo – má đinh ninh là vậy, ai dè sự thể khác hẳn ngoài sức tưởng tượng, nghịch lý mà có thật. Bà thuật lại suốt bữa ăn như kể một chuyện cổ tích, cả ba, má, chị Trang và Phượng cùng nghe.
Ông bị nghiện từ năm 1959, bà lúng túng về tài chánh kể từ đấy. Ông người nho nhã có học, không viết lách nhưng quen nhiều giới văn nghệ làm báo. Ông nói chuyện rất có duyên, tính tình hào phóng, thoạt chỉ tiếp rượu các bằng hữu văn nghệ thôi, rồi thuận đà vui anh em, la cà bàn đèn có khoảng bốn tháng mà thành nghiện. Bà chết đắng, chết cay nhưng chẳng biết làm sao, chỉ đành cố tảo tần giật gấu vá vai. Kịp khi miền Bắc chiếm trọn miền Nam, thống nhất thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì cả ông lẫn bà coi như là ngày tàn của đời mình. Ông bà sinh con một bề, có độc một cô gái lấy một sĩ quan lái trực thăng trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cặp vợ chồng trẻ đã sớm có tới bốn con – ba trai một gái – nên chẳng còn khả năng giúp đỡ ông bà gì được. Tới ngày 28-
4-1975, đất nước đương tơi bời hoa lá, ông còn kịp nhận lá thư của một người bạn trong giới văn nghệ đã di tản sang Mỹ theo đài tiếng nói Mẹ Việt Nam trước đó gần một tháng; mấy dòng cuối trang thư màu xanh là:
“Tôi luôn luôn nhớ tới anh và các bạn khác. Tâm sự tôi gói gọn trong hai câu thơ này:
Đối ẩm đèn chong không có bạn
Tình nồng ấp ủ lạnh chăn đơn
Trên đời này còn nỗi buồn nào bằng uống rượu thiếu bạn tri âm?!”
Nhưng cũng là ngày ông từ chối lên trực thăng để ra Đệ thất Hạm đội ngoài khơi.
Nguyên do thằng con rể ông – đại úy Không quân – lái trực thăng đưa cả gia đình ông ra Đệ thất Hạm đội. Tại đây ông đại tá nhờ bạn Mỹ kiểm soát lại máy trực thăng, đổ đầy xăng rồi tặng chàng đại úy chiếc trực thăng đó về đón vợ con. Chàng đã hoàn tất chuyến bay thứ hai đem tới Đệ thất Hạm đội vợ và bốn con an toàn. Tới đây người vợ khóc xin chồng hãy bay một chuyến thứ ba nữa về đón cha mẹ mình đi. Cha mẹ già yếu nghèo túng, trước đây đã không giúp được gì, nay tới cơn nguy biến quốc phá gia vong, vợ chồng con cái lỉnh đi một mình còn trời đất nào nữa. Chàng đại úy bèn cấp tốc lái trực thăng về Sài Gòn lần chót, vẫn hạ xuống terrasse một cao ốc khu Bàn Cờ. Nhưng lần này là lần thứ ba rồi, dân chúng biết đó là chiếc trực thăng của viên sĩ quan Không quân nào đó về đón gia đình. Trong khi chàng đại úy rời trực thăng về đón cha mẹ vợ, thì cả đám thanh niên quanh vùng bảo nhau lên ngồi chật ních trong trực thăng. Chàng đại úy thực tình thưa với bố mẹ vợ khúc nôi và xin bố mẹ đi gấp. Gia đình đông đủ ông bà, cha mẹ, con cháu dĩ nhiên sẽ định cư ở Mỹ. Nhưng ông nhất định không đi vì hai cớ: Thứ nhất, ông biết mình nghiện nặng, suốt thời gian tá túc ở Đệ thất Hạn đội đào đâu ra thuốc, ông không muốn bêu riếu con về nhược điểm đó của mình dưới mắt người Mỹ trên hạm đội; thứ hai, ông sợ gió, sợ đi trực thăng nguy hiểm, có thể rớt giữa biển. Ông cương quyết không đi, do đó bà cũng không đi. Chàng đại úy Không quân đành trở lại terrasse cao ốc khu Bàn Cờ thì thấy trực thăng đã chật ních. Khoảng ba chục thanh niên đồng bào trẻ trung, nửa uy hiếp, nửa ăn vạ đòi đi bằng được. Hiện tượng này mới có khoảng hai tháng trước đây mà nay đã rất phổ biến tại sân bay Ban Mê Thuột, Kontum, Đà Nẵng. Anh giải thích, anh xin mọi người bảo nhau xuống bớt một nửa thì phi cơ mới có thể cất cánh và bay tới nơi được, nhưng nhất định không ai chịu nghe. Anh kêu gào lời giải thích thêm một lần nữa, dằn dỗi ra mặt thì thấy chừng năm sáu người chịu xuống. Chàng đại úy đành nhắm mắt cất cánh liều. Trực thăng lảo đảo ngay từ phút đầu. Một thoáng suy tư giữa tiếng gầm rú của máy, chàng đại úy không hối là mình hay một số đồng bào “không tặc” sẽ chết hay bị thương, mà chỉ hối là trực thăng rớt bất tử thế này tránh sao làm chết một số người vô tội dưới phố. Tựa như tài năng kinh nghiệm của cả một thời binh nghiệp dồn lại lóe sáng trong mấy giây, tập trung nơi bàn tay điều khiển lái, và chiếc trực thăng đã rớt xuống ngay đường kẻ chéo vào đúng khoảng bùng binh Cộng Hòa, cuối đường Lý Thái Tổ, đầu đường Nguyễn Hoàng. Chiếc trực thăng nằm đó, trên mặt đường nhựa, không đến nỗi tan nát bẹp dúm, mà chỉ như con quạ ô đuối sức hạ mình hơi gục cổ. Không một ai chết hoặc bị thương, không một bộ hành nào trên con lộ bị tai họa oan uổng. “Một kỳ công của ta! Một kỳ công của ta!” Chàng đại úy tự tuyên dương, lương tâm nhẹ nhõm, không còn gì để oán hận, tiếc nuối nữa. Ngày 15-7 năm đó, chàng đành đi trình diện rồi bị đưa đi Long Giao, rồi ra Bắc – cũng lên
Lào Cai về Yên Bái như các bạn đồng ngũ. Tại Yên Bái, vào một dịp đi vô rừng đốn cây làm nhà, chàng đã qua một vùng an trí những người vượt biên vô Nam thất bại. Họ đã thất bại tại cửa biển Đồ Sơn, Hải Phòng, tại Ba Làng, Thanh Hóa, tại gần Bến Hải nữa. Bại lộ bị bắt, bị đưa đi các trại khuất nẻo nơi lam sơn chướng khí như vậy, nhiều người trên dưới hai mươi năm trời không hề được viết một dòng thư liên lạc với gia đình. Khi chàng đại úy phi công gặp một người trong bọn họ, lời họ nói nhiều vẻ bi hài khó tả: “Tưởng các anh ra đây giải phóng chúng tôi chớ, ai dè cũng tù như chúng tôi!” Trại cuối cùng, chàng đại úy được chuyển tới thuộc Thanh Hóa, sau đó được thả sau hơn năm năm lao động cải tạo. Chàng về với gia đình tháng trước, tháng sau đã vượt biên và thành công, do chính bà mẹ vợ điều khiển sắp đặt – như bà đã sắp đặt cho Phượng. Chàng được tàu Anh vớt đưa lên trại tị nạn Singapore. Ba tháng sau chàng đã đặt chân lên đất Mỹ tại phi trường San Francisco, đủ mặt vợ con ra đón. Thằng con trai đầu lòng của chàng thuở đưa nó ra Đệ thất Hạm đội bằng trực thăng chưa học xong trung học; ngày tái ngộ, nó đã tốt nghiệp kỹ sư một ngành điện tử rồi. Cho đến bây giờ, chàng vẫn đinh ninh sở dĩ được hưởng diễm phúc đó, chính vì chàng đã thần xuất quỷ nhập điều khiển chiếc trực thăng bất hạnh rớt xuống như con quạ ô đuối sức thôi, không một ai bị thương, không một ai thiệt mạng. Về phần cả hai ông bà bố mẹ vợ chàng, kể từ ngày gặp chàng trở lại tới ngày tổ chức cho chàng ra đi thành công, luôn luôn ông bà tỏ lòng ân hận vì mình mà chàng lỡ chuyến đi với vợ con, còn chịu cảnh tù đày trên năm năm trường.
4
Ông từ chối không theo chàng rể lên trực thăng vì không muốn đem hoàn cảnh nghiện ngập của mình bêu riếu con cháu dưới mắt ngoại nhân, và ông cũng chấp nhận thực trạng bi đát mà ông phải đương đầu trong những ngày cực kỳ khó khăn sắp tới dưới chính quyền Cộng sản. Người thân đầu tiên từ miền Bắc vô Nam gặp ông là thằng cháu gọi ông bằng chú ruột. Hắn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được ông nuôi cho ăn học như con. Rồi hắn gia nhập Đảng Cộng sản, thoát ly gia đình, đi công tác quần chúng tại các tỉnh trung du: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ. Hiệp định Genève ký kết, ông bà vô Nam với cô con gái duy nhất. Hai mươi mốt năm trôi qua, 1975, hắn từ miền Bắc chiến thắng vô tiếp thu miền Nam chiến bại, gặp lại chú thím. Hắn đương là Bí thư Tỉnh ủy. Hắn tận tình khuyên chú thím hãy mua gấp một khoảng đất trồng trọt ngoài Sài Gòn – theo đúng chính sách giải tỏa đô thành của Đảng. Còn chút tiền vốn, bà đã mua được khoảng đất ngoại vi Vũng Tàu này với một số người đồng cảnh, và xúm nhau vào đồng lao cộng tác cuốc cuốc xới xới tăng gia khoai sắn liền. Một năm trôi qua, bà tiếp tục tăng gia èo uột tại Vũng Tàu, ông tiếp tục kiếm thuốc qua ngày bằng cách tiêm cho khách nghiện tới hút lén tại căn gác cũ trong hẻm Bàn Cờ. Người cháu Bí thư Tỉnh ủy vô Nam công tác lần nữa. Anh giặp một đồng chí nhà báo Ba Lan trước cửa khách sạn Cửu Long, đồng chí này đã nửa đùa nửa thật nói: “Chính tại thủ đô Varsovie chúng tôi cũng phải năm năm nữa mới theo kịp được mức sống Sài Gòn bây giờ, và cũng chỉ năm năm nữa mức sống Sài Gòn sẽ xuống bằng mức sống Hà Nội!” Là Bí thư Tỉnh ủy, anh biết lời nói đó không ngoa. Thăm chú thím lần này, anh sẽ mang đến cho chú tấm giấy chứng nhận mắc bệnh già suy nhược, chú được phép hút thuốc phiện như một thứ thuốc trợ lực, ngăn bệnh bất khả kháng.
Anh đích thân nói với Công an sở, Công an quận và Công an khu vực. Anh nói thật với chú, nghe câu này của chàng nhà báo Ba Lan, anh chợt nhận thấy phải giúp chú, vì quả thực đời sống miền Nam rồi đây sẽ ngày một khó khăn hơn nhiều. Anh nào ngờ tờ giấy chứng nhận mắc bệnh già suy nhược được phép hút thuốc phiện đã thay đổi hẳn cục diện cuộc đời ông chú cả về tinh thần lẫn vật chất. Khách hút của ông không còn phải lo sợ, lén lút, chỉ việc nhẹ nhàng tới lui êm ả theo một thời khóa biểu nhất định, hợp lý, tránh tụ tập quá đông một lúc. Một tháng qua, mức sống thoải mái hẳn, vì tiền thu hoạch gấp đôi, rồi gấp ba gấp bốn. Chưa hết. Đám cán bộ bạn thằng cháu ông mỗi lần công tác vô Nam, có người mang thuốc phiện vô Nam nhờ ông tiêu thụ giúp kiếm lời. Ba tháng sau, ông đã rất thành thạo trong công việc chọn loại thuốc bảy thành tốt nhất để từ một ký thuốc mộc, nấu được 700 gam thuốc tinh. Bà ở trại tăng gia Vũng Tàu về, ông nói rõ cho bà hay giá thành một đồng cân ông nấu là 175 đồng, nếu bán ngay cũng thu được 320 đồng, lãi 145 đồng. Phần ông hút rồi bán sái nhất để bạn xì-ke ma túy nghèo nấu làm thuốc chích cũng còn lãi 80 đồng. Phần ông mua đi bán lại thuốc mộc, loại xấu cũng bộn lãi. Tính đổ đồng trung bình mỗi tháng, ông chỉ an nhàn nằm đấy mà cũng thu hoạch về khoảng 60.000 đồng. Với bà, với người thật thân, thật quý, ông thường thốt lời tâm sự không một chút tự kiêu: “Thực là lạ, tại một nước xã hội chủ nghĩa đề cao lao động, tôi không lao động gì, càng hút càng kiếm ra tiền!”
Đó là biến chuyển về vật chất, còn biến chuyển về tinh thần: Mặc dầu trước đây ông quen toàn những người thuộc giới văn nghệ, nhưng ông không hề làm một câu thơ, viết một dòng văn. Có lần ông than phiền với một nhà thơ như vậy, thì nhà thơ đó nói ngay “Anh ơi anh cần gì phải viết văn, làm thơ. Nếp sống của anh, cách cư xử của anh đủ là văn thơ rồi.”
Mà quả vậy, cách cư xử với bằng hữu của ông trước “thời giải phóng” quả có văn phong trang nhã, tế nhị. Kể cả khoảng thời gian sa sút nhất sau ngày toàn thể miền Nam thất thủ, ông cũng chỉ âm thầm chịu đựng và tìm cách đối phó với hoàn cảnh kín đáo, lặng lẽ. Kể từ ngày ông thoát ngõ bí vật chất nhờ tờ giấy chứng bệnh, ông ham đọc sách, và ông ở một trạng thái tâm thức, trí tuệ lạ lùng, đọc bất kỳ loại sách nào ông cũng rút ra được những bài học siêu hình mà vẫn thực tế. Và những suy tư đó ông không để cho mai một đi trong nội tâm, mà ông phổ biến bằng cách trao đổi ý kiến với những thân hữu ông gặp hàng ngày quanh khay đèn, hoặc bằng cách viết thư cho bằng hữu và cô con gái ở hải ngoại. Theo ông, bất kỳ trang sách nào cũng có thể đánh thức mình tìm ra được một ẩn ý thiêng liêng nằm sẵn nơi chính mình. Ông thoạt rùng mình, chợt thấy dư giả thảnh thơi một cách phi lý, trong khi chàng trai hai mươi tuổi hàng xóm đi làm mửa mật cho một hãng thầu xây cất công tư hợp doanh để lĩnh mười lăm đồng bạc công hàng ngày, có hôm mang lon cơm đi ăn trưa để khỏi phải ăn bát phở mười đồng mà còn đói meo. Ông rùng mình nghĩ đến một cô gái hàng xóm đi dạy học ở Bảo Lộc, lương tháng năm mươi mốt đồng, mỗi năm chỉ vào dịp Tết và dịp hè mới dám về thăm cha mẹ. Ấy là tiền xe đi đi về về bố mẹ đã phải ứng cho. Ông nghĩ ở một chính thể chủ trương đầy đọa dân trong nghèo hèn ngu dốt mà ông hưởng phúc lộc trái khoáy như vậy chính là trời Phật thử lòng ông một lần tối hậu. Đúng vào dịp này, ông đọc trang sách kể giữa đời Đường, tổ Hoàng Bá dạy rằng chỉ cần một hạnh bố thí là đủ tất cả. Bố thí là cho món này món kia, ng- hĩa là xả, là buông bỏ. Ngài nói trong hàng đệ tử Mã Tổ, tám mươi vị thiện trí thức chỉ có Hòa thượng Quy Tông là ỉa chảy đầy đất đáng quý hơn cả. Ý ngài muốn nói, chỉ có Hòa thượng Quy Tông là xả bỏ tất cả, bố thí tất cả. Ông đã suy nghĩ nhiều lần để hiểu câu: “Chính vì xả bỏ tất cả mà được tất cả.” Lần đó ông bàn với bà - mới ở trại Vũng Tàu về - tìm cách bố thí, xả bỏ những gì thu được. Ở Vũng Tàu, bà đã nghe nói nhiều về những mánh khóe lừa lọc để cướp không tiền của, vàng bạc của những tổ chức “vượt biên ma”. Ông bà bèn hoạch định chương trình kết hợp được với những người thật sự có thẩm quyền đóng ghe, mua bãi, rồi cũng chính ông bà đứng ra tuyển lựa những người tìm đường vượt biên. Mỗi người ra đi như Phượng chỉ phải nộp số tiền gọi là phần nào đóng góp vào việc đóng ghe, mua bãi, dữ trữ dầu nhớt, lương thực. Ông bà hoàn toàn điều khiển một chương trình cứu nhân độ thế như chương trình Terre des Hommes vậy. Đã ngót năm năm qua, trên bốn chục chuyến tổ chức của ông bà đều ra khỏi cửa biển bình an, không đổ bể. Dĩ nhiên việc ra khơi, tới hải phận quốc tế, gặp sóng gió bất ngờ, gặp hải tặc Thái Lan… là những chuyện ngoài phúc đức của ông bà.
Bài học rực rỡ này, theo như Phượng nhận xét là suốt năm năm qua, trại Vũng Tàu của bà vẫn là trại tăng gia sản xuất gương mẫu, cần cù. Những người tới tạm trú chờ ngày ra bãi đều là những người bà con như hệt người nhà. Sau mỗi chuyến đi không để lại dấu vết gì, và chuyến kế tiếp lại âm thầm được tổ chức theo đúng tinh thần vô cầu, vô kỷ, vô công, vô danh mà ông học được qua các trang sách do chính sự thức tỉnh tâm linh của ông khám phá ra. Chuyến ông bà tổ chức cho chàng rể ra đi, điều duy nhất ông bà dặn là: Khi vợ chồng con đã đoàn tụ trên đất Mỹ rồi, đừng thắc mắc nghĩ đến chuyện bão lãnh, vì cho đến giờ phút đó, chắc chắn ông bà không thể sống ở đâu sung sướng hơn ở Việt Nam. Cũng có thể rồi sau đây tình hình đổi thay, ông bà tính chuyện ra đi, nhưng đến lúc đó hãy hay, ông bà sẽ đánh điện cho biết.
Như khép lại một trang vở! Và một trang mới sắp mở ra…
Phượng chợp ngủ lúc nào không biết, nhưng vẫn ý thức là mình chỉ còn ít phút phù du trên mảnh đất quê hương. Kể cả trong giấc ngủ thiếp đó, Phượng vẫn không quên ý nghĩ đã từ lâu bàng bạc trong tâm trí: Nếp sống cao sang, địa vị cao sang, lời nói cao sang, tất cả chỉ là những vàng son giả trá, những danh vọng phù du. Phượng mang ơn ông nhà văn, chính ông đã dạy Phượng cái nhìn trong suốt đó. Kể cả trong giấc ngủ thiếp đi, Phượng vẫn không quên ý nghĩ từ lâu bàng bạc: Ông ta giờ đây là sao Kim, sao Mộc long lanh trên cao, vừa là sao Kim, sao Mộc mà Phượng đã hạ phi thuyền xuống quan sát. Phượng đã gửi cho ông ta mười một lá thư, lẽ ra Phượng phải đòi lại mười một bài học, ai dè mới tới bài thứ ba…
Phượng như mơ thấy có con chim xinh, xù lông cổ, muốn hét lên một tiếng bất bình, nhưng tiếng chim thoát ra vẫn là tiếng hót líu lo ngộ nghĩnh. Tiếng hai con chim đối thoại với nhau:
Vợ chú ba trông giống đầm Tây
Vợ chú ba cổ cao ba ngấn, tóc mây rậm rì
Vợ chú ba mặt vuông môi đỏ lông mày tô chì
Vợ chú ba đẹp thiệt đẹp nói cái gì cũng hay.
Hình như Phượng mỉm cười thì phải, và ý nghĩ lãng đãng hình dung khi chạm trán với trùng dương, có thể lênh đênh đói khát, có thể thuyền lật úp, có thể gặp hải tặc Thái Lan…
Có tiếng nói bên tai Phượng:
- Dậy cháu, đến giờ rồi!
Bà chủ nhà đã đứng bên trìu mến nhìn
Phượng như nhìn chính con gái mình sắp ra đi. Phượng nắm lấy tay bà như cùng một lúc nắm cả tay má, tay ba, tay chị Trang. Bà vuốt tóc Phượng nói:
- Cháu đi, sóng yên biển lặng, nghe!
Phượng rơm rớm nước mắt, cúi xuống nhấc chiếc sắc xách tay thật nhẹ của mình. Sáng sớm hai hôm trước đây, Phượng cũng rưng rưng nước mắt với chiếc sắc nhẹ này, lẳng lặng ra đi; má và chị Trang hẳn cũng rưng rưng nước mắt, tự ý lánh mặt…A